Buổi biểu diễn được ấn định vào chiều chủ nhật. Suốt cả ngày thứ bảy, hai đứa trẻ hăng hái làm việc. Chính bản thân Henry rất vui mừng làm một việc mới, tỏ ra có một tinh thần không ngừng sáng tạo. Quên đi những âu lo sợ hãi của mình, cậu lao vào việc thực hiện những kế hoạch mà cậu đã cùng John miệt mài xếp đặt.
Bây giờ, chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng đã hoàn tất. Tin tức về một biểu diễn được tổ chức với sự xuất hiện của hồn ma đã được truyền đi như một mồi thuốc súng. Ai cũng muốn tham dự. Tuy nhiên, John và Henry, trong chuyến đầu tiên đi vào thế giới các linh hồn này đã quyết định chỉ chấp nhận các bạn trẻ hơn, và do đó dễ gây xúc động hơn. Sau đó, chúng sẽ tổ chức những buổi biểu diễn khác dành cho những đứa trẻ cùng trang lứa như chúng với một giá cả cao hơn.
John đã quyết định mặc quần áo kiểu Ấn Độ. Thật ra cậu mặc một bộ quần áo rất buồn cười mà cậu thường mặc để biểu diễn ảo thuật. Cậu không có một khái niệm nào về bộ quần áo của các ông đồng bà cốt. Nhưng bộ quần áo của cậu có vẻ hợp với cậu trong vai trò mà cậu sắp diễn. Bộ quần áo của cậu gồm một bộ áo ngủ màu sắc chói chang đã được bà ngoại nó tặng cho ông Jones, bố của John. Ông Jones đã từ chối mặc, ông nói với vợ mình:
- Dù sao em cũng không muốn anh mặc chiếc áo này! Nếu có ai thấy anh!
Và dĩ nhiên, bà Jones, ít ra trong thâm tâm, chỉ có thể đồng ý với chồng mình.
John quấn quanh đầu một chiếc khăn tắm mà theo cậu hoàn toàn giống một khăn quấn đầu kiểu Ấn Độ, cậu cắm trên chiếc khăn một cái lông chim đà điểu màu hồng đã tìm thấy ở đáy một chiếc rương. Để hoàn chỉnh bộ trang phục nóng bỏng này cậu mang một cái thắt lưng to bản màu xanh ngọc bích với mực đen cậu vẽ một bộ rây ria mép và râu cằm đen. Cậu tự hài lòng.
Với sự giúp đỡ của Henry, John đã sắp xếp một hầm rượu của bố mẹ cậu. Cậu treo ở một cây cột trên trần một tấm bạt và cái chăn cũ. Cậu đã tạo được một nơi khá tối tăm cho một buổi biểu diễn thông linh. Điều kiện thật tốt đẹp.
Henry vén những cái chăn sang một bên và xuất hiện. Cậu mặc một bộ quần áo Râu Đen! Và phải nhận ra rằng trong bộ quần áo này cậu tạo ấn tượng không kém gì John. Cả hai đứa trẻ đã tháo vát tìm cho mình một bộ râu đen lớn mang bên lỗ tai bằng những sợi dây đồng nhỏ mà chúng tự làm lấy. Sự giả mạo sẽ hoàn hảo nếu như thỉnh thoảng bộ râu không đổi chỗ và rơi xuống. Henry đã mặc một chiếc áo khoác ngoài lớn màu tối, dài đến nửa đùi, cũng thảm thương như bộ râu. Phần còn lại, cậu mặc chiếc quần ngắn hướng đạo sinh và đội một chiếc mũ cũ của bố cậu, cậu vén và ghim túm hai bên vàng mũ lên tạo ra hình một chiếc mũ ba sừng. Cuối cùng cậu đã mượn, nếu có thể nói là như vậy, của em gái cậu một chiếc thắt lưng to bản bằng da có khóa bằng bạc. Cậu xỏ một cây súng ngắn bằng nhựa to đùng qua thắt lưng.
- Nếu như em gái tớ mà biết được! – Henry lập đi lập lại vui sướng.
- Tớ thì tớ thấy cậu tuyệt vời lắm. – John nói với bạn.
Cậu bé nhìn quanh mình, hài lòng ngắm một lúc những cái chăn và tấm bạt dùng thay cho vải phủ, rồi quay sang Henry:
- Cậu để bột ở đâu vậy? Khán giả sắp đến rồi.
- Bột à ? – Henry hỏi lại. – Thật vậy sao John, cậu không bỏ nó được sao?
- Cậu đùa hả ! – John kêu lên. – Cậu vén những bức màn và cúi đầu đi vào phòng trong.
- Nào, Henry, cậu để nó ở đâu?
Henry theo bạn vào, thở dài chán nản và cắm bộ râu nơi một tay và tay kia thò xuống dưới một chiếc bàn tròn đặt chính giữa phòng và chìa ra cho John một cái rây đầy ắp bột bắp. Một ngọn đèn dầy hỏa treo trên trần tỏa ánh sáng yếu ớt, quanh bàn được đặt những thùng gỗ và ghế.
John lắc cái rây cho đến khi cái bàn được phủ một lớp bột mỏng và dưới ánh đèn có ánh lên màu vàng của chất lưu huỳnh.
- Đừng quên, – John nói với Henry. – Chỉ xuất hiện khi tớ đọc: “Aum… aim… aum…”.
Cậu nhíu mày và kéo trong túi ra mảnh da thuộc. John lầm rầm đọc: “Mananan… aum… verlum”. Cậu nhìn Henry đang bối rối với những sợi đồng của bộ râu, chúng chỉ chực tuột ra khỏi lỗ tai của cậu.
- Cậu phải nhớ, không được gây ra một tiếng động nào, bò tới rung chiếc bàn.
Cậu quan sát bộ râu giả:
- Muốn giữ lấy nó, tại sao cậu không dán băng keo?
John đặt cái rây xuống đất rồi giấu nó vào một bức màn, cậu nói thêm:
- Và đừng quên bật chiếc đèn pin của cậu lên nhé, cậu đã lấy nó chưa?
- Dĩ nhiên là có! – Henry đáp. – Nó đang nằm trong túi của tớ đây.
John bắt đầu bài đọc thêm một lần nữa những câu thần chú. Nhưng cậu chỉ đọc bằng mắt và môi chỉ khẽ động đậy. Trong ánh sáng nhợt nhạt chiếu xuống từ trần nhà mảnh da thuộc có vẻ cũ kỹ hơn trước.
Henry kéo một cái ghế, ngồi xuống chăm chú nhìn bạn. Cậu cảm thấy lo sợ khi màn trình diễn sắp đến.
- Cậu biết không, John. Tớ vẫn không thích cái trò này một chút nào cả. Bữa trước, bố tớ nói về một linh hồn rất dữ dội đã ám ngôi nhà của ông bà ấy.
John bỗng ngẩng đầu lên.
- Một cái gì?
- Một linh hồn hung dữ!
- Cậu lại sáng chế ra cái gì nữa đây?
- Cậu chưa bao giờ nghe nói đến những linh hồn hung dữ sao?
John nhìn Henry với một cảm giác vừa khinh bỉ vừa quan tâm. Cậu bé từ từ cuốn mảnh da thuộc lại rồi bỏ vào túi.
- Dù sao cậu cũng không tin những trò tầm phào đó phải không?
- Có chứ! Tớ tin. – Henry phản đối. – Bà của tớ có một cái giường với những chiếc cột hình trụ, mỗi đầu trụ có một quả bóng tròn bằng đồng. Những lúc không có ai ngủ trên giường, sáng sớm hôm sau những quả bóng đồng nằm trên gối. Nhưng khi có ai ngủ trong phòng thì chẳng có chuyện gì xảy ra cả.
John nhìn chăm chú vào mặt Henry rồi tuyên bố:
- Câu chuyện này thật nhảm nhí.
Henry rời khỏi chiếc ghế đang ngồi.
- Cậu cứ hỏi bố tớ đi. Ông ắt sẽ biết cách thuyết phục cậu. Bố tớ bảo ông ấy biết hàng tá chuyện thuộc loại này trong nhà bà của ông. Ví dụ như bà suýt bị thiêu cháy ba lần.
- Vậy tất cả mọi chuyện đó kết thúc ra sao?
- Không ai mua ngôi nhà đó nên nó bị phá hủy.
- Và bố cậu gọi đấy là một hồn ma?
- Một linh hồn hung dữ. Vì nó không những làm tất cả lộn tùng phèo lên mà còn đập phá bàn ghế. Nó luôn để lại dấu vết ở các bức tường trong ngôi nhà.
John (hay đúng hơn là pháp sư Ấn Độ lừng danh Swami) lại rút mảnh da thuộc từ túi ra. Và bây giờ cậu nghiên cứu nó với một vẻ phân vân. Bỗng có tiếng chân đến cửa tầng hầm và những tiếng kêu vang lên:
- John! Henry!
Bị cắt ngang, John buộc phải từ bỏ việc cân nhắc xem buổi biểu diễn thông linh này có phải là một sự bất cẩn nguy hiểm không. Cậu bé quên hết những hồn ma và cả những linh hồn hung dữ. John lại cất mảnh da thuộc vào túi, và với giọng thôi thúc cậu nói nhỏ với Henry:
- Biến đi… nhanh lên! Tớ sắp cho chúng vào phòng!
Henry vội vàng chỉnh lại bộ râu giả rồi bước vào sau khung màn, trong khi John đứng thẳng người lên, đi về phía cửa tầng hầm và mở nó ra. Hai đứa con trai, bốn đứa con gái đi vào, vây quanh John và hỏi tới tấp.
- John, anh sẽ thuật cho bọn em nghe những câu chuyện hay, phải không?
- Ồ, John, tại sao anh lại đội chiếc khăn Ấn Độ này hả?
- John, Henry đâu rồi ?
Cô bé Judy, sáu tuổi, trẻ đẹp nhất trong bọn mở đôi mắt xanh to tuyên bố:
- John, anh không được làm em sợ đấy nhé. Mẹ em không cho phép đâu!
Đồng thời cô bé siết chặt tay cô bạn Joyce của nó chỉ trạc độ mười một hay mười hai tuổi.
John nhìn cô bé Judy, cậu ngạc nhiên quay sang Joyce:
- Tại sao em lại mang nó theo?
- Phải vậy thôi! – Joyce đáp. – Em phải trông nó mà!
- Nếu cô bé khóc nhè thì em phải đưa nó về nhà! Buổi biểu diễn này không dành cho em bé đâu nhé!
John quay lại bước về phía những tấm màn cũ vây lại. Bọn trẻ vẫn ồn ào đi theo cậu. Khi phát hiện ra căn phòng chỉ do những chiếc chăn cũ và một tấm bạt làm nên, chúng tỏ ra rất thất vọng. Chúng nghĩ sẽ có một cái gì đó đẹp hơn, ngoạn mục hơn nhiều và chúng hỏi tới tấp:
- John, tại sao không có sân khấu?
- John, sân khấu mà anh thường trình diễn ảo thuật đâu mất rồi?
- John, những chiếc chăn này là gì vậy?
- Chúng dùng làm gì vậy?
John không trả lời, cậu vẹt những tấm màn ra một bên. Bọn trẻ, từng đứa một đi vào “phòng”, ngay tức khắc tất cả hạ thấp giọng xuống, chỉ còn nghe những tiếng “Ồ!” “Á!” bị nén lại cùng với vài tiếng cười khe khẽ.
John cẩn thận đóng màn lại và trầm giọng ra lệnh:
- Tất cả hãy ngồi xuống quanh bàn.
Còn bản thân cậu ngồi vào chiếc ghế bành chạm trổ. Cậu ngồi thật thẳng người nhắm mắt lại như chìm vào một thoáng trầm tư sâu lắng.
Những đứa trẻ ngồi quanh bàn có cảm tưởng như có một bóng dáng đi lên dọc vách lều hơi giống vết mực thấm vào giấy. Trên bàn, chỉ có ánh sáng vàng vọt từ chiếc đèn tỏa ra như đang bồng bềnh trong không khí.
- Cậu có sợ không hả, Joyce? – Một cô bé hỏi.
Một cậu bé mà John và Henry thường gọi tên là “Tên Lém Mập”, bắt đầu hát nho nhỏ:
- Marry, người ta chờ em trong cây anh đào. Hãy đến hái trái anh đào. Hãy đến hái trái anh đào!...
Những tiếng cười vang lên. John nhảy dựng lên:
- Bọn các cậu có muốn tham dự một buổi biễu diễn thông linh không? Nếu muốn thì hãy mau im lặng đi! Nếu các cậu nói chuyện, tớ sẽ không làm gì cả!
John nhìn khắp cử tọa với một cái nhìn bốc lửa và nói thêm:
- Tớ không đùa đâu nhé!
Cô bé Judy ngây thơ hỏi:
- Thứ bột vàng vàng này là cái gì vậy?
Và trước khi kịp ngăn nó lại, nó đã đưa tay xáo tung lớp bột mỏng.
John quay về phía chiếc ghế chạm trổ mà cậu vừa rời đi, đưa mắt tìm nơi mà Henry đã hốt hoảng chỉ vào. Rồi bỗng cậu quay sang đối diện với đám khán giả trẻ tuổi.
- Tớ không thấy gì cả! Bọn các cậu có thấy gì không?
Tất cả những con mắt mở to, lắc đầu phủ định. Judy chợt kêu lên một tiếng sợ hãi và giấu mặt vào lòng của Joyce.
Phía sau chiếc ghế bành, bóng hình cao lớn của thuyền trưởng Râu Đen hiện lên và rõ dần ra! Những đường nét trên khuôn mặt của ông ta bị che khuất bởi khói của những mồi thuốc súng được đốt cháy quanh bộ râu của ông, và những bó tảo biển ẩm ướt lòng thòng xuống vai ông. Khi John vừa quay về phía Henry, lão hải tặc mỉm cười và nháy mắt.