Nguồn duy nhất tỏa sáng trong căn lều là ngọn nến cắm ở cổ một cái chai trước đựng rượu vang. Trước khi rời khỏi quán trọ ở Tarbes, may Genevieve lại bỏ một bao diêm vơi vào túi áo, và họ phải châu dầu lại đánh mãi mới bật lên được tia lửa từ thành bao diêm đã quá cũ. Đến khi châm được ngọn nến, lửa cứ bập bùng chỉ chực tắt.
Dù sao cũng tạm đủ để Janet khám kỹ cho bạn. Tuy không thể cởi quần cho Keja vì chân cô bị phù khiến hai ống quần căng chật, nhưng Janet cuối cùng đã xác định là Keja đau đẻ và cơn co thắt đang diễn ra theo khoảng cách nửa giờ một lần. Genevieve hỏi:
- Kéo dài trong bao lâu nữa?
Janet đáp :
- Khó xác định lắm. Có người phải rặn 10, 12 tiếng đồng hồ, có người thì đẻ nhanh hơn.
Mọi người sửa sang lại áo quần cho Keja. Keja cũng cố đỡ cho các bạn, nhưng hễ mỗi lần cử động, cô lại nhăn mặt đau đớn. Lúc nãy, Janet định cởi quần áo cho bạn, khi đụng đến chiếc khăn quàng, Keja đã ngăn lại và lắc đầu.
Genevieve nói:
- Nếu như có bùa thiêng gì thì chính là lúc này cần đến đấy.
Trong những tiếng đồng hồ tiếp theo, ba cô gái loay hoay sửa soạn và thay nhau ngồi trông Keja. Những cơn co thắt cứ mau dần. Giữa những cơn đó Keja lim dim mắt như ngủ nhưng chỉ một lát sau lại choàng mở mắt ra và nhăn nhó vì cơn co thắt tiếp theo. Đến gần sáng thì những cơn co thắt chỉ còn cách nhau mười đến mười hai phút.
Cô gái Anh nói:
- Bây giờ phải đưa chị ấy đến bản làng nào ngay càng nhanh càng tốt.
Họ ra khỏi túp lều thì trời bắt đầu sáng và họ nhìn thấy một số nóc nhà cách chừng một dặm. Đây chính là nơi mà Casimir đã nói, tên là bản Irati. Bản như lọt thỏm trong tuyết. Các mái nhà đều phủ tuyết dầy và xung quanh đó chỉ có tuyết trắng xóa.
Các cô gái dìu Keja tiến đến ngôi nhà đầu bản. Chó sủa vang và cánh cửa gỗ hé mở. Một cụ già tóc bạc trắng, mạc chiếc áo ngủ tay cầm khẩu súng ngó ra. Ông cụ quát bằng tiếng Tây Ban Nha:
- Đi ngay, không ta thả chó ra cắn bây giờ.
Janet vội trả lời bằng tiếng Tây ban Nha:
- Chị này sắp đẻ, cụ làm ơn giúp cho.
Cụ gài quát:
- Ta bảo rồi! Đi ra ngay!
Janet năn nỉ:
- Không có người đỡ, chi ấy chết mất.
Cụ già nhìn Keja nhưng còn nghi hoặc, tay vẫn giữ khẩu súng. Nhưng may đúng lúc ấy một bà già từ trong bước ra, đẩy ông cụ sang một bên.
Bà già quát với giọng món mém của người rụng hết răng.
- Ngu!.. Có đi mời bác sĩ Dominquez ngay không! Bảo ông bác sĩ là có ca cấp cứu. Nhưng xích con chó lại đã, để các cô ấy vào nhà.
Đợi ông già xích chó xong, bà cụ mở rộng cánh cửa cho các cô gái vào. Ông cụ đã mặc xong áo dạ và đội mũ nồi, đợi các cô vào xong, bèn chạy vào trong xóm.
Gian phòng rất rộng, nền lát đá, một lò sưởi đồ sộ, lửa cháy đùng đùng. Đồ đạc mộc mạc đơn giản cùng một số dụng cụ nông nghiệp.
Keja được các bạn đặt ngồi xuống sàn, lưng dựa vào tường, cô cố ghìm cơn co thắt đang rung chuyển cả người cô. Lúc này các cơn đau mau hơn, chỉ hai hoặc ba phút là cơ thể cô lại rung lên bần bật. Tiếng động từ gác xép vọng xuống và lát sau bà cụ bước trên đó xuống, ngồi vào ghế tựa. Bà cụ an ủi Keja rằng ông bác sĩ sẽ đến ngay bây giờ. Rồi không nói gì thêm, bà cụ đi ngay vào trong nhà. Chắc đó là bếp, bởi các cô gái nghe thấy tiếng loảng xoảng của nồi xoong. Janet hỏi:
- Chị cố gắng chịu được không?
Keja gật đầu.
Cô gái Anh chạy vào bếp, lấy con dao dưới thành cửa sổ lại. Cô không giải thích gì hết, lật áo Keja, rạch ngay cạp quần, lôi ra những hạt ngọc giấu trong đó: ba viên ngọc bích và ba viên hồng ngọc rất to.
Nghe tiếng chân bước, Janet nhét ngay vào túi rồi quay ra chỗ lò sưởi, đúng vào lúc bà cụ bưng ra một khay thức ăn.
Bà cụ nói và đặt khay lên bàn cùng với chồng đĩa.
- Thức ăn không nhiều nhưng nóng sốt.
Các cô gái, trừ Keja, hau háu nhìn bà cụ múc món khoai bốc khói, nước xốt màu đỏ quạch ngon lành, bánh mì và một chai rượu vang ngâm đinh hương.
- Còn đây là dành cho cô gái sắp làm mẹ.
Bà cụ vừa nói vừa bưng ra cho Keja một bát sữa nóng. Lúc này Keja vẫn ngồi dựa lưng vào tường. Bà nói tiếp:
- Tôi có đổ thêm một ít mật ong sẽ giúp cô chóng lại sức.
Bà cụ làm dấu, mắt ngước nhìn về phía bức vẽ đức bà Đồng Trinh treo trên tường đối diện.
Janet hỏi:
- Cụ có chỗ nào để bọn cháu nằm không ạ?
Bà cụ gật đầu về phía vòm cuốn phía cuối gian phòng:
- Đây là nơi con trai tôi vẫm thường ngủ.
Trong lúc bà cụ khuân những bao tải hành khô, và khoai tây chứa trong căn phòng nhỏ đó ra, Janet, Anna cùng Genevieve dìu Keja lên giường, đúng lúc đó bà cụ đang đặt lên đó mấy chiếc gối và trải một tấm khăn ngày trước chắc loè loẹt nhưng bây giờ đã phai gần hết. Khi mấy cô cởi quần áo cho bạn, họ thấy khắp cả phần dưới người của Keja đẫm nước tiểu.
Janet hỏi:
- Có nước để chị ấy lau rửa và chúng cháu tắm không ạ?
Bà cụ đáp:
- Tất nhiên là có. Tôi biết các cô đi trong núi tất vất vả lắm. Ông lão chồng tôi một lần lạc trong đó một tuần, mà khi về đến nhà hôi hám hơn con lợn.
Bà cụ quay ngay vào bếp, lát sau bưng ra một thùng kẽm to, đặt trước lò sưởi rồi quay vào trong nhà.
Anna nói:
- Tôi đâm quên mất là trên đời còn những người tốt như thế này.
- Chắc bà cụ đã giúp nhiều dân chạy loạn qua đây. Chúng ta không phải là những người đầu tiên đến nhờ vả cụ.- Genevieve nói.
- Chị nói thế có ý gì phải không?
- Không ai giúp không hết.
- Chẳng lẽ chị không thể một lần nghĩ rằng có những người tốt hoàn toàn vô tư hay sao?
Cô gái Pháp chưa kịp trả lời thì bà cụ đã khệ nệ xách ra một bình to đầy nước, đổ vào thùng kẽm, rồi đưa Janet một cục xà phòng nhà làm và bảo:
- Để tôi lấy khăn cho các cô.
Cô gái Anh cảm thấy hơi ngượng vì cô gái Pháp nói đúng. Bà cụ chủ nhà rõ ràng là rất tốt. Mà bà cụ hy vọng được đền đáp bằng cái gì cơ chứ? Đúng là các cô vẫn còn số ngọc và số ngọc đó đổi ra tiền peseta thừa sức trả công cho cụ, bác sỹ và bất cứ ai khác, để họ có thể sống đầy đủ hàng tuần lễ, thậm chí hàng tháng, nếu số ngọc kia bán được đúng giá trị thật của chúng. Nhưng nếu đem số ngọc đó ra trả họ thì một vấn đề khác đặt ra cho mấy cô gái, y hệt vấn đề họ vấp phải hôm ở thành phố Tarbes bên kia biên giới, nghĩa là họ sẽ trở thành mục tiêu cho kẻ xấu trong bản làng này ngó tới. Không nghĩ đến bài toán hóc búa ấy nữa, Janet quay sang lau rửa cho người Keja và bón sữa pha mật cho bạn.
- Có một thứ tôi muốn giao cho chị- Keja nói rất nhỏ.
Nhặt lên cái áo rơi xuống nền nhà, Keja lấy trong túi áo chiếc lắc bằng vàng.
- Đây là bùa hộ mệnh rất linh thiêng tôi đã tặng anh Kandalman. Tục lệ của người Digan chúng tôi quy định, chiếc lắc này chỉ được giữ ở trên người được tặng nếu không thì phải trả về chủ cũ, hoặc truyền lại cho con. Nếu như tôi không sống được..
- Chị không được nghĩ thế, Keja! Chị sẽ sống.
- Tôi nhờ Janet giữ chiếc lắc sau này trao lại cho con tôi.
Keja ấn chiếc lắc vào tay bạn và cô gái Anh chưa kịp nói thì cửa ngoài mở và cụ chủ nhà bước vào cùng với một người lạ.
- Tôi là bác sĩ Hetor Domiquez- người lạ tự giới thiệu bằng thứ tiếng Pháp rất nặng. Vừa nói ông vừa cúi chào các cô gái lúc này đã lau rửa xong cho Keja, đang tắm cho bản thân mình.
Ông bác sĩ nói tiếp:
- Tôi được cụ Manuel cho biết ở đây có ca cấp cứu.
Sau đó, ông lấy trong túi ra cặp kính gọng sắt, gác lên cái mũi rất to rồi nhìn về phía Keja lúc này đang nằm trên giường kê dưới vòm cuốn của ngôi nhà. Janet chạy đến bên cạnh ông bác sĩ đang khám cho bạn mình. Điệu bộ ông ta trịnh trọng và khách sáo, nhưng Janet không ngờ một bác sĩ nông thôn mà cách khám lại tỉ mỉ và thận trọng đến mức này. Những ngón tay của ông rất nhẹ nhàng đặt lên da người phụ nữ có thai.
Ông ta nói:
- Bà đây bắt đầu đau từ lúc nào?
Janet đáp:
- Khoảng tám giờ trước đây.
- Nước ối ra lúc nào?
- Rạng sáng.
Ông ta lắc đầu:
- Bà đây rất yếu sức. Giá như mang được đến trạm xá thì tốt hơn nhưng dọc đường rất có thể nguy hiểm. Bà có kinh nghiệm nào trong việc đỡ đẻ không?
- Tôi đã từng là y tá ở bệnh viện.
- Thật ư?
Ông bác sĩ nhìn Janet bên trên cặp mắt kính, rồi quay sang người sản phụ. Ông ta nói với cô gái Anh:
- Tôi rất cần bà giúp một tay. Tình hình đang khẩn cấp không thể chậm trễ một giây. Ai lấy giúp chậu nước nóng? Có bao nhiêu khăn sạch thì đem hết ra đây cho tôi.
Ông cụ chủ nhà đi khuất vào nhà trong, kêu rằng phải trông nom đàn súc vật, vì bà chủ thường ngày vẫn lo việc vắt sữa, nhưng hôm nay phải ở nhà để đun nước và chuẩn bị khăn sạch cho bác sĩ.
Keja vẫn mở to mắt. Bắt gặp luồng mắt của Anna, cô khẽ ra hiệu bảo Anna đến bên giường. Tháo dải khăn màu sặc sỡ quấn ở cổ, Keja trao cho Anna và nói:
- Chị tìm chỗ nào có nước chảy thì ném hộ tôi xuống đó. Làm như thế những lời ước nguyện của tôi sẽ thành sự thật.
Anna ngập ngừng một chút., nhưng nhớ lại rằng Keja đã từng kể cô biết người Digan rất tin vào bùa ngải, thần chú, cô bèn cầm dải vải đi ra ngoài, tìm một khe núi có dòng nước nguồn chảy mạnh.
Lúc này trời đã giữa trưa, nhưng mặt trời vẫn lẩn sau đám mây xám và quang cảnh lúc sáng các cô nhìn thấy bây giờ đã bị bao phủ dưới một làn sương dày đặc. Tới khe núi, Anna quăng dải vải đã bạc màu xuống dòng nước đang chảy xiết. Dải vải nổi lên mặt nước, quay tròn theo dòng nước một lát rồi mới chìm xuống dưới lớp băng dày trôi nổi trên mặt suối.
Khi Anna về đế nhà, trời đã bắt đầu mưa tuyết. Cô rảo bước nhưng đột nhiên đứng sững lại vì một tiếng thét rất to vang tới. Tiếng thét như của một con lợn bị chọc tiết phát ra từ trong nhà. Bước vào nhà, Anna thấy mọi người đang xúm xít trong căn phòng nhỏ dưới vòm mái, nơi Keja nằm. Janet khóc nức nở còn Genevieve thì mặt cắt không còn giọt máu. Thậm chí bà cụ già cũng đang lau nước mắt. Anna chạy vội đến và hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra.
Keja nằm dạng hai chân, và nằm giữa hai đùi của cô là đứa trẻ sơ sinh, vẫn còn dính với mẹ nó bằng sợi dây rốn. Bác sĩ Dominiquez cắt dây, rồi cầm hai chân đứa trẻ, nhấc lên vỗ mạnh vào mông nó. Đứa trẻ vẫn im lặng nhưng một lúc sau khi ông ta đạp nó một lần nữa thì nó khóc thét lên và cứ thế tiếp tục khóc oe oe oe.. Ông ta đưa nó cho Janet để cô quấn nó vào một chiếc khăn bông rây máu. Bây giờ ông ta mới sờ tay vào mạch Keja, nhìn vào mắt cô rồi kéo tấm khăn che mặt cô.
Ông ta nói:
- Bà ấy đã hoàn toàn kiệt sức.
Anna hỏi:
- Đứa trẻ thế nào?
- Con gái! Đẻ non ba hoặc bốn tuần gì đó. Nhưng nó hoàn toàn khỏe mạnh- Janet đáp.
- Lạy chúa!- Anna ngắm đứa trẻ và ngạc nhiên thấy mặt nó nhăn nhúm.
Bác sĩ rửa tay, mặc áo khoác và đưa mắt nhìn xuống con người đắp tấm chăn. Ông nói:
- Tôi không thể hiểu nổi làm sao mà bà ấy có thể giữ được đến tận lúc này. Đúng là một phụ nữ quả cảm. Mang thai to như thế mà lặn lội vượt qua một rặng núi lớn thì đúng là một cực hình. Chắc hẳn là bà ấy phải tha thiết giữ cái thai bằng được để đứa trẻ có thể ra đời.
Sau khi ông ta ra về, khắp nhà bao trùm một không khí lặng lẽ. Mấy phụ nữ lúc này đã lau nước mắt. Anna hỏi:
- Ta đặt tên cháu là gì bây giờ?
- Janna- Genevieve đáp.
Mọi người ngẩng lên ngạc nhiên nhìn cô.
- Bởi tên đứa bé nên là sự kết hợp giữa Janet và Anna.- cô cắt nghĩa- Tôi đã nghĩ đến chuyện này từ hôm chúng ta đang còn loanh quanh trên núi. Tôi nghĩ rằng tên của đứa bé phải mang tên của những con người đại diện cho tinh thần của những ai chiến đấu chống Đức trong những ngày cuối cùng tại khu Do thái. Hai chị là bộ phận của những con người đó và lấy tên của hai chi đặt cho đứa trẻ chính là để tỏ niềm hy vọng rằng những người hy sinh sẽ không bao giờ bị quên lãng.
Anna và Janet nhìn nhau, cả hai rõ ràng là rất xúc động. Chưa ai kịp trả lời thế nào thì bà chủ nhà đã bưng vào một bát sữa nóng cho đứa bé, bằng cách nhúng ngón tay út của bà cụ vào sữa pha mật rồi đưa vào miệng cho đứa trẻ mút.
Bà cụ nói:
- Trong làng này có chị vừa bỏ mất đứa con mới sinh. Bác sĩ Dominquez sẽ nhắn chị ta đến đây. Sữa chị ta rất tốt. Chỉ cần trả ít tiền cho chị ta là chị ta sẵn sàng cho đứa trẻ bú.
Được ít sữa vào bụng, cô bé tí hon xem chừng thoả mãn, thôi không khóc nữa mà ngoan ngoãn để bà già đưa lên gác xép.
Khi còn lại mấy chị em, Genevieve hỏi:
- Chúng ta sẽ trả tiền chị vú thế nào?
Janet không trả lời. Cô đã trả công ông bác sĩ viên bích ngọc nhỏ nhất mà cô đã lấy trong cạp quần của Keja, bây giờ chỉ còn năm viên. Cô không muốn thế nhưng ông bác sĩ đòi phải trả tiền trước thì mới đỡ đẻ cho Keja và Janet buộc lòng phải đưa viên ngọc ra.
Chắc chắn là chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ, tin kia sẽ lan truyền khắp bảnlàng, bởi khi chị vú đến, chị ta sẵn sàng cho đứa trẻ bú nhưng đòi một số tiền kinh khủng. Rõ ràng chị ta đã biết trong làng này chỉ mình chị ta có sữa mẹ. Liền sau đó, đến ông thợ cắt tóc của làng cũng tìm đến, tình nguyện làm người đứng ra lo mai táng Keja và cũng nêu ra khoản tổn phí lớn hơn rất nhiều so với gái bình thường người ta trả cho việc tương tự.
Janet chấp nhận cả hai việc đó bởi vì đứa trẻ sơ sinh cần được bú và Keja cần được chôn cất, nhưng cô từ chối không đưa ai một viên ngọc nào hết, theo như họ đề nghị. Cô nói dối họ rằng cô chỉ còn lại một viên cuối cùng và hứa sẽ thanh toán với họ ngay sau khi cô dùng nó để lập một tài khoản tại ngân hàng của xã.
Cô không phải mất công đi tìm chi nhánh ngân hàng đâu xa. Người giám đốc chi nhánh tìm đến Janet lúc cô đứng bên huyệt của Keja trong nghĩa trang nhỏ bé đằng sau nhà thờ của làng.
Giữa lúc cha linh mục đọc lời tiễn biệt cô gái xấu số để linh hồn cô được về với Thượng đê thì ông giám đốc kia đến và xưng danh.
- Tôi là ngài Ortega, đứng đầu chi nhánh ở địa phương này của ngân hàng Madrid.- ông ta nói thầm vào tai của Janet, đúng lúc cha linh mục rẩy nước thánh lên huyệt .
Janet làm như không thấy ông ta nói gì, vẫn nhìn xuống bình tro đựng di hài của người bạn gái cho đến khi cha linh mục ra về, và cô ở lại làm nốt những việc cuối cùng mà cô coi là bổn phận đối với người bạn bạc mệnh. Cô mở chai vang cô mang trong nhà ông bà cụ nông dân ra đây, dốc hết lên di hài của bạn.
“Ngài Ortega” nhận xét:
- Đây là một tục lệ nước của bà phải không? Vậy bà là người Ba lan?
Janet lắc đầu, và cô nghĩ rằng chắc ông này đã rình và nghe lỏm cô nói chuyện bằng tiếng Ba lan với các bạn gái.
Janet nói:
- Tôi là người Anh, còn hai chị bạn tôi, một người là Pháp còn một người là người Mỹ.
Ortega nói:
- Tôi biết, và bà biết ai vào đất Tây Ban Nha mà không có hộ chiếu hợp lệ là phạm pháp không?
Janet đáp:
- Tôi biết.
- Nếu vậy, xin cũng tự giới thiệu, tôi là ủy Viên của viện công tố..
Janet ngắt lời:
- Nếu vậy chắc hẳn ông sẽ liên hệ với đại sứ quán của mấy nước chúng tôi chứ?
Ông giơ hai bàn tay tỏ ý rất tiếc:
- Tôi e sẽ phải làm như thế mất. Trời mưa tuyết suốt một tuần lễ nay và đường dây điện thoại liên lạc với thành phố Pamploma bị đứt. Nhưng bà các bạn bà cứ yên tâm làm khách quý của chúng tôi cho đến khi nào mưa tuyết chấm dứt và đường dây điện thoại được nối lại.
- ở đây thứ gì cũng đắt đỏ.
- Tôi có nghe- Ông ta ra vẻ buồn rầu, rồi lắc đầu nói- Dân làng Irati rất nhân hậu, khốn nỗi cuộc sống của họ lầm than quá và họ đã học được cách kiếm lời bằng việc giúp đỡ người đến đất nước chúng tôi bằng đường núi. Tham lam là thói tật chung của nhân loại. Bà có công nhận như thế không?
Thấy Janet không trả lời, ông ta tiếp tục:
- Bác sĩ Dominiquez đã kể lộ chuyện của ông ta khi say rượu. Bà đã phạm sai lầm khi trả cho ông ta một viên ngọc quý như thế.
- Lúc đó trong túi tôi không có đồng tiền nào hết.
- Sao bà không tìm đến tôi?
- Thì bây giờ ta đã gặp nhau rồi đấy thôi!
- Tôi rất vui lòng mở cho bà một tài khoản tín dụng.
- Thế chấp bằng gì?
Ortega nói:
- Đề nghị của tôi rất đơn giản. Bà gửi số nữ trang của bà chỗ chúng tôi và chúng tôi cho bà vay bao nhiêu tiền cũng được, để bà chi dùng trong thời gian ở lại vùng Irati này.
- Khi nào chúng tôi rời khỏi đây thì sao?
- Tiền của bà sẽ được trả lại cho bà.
- Trừ đi khoản chúng tôi đã vay của các ông chứ?
- Tất nhiên là như thế.
- Cộng với lãi suất?
Ortega nhún vai:
- Cũng được. Nhưng tốt nhất là không đòi lãi.
- Tôi bằng lòng- Janet nói, biết rằng cô không còn cách nào khác- Vậy chúng ta tiến hành chứ?
Janet đi theo ông ta đến một ngôi nhà thấp nhưng phần mái rất to và có một hàng chữ kẻ trông oai vệ: “ Ngân hàng Madrid”. Đồ đạc rất ít ỏi, chỉ có cái quầy, một tủ đựng hồ sơ và một két sắt kiểu cổ rất lớn. Đưa Janet vào nhà, Ortega dẫn cô vào bên trong, mời cô ngồi vào chiếc ghế bành ở chỗ cô có thể nhìn qua cửa sổ ra ngoài đường.
Ông ta hỏi:
- Bà có mang theo nữ trang đấy không?
Thoạt đầu Janet chỉ đưa ra một viên ngọc, viên nhỏ nhất trong hai viên bích ngọc còn lại, quên mất rằng cô đã chót đưa cho chị vú và ông lo tang lễ viên hồng ngọc. Ortega thở dài làm ra vẻ đau khổ:
- Thưa bà, tôi là người làm ăn đứng đắn. Tốt nhất cho cả bà lẫn tôi là bà hãy tin tôi. Bà gửi thứ gì trong ngân hàng chúng tôi sẽ cấp giấy biên nhận cho bà đàng hoàng.
Janet hiểu rằng lão ta đã biết rằng cô còn ngọc nữa. Và nếu như thế mà cô vẫn cứ chơi cái trò úp úp mở mở thì thật phi lý, thậm chí còn nguy hiểm. Ortega rất có thể sẽ khai báo để cô và hai bạn cô bị bắt và khi đó sẽ chẳng còn hy vọng gì hết. Cô bèn đặt cả mấy viên ngọc lên bàn.
Lúc này đã là xé chiều và nắng chiếu chếch qua cửa sổ rọi vào ba viên ngọc làm chúng óng ánh lên rất đẹp. Ortega như bị hút mất hồn vía. Lão nhìn vào lúc lâu rồi mới lấy giấy bút viết biên nhận, trao cho Janet cùng với một sấp giấy tiền peseta lão lấy trong ngăn bàn ra.
Janet về đến nhà ông bà cụ nông dân, thấy Anna và Genevieve đang sốt ruột chờ. Họ cùng đếm số tiền và tính ra chưa bằng một phần ba giá trị của viên ngọc nhỏ nhất.
Anna nói:
- ít nhất chúng ta cũng có thể làm chị vú mừng rỡ.
Genevieve nói thêm:
- Cả bà cụ chủ nhà nữa. Bà cụ nói đi nói lại là nếu chúng ta không trả tiền cụ ngay thì mời chúng ta đi nhà khác.
Janet uể oải:
- Tôi vẫn giấu đi một viên hồng ngọc. Đề phòng lão Ortega giở trò thì còn có cách cứu vãn.
Không muốn bàn luận thêm về tình hình phức tạp này, ba cô bạn đi ngủ. Nhưng sáng hôm sau họ vẫn cứ quay trở lại vấn đề này, lúc vẫn còn trùm tấm chăn nằm trên đống lửa, cạnh đứa trẻ sơ sinh đang nằm trên chiếc nôi.
Đêm hôm sau, vào nửa đêm, cánh cửa bị kẻ nào bên ngoài đá tung. Bước vào bốn tên dân vệ, cầm tiểu liên trên tay. Chúng quát mấy cô gái dậy và sau đó một lúc, chúng dồn cả ba cô cùng đứa trẻ sơ sinh vào thùng sau của chiếc xe nhà binh.