Gió làm các khách du lịch nghẹt thở. Mặt đất đung đưa rồi biến mất. Giáo sư hét lên:
- Giữ cho chắc!
Bọn trẻ chỉ thoáng nghe thấy tiếng ông. Tiếng ầm ầm đều đều của cán hong và tiếng gió rít làm át mọi tiếng động khác.
Đầu tiên con ong bay cao trên mặt đất. Sau đó nó có vẻ bị nặng quá hay là có thể bị đau nữa. Ba cặp tay bám chặt lấy đám lông, ba cặp chân cứ mỗi lúc rẽ ngoặc lại thúc vào bụng nó và ngực nó.
Con ong hoa bắt đầu bay vật vã từ bên này qua bên kia, chắc là muốn ném các hành khách không mời xuống.
Nó hạ thấp dần, vừa bay vừa lắc mình nhưng không sao rũ bỏ gánh nặng được.
Valia chóng mặt, tim thắt lại.
Giáo sư sợ hãi ngó chừng cô.
Chỉ cốt sao cho cô bé tội nghiệp giữ cho cắhc đừng tay ra!
Đột nhiên con ong đập cánh mạnh hơn nữa.
Gió rít ù tai các khách du lịch.
Con ong hoa như một mũi tên lao xuống dưới.
Karik thoáng nghĩ:
“Thật là đáng tiếc nếu nó hạ cánh sơm quá. Ít ra cũng phải được nửa đường thi tốt!”
Mặt đất mỗi lúc một gần hơn nhanh chóng.
Giáo sư và bọn tre co chân lại để khi hạ xuống đặt chân lên vất gì cứng rắn.
Những ngọn câu của rừng cỏ mỗi lúc một gần hơn.
Và bây giờ những cái va chạm mạnh, một cái, hai cái, ba cái…
Một cái va nữa và các khách du lịch bắn ra khỏi khoang ngồi trải nệm em, rơi thằng xuống đất.
Bọn trẻ và giáo sư bị lăn tròng lộn qua đầu teen một bãi cỏ êm ái màu xanh lo có những mô đất và đồi núi cũng êm như vậy.
Cuối cùng khi lộn một vòng sau chót giáo sư bay tay vào bờ cạnh một tảng đá to và nhẵn.
Ivan Germogenovich đứng dậy. Ông vịn tay vào bờ cạnh tảng đá, vừa rên rỉ vừa tập tễnh đi xung quanh nó. Ông sờ mặt đá nhẵn nhụi và bằng phẳng giống như một cái cối xay đá, miệng lẩm bẩm:
- Kỳ là thật! Cái gì thế này nhỉ?... Ở kia có một tảng đá cũng tròn ye hệt… Lại thêm một tảng đá thứ ba và thứ tư…
Giáo sư khó khăn lắm mới trèo lên được một tảng đá và nhìn ngắm xung quanh mình. Trước mắt ông là một mảnh đất kỳ là. Nó giống như một bàn cờ. Những con đường cái dài màu xanh chạy cắt nhau từ cạnh này sang cạnh kia. Ông cúi xuống tảng đá tròn kỳ lạ, xem xét thật kỹ bề mặt màu đen bóng láng của nó và đột nhiên phán đoán táo bạo hiện lên trong đầu ông. Giáo sư đập tay vào trán:
- Cái cúc áo! Mình đang đứng trên cái cúc ái!... Còn mặt đất hình bàn cờ và con đường cái màu xanh là… chính là… Ô! Các cháu ơi! – ông gọi Karik và Valia lúc ấy đang ngồi trên mô đất kẻ sọc ô vuông hoa bóp cạnh sườn và đầu gối bị đâu – Các cháu ơi! Chúng ta gần như ở nhà rồi! Đây là cái áo khoác của bác.
Bọn trẻ sung sướng nhảy hết cả lên:
- Thế cái hòm?... Cái hôm với bột thuốc làm lớn trở lại? – Valia nóng nảy kêu lên.
Giáo sư đứng bên cạnh cái cúc áo chăm chú quan sát vùng phụ cận của chiếc áo. Ông tìm chiếc sào có khăn đỏ. Nhưng không thấy cây sào đâu cả. Ivan Germogenovich nhún vai:
- Lạ thật… Lạ quá đi mất!
Ông nhìn kỹ một lần nữa và bỗng thấy cây cột khổng lồ nằm dưới đất. Một đầu dẫn đi mãi tít xa về phía tây. Rừng cây giãn ra và đường thẳng phân ranh giới kéo dài mãi về nơi xã thẳm, hòa vào đường chân trời màu xanh.
- Nó đổ xuống rồi! Đồ kẻ cướp! Nó đổ xuống đây mà! Chắc mới đổ cách đi độ mươi phút.
Bọn trẻ đồng thanh hỏi:
- Cái gì đổ hả bác?
- Cột hải đăng… Nhưng chẳng hề chi. Chúng ta đã đến nơi rồi. Cái hom phải ở đâu đây… Ở bên cạnh cột hải đăng. Các cháu hãy đi theo bác nào!
Giáo sư phấn khởi chạy theo cái ve áo nhảy qua những cái khuyết và vấp vào những sợi chỉ. Karik lóc cóc chạy theo sau.
Đến chỗ gấu áo mọi người dừng lại cả. Khu rừng cỏ đang rì rào ở phía trước.
Xuyên qua những khoảng trống của cánh rừng họ nhìn thấy một tòa nhà màu vàng.
- Hoan hô! – Bọn trẻ sung sướng nắm tay nhau chạy bổ về phía cái hòm.
Giáo sư cũng chạy lại, vừa thở hổn hển vừa xoa tay xúc động nói:
- Thế đấy! Thế đấy! Cuối cùng đã chấm dứt mọi khổ đau! May mà chúng ta không sợ con ong hoa! Tuyệt thật! Giá như đi bộ thì chúng ta không thể đến cái hòm sớm hơn thế được! Các cháu thấy đấy, cây hải đăng chỉ đổ chỉ một vài phút trước khi chúng ta hạ xuống đất!... – Đúng thế! Dũng cảm – tức là hạnh phúc!
Giáo sư xoa tay lên vầng trán hói rồi xúc động nói:
- Như vậy, các cháu ơi! Một phút sau đây chúng ta sẽ trở lại to lớn như bình thường. Ở bên bức tường của hòm gỗ này cuộc du lịch đầy nguy hiểm gian truân của chúng ta đã kết thúc. Chúng ta đang đứng bên ngưỡng cửa của thế giới rộng lơn. Nhưng trước khi từ giã cái thế giới nhỏ bé này bác muốn nói với các cháu đôi lời… Các cháu đã nhìn thấy được rất nhiều điều trong ngày qua. Nhưng nói thật với các cháu các cháu chỉ nhìn thấy một phần nhỏ xíu của cái thế giới nhỏ bé này. Các cháu chỉ mới có đọc vài dòng trong quyển sách lớn có tên gọi là “thiên nhiên”. Và bác phải nói là những dòng này chưa phải là những dòng hay nhất đâu. Trong quyển sách “thiên nhiên” còn có những trang khác, đọc nó thì không sao dứt ra được.
Các cháu tạm thời chỉ thấy một mẫu tí xíu của thế giới kề cận ta… Thế giới này nhỏ bé, không dễ nhận thấy. Thế nhưng nó lại là một bộ hpận rất quan trọng của thế giới rộng lớn mà ta sống trong đó. Đời sống của nó gắn chặt với đời sống của chúng ta… Ít ra thì cũng chặt chẽ hơn nhiều so với sự hiểu biết của nhiều người.
Trong thế giới nhỏ bé này chúng ta có bè bạn và cũng có kẻ thf.
Tất cả ta cần phải biết rõ.
Rồi một lúc nào chúng ta còn trở lại đây. Chúng ta sẽ đến với một đoàn thám hiểm lớn trang bị từ đầu đến chân và sẽ chiếm lĩnh cái thế giới còn ít được nghiên cứu này.
Để làm cuộc viễn chinh đó ta chẳng cần tới chất lỏng làm bé người lại. Chúng ta sẽ đến với các ống kính hiển vi với kiến thức rộng lớn và kinh nghiệm của nhiều nhà bác học.
Sự kiên nhẫn là vũ khí của chúng ta.
Nhưng chúng ta sẽ nói kỹ hơn về chuyện này lúc đã trở về nhà rồi. Còn bây giờ chúng ta phải lo chuyện cấp bách nhất hiện nay: lớn trở lại bình thường.
Ivan Germogenovich bước lại bức tường của hòm gỗ dán. Ông dòm vào cửa sổ duy nhất, vui vẻ xoa tay nói:
- Mọi vật còn nguyên. Chui vào thôi, từng người một các bạn nhé. Các hộp đựng chặt bột làm lớn trở lại ở góc bên phải. Tiến hành đi thôi.
Karik và Valia theo nhau chui vào cửa sổ.
Giáo sư đỡ cho chúng vào và đã định chui theo đột nhiên một con bướm lấp lánh như có anh kim loại đậu trên thành hồm gỗ dán.
Đó là một con bướm rất nhỏ, chỉ lớn hơn giáo sư vài lần thôi.
Ivan Germogenovich ngước nhìn con bướm và đứng lặng người đi.
- Con bướm Ecophor sâu bướm câu ôliu – Ông thì thầm, cảm động đến nghẹn thở.
Ivan Germogenovich nép người vào thành hòm gỗ dán, hồi hộp căng thẳng như một người đi săn thấy con mồi quý hiếm ở gần.
Con Ecophor không để ý gì tới giáo sư, bò trên thành hộp qua trước mắt ông.
Tim Ivan Germogenovich đập manh.
- Đứng lại! – Ông hét to nhảy lên chộp lấy cánh con Ecophor. Con bướm cố giutwj ra và cả hai cùng lăn xuống đất.
Con Ecophor giãy giụa, đập cái cánh còn tự do, đạp chân vào ngực giáo sư. Nhưng Ivan Germogenovich không buông nó ra.
Ông nằm dưới đất bị con bướm đè lên nưhng vẫn ráng sức lực cố giữ lấy con mồi quý giá.
Ông quên hết mọi chuyện trên đời.
Điều đó cũng dễ hiểu thôi.
Trong tay ông là con Ecophor cây ôliu – loài sâu bướm nhậy rất hiếm ở vùng này, người đại biểu nhỏ bé nhất của bộ bướm cánh vẩy.
Làm sao mà con bướm chuyên sống ở vùng ấm áp lại có ở đây, trên thành hòm gỗ dán – điều này giáo sư không kịp nghĩ tới. Ông chỉ nhớ một điều: bộ sưu tập phong phú của ông trong hàng ngũ bướm thuộc họ sâu nhậy có đủ loại bướm phơi cánh dưới kính: cắn thảm, sâu bướm lúa, sâu bướm anh đào, sâu bướm sơn trà… nhưng đến nay vẫn còn thiếu con Ecophor – cây ôliu.
Bây giờ thì trong bộ sưu tập của ông sẽ có!
- Thôi mà, làm gì mà hăng thế! – Ivan Germogenovich cố thuyết phục con bướm bướng bỉnh đang kéo lê ông trên mặt đất, quyết thoát ra bằng được.
- Thôi… đủ rồi mà… Thôi đi mà.
*****
Trong khi Ivan Germogenovich vật lộn với con bướm sâu cây ôliu Ecophor thì Karik và Valia đi tới góc phải của hòm gỗ, nơi đặt hộp thuốc lớn trở lại.
Dần dần chúng quen mắt với bóng tôi mờ mờ.
Chúng nhìn quanh căn phòng trống rỗng với những bức tường trần trụi.
Ánh nắng xuyên qua chếch cửa sổ tròn rọi lên sàn. Những hạt bụi vàng quay lộn trong dải nắng và tia nắng giống như con đường sống động. Valia nhìn quanh nói:
- Ở đây cũng vui đấy chứ, anh Karik?
Karik không đáp. Cậu bước tới góc hòm để cái hộp trắng to như cái rương trên đó có phủ một lớp giấy dầu. Karik nói:
- Đây rồi!
Cậu leo lên cạnh hộp, gõ chân trần vào tường như đánh trống và chìa tay ra cho Valia.
- Nào, em leo lên đây.
Svl lêo lên và ngồi xuống bên Karik.
Karik hết sức xô cái nắp giấy dầu, khom mình xuống cái hộp và nói:
- Em hãy ăn và lớn trở lại đi!
Valia nói:
- Thế chúng ta không đợi bác Ivan Germogenovich hay sao?
- Không… Em biết thế nào không? Chúng mình lớn trở lại trước bác ây đi. Em thử nghĩ mà, lúc ấy sẽ thú vị lắm. Chúng to lớn rồi còn bác ấy thì vẫn bé tí.
- Được rồi, em đồng ý đấy! – Valia nói.
Cô nhanh nhẹn thò tay xuống dưới tấm giấy dầu lấy ra một nắm bột óng ánh như muối clorua Kali.
Cô đưa tay lên môi, mở miệng ra rồi đột nhiên hạn tay xuống quay lại hỏi Karik.
- Thế cần phải uống bao nhiêu để lớn trở lại?
- Càng nhiều càng tốt!
- Thế nhỡ chúng ta lớn quá đi thì sao?... Con gái mà cao như cái tháp thì chẳng hay ho gì!
Karik bình tĩnh đáp:
- Không sao, cứ ăn đi! – Nếu có lớn quá thì lại uống chất lỏng làm nhỏ lại cho cân. Thế thôi. Xem này, anh ăn đây. Thế đó.
Và Karik bỏ một nắm bột vào miệng.
- Xong rồi.
Valia nuốt một nắm bột rồi nhăn mặt nói:
- Chất lỏng làm bé lại ngon hơn…
- Đâu có! Cả bột cũng được đấy chứ… hơi chua chua.
Karik nhảy xuống sàn và kéo chân Valia.
- Bây giờ phải chạy mau ra khỏi chỗ này.
- Sao vậy? – Valia hỏi.
- Bởi vì ở đây sắp trở nên chật chội đối với chúng ta.
- Tại sao chật chội?
Karik phát cáu:
- Tại sao, tại sao mãi! Bởi vì chúng ta sẽ biến trở lại thành người lớn… ối chà! – Karik kêu lên vì cắn phải lưỡi.
Đầu cậu va vào trần.
Tiếng gãy răng rẵng vang lên và cái hòm vỡ tan.
Cậu nhắm mắt lại, lấy tay dụi rồi lại mở mắt ra.
Valia đang đứng trên mặt câu.
Cô vẫn thế, không thay đổi chút nào. Nhưng mọi vật xung quanh thì hoàn toàn khác hẳn: những cánh rừng xanh thì biến thành những đám cỏ bình thường. Một cây sào mảnh mai đầu có buộc mảnh giẻ đỏ đã bạc màu vì nắng đang nằm trên cỏ. Những con muỗi lại trở thành con muỗi.
Valia nói:
- Sướng thật! Anh nghĩ mà xe, bây giờ chả còn sợ muỗi nữa… Đập tay một cái là nó tiêu luôn.
Karik vẻ lo lắng ngắt lời cô:
- Khoan đã, thế cái hộp thuốc đâu rồi?
Chúng nhìn xuống chân.
Những mảnh hòm gỗ dán lăn lóc trên cỏ. Giữa đống mảnh gỗ àny là cái hộp bị lật úp, ở bên cạnh là mấu giấy dầu nhỏ xíu. Gió cuống lớp bụi trắng bay trên cỏ.
- Đó chính là thuốc bột làm lớn trở lại! Karik hoảng hốt thét lên, nhào xuống bắt các hạt bụi.
Nhưng đã muộn rồi.
Valia lo lắng hỏi:
- Bây giờ biết làm sao đây? Thế bác Ivan Germogenovich sẽ mãi mãi nhỏ bé như vậy hay sao? Không khéo chúng ta dẫm bẹp bác ấy rồi cũng nên.
Karik quát mắng cô:
- Thì em đừng có lăng xăng! Chưa biết chừng chính em dẫm bác ấy rồi.
Valia đứng sững một chỗ. Karik ngồi xổm xuống, xòe tay như cái lược rẽ đám cỏ mát rượi ra.
Nhưng tất cả chẳng mang lại kết quả gì.
Valia nói:
- Anh Karik ạ, chắc bác ấy ở gần đây và nghe thấy tiếng chúng ta gọi! Anh hãy nói để bác ấy tự bước ra.
Karik đồng ý:
- Phải đấy!
Cậu tìm thấy trong đám gỗ vụn một mảnh ván n hỏ và nhẵn nhụi, phủi hết bụi rác ở trên rồi đặt nó lên một chỗ bằng phẳng. Sau đso cậu nói nhỏ nhưng rành rọt:
- Bác Ivan Germogenovich ơi! Bác có nghe thấy chúng cháu nói không? Bác hãy bước ra bãi trống này. Đây, nó đây này! – Cậu gõ ngón tay lên miếng gỗ - Bác đừng sợ chúng cháu không động đậy đâu.
Mấy phút trôi qua.
Bọn trẻ ngồi không động đậy, cúi đầu ngó xuống mảnh ván.
Đột nhiên trên mảnh gỗ dán màu vàng xuất hiện một cái gì như con muỗi mắt.
- Bác ấy đó! – Valia thở ra nói.
- Khoan đã – Karik thì thầm – em đừng có thở ầm ầm như máy hơi nước ấy. Không khéo làm bay bác ấy khỏi tấm ván mất.
Karik nin thở cúi sát xuống mảnh gỗ.
Cậu nín thở chăm chú theo dõi nhân vật nhỏ xíu đang chạy tới chạy lui trên bờ cạnh vạn, Karik lấy tay che miệng nói:
- Đúng bác ấy, bác Ivan Germogenovich của chúng ta đó.
Valia thì thầm:
- Xem kìa, xem kìa! Anh thấy không, bác ấy đang động đậy cái tay kìa… Chẳng lẽ chúng mình cũng đã từng bé tí vậy ao?
Karik đáp:
- Thậm chí còn bé hơn nữa ấy chứ. Đừng nói chuyện nữa. Ngồi im đi.
Valia thậm chí ngưng thở.
Khi tất cả đều im lặng, bọn trẻ nghe thấy tiếm chiếm rất nhỏ - còn nhỏ hơn cả tiếng muỗi.
- Bác ấy nói cái gì đó! – Karik thì thầm và ghé sát tai vào miếng ván.
- Bác ấy nói gì vậy?
- Chịu không sao hiểu được!
Trong khi đó giáo sư nhảy từ miếng ván xuống đất và biên mất trong đám cỏ.
- Bác ấy đi rồi!
- Đi đâu thế?
- Chắc có việc cần. Cứ ngồi đợi đi.
Một lát sau ông lại xuất hiện. Lần này không chỉ có một mình ông. Valia nói:
- Xem kìa! Xem kìa! Có con gì đó tấn công bác ấy kìa.
Bọn trẻ khom mình trên miếng ván nhưng dù chúng đã căng mắt ra nhìn vẫn không sao hiểu nổi được: chính bác Ivan Germogenovich lôi com bướm đi hay con bướm lôi bám lấy ông không cho ông lên mảnh ván.
Com bướm đập cánh giẫy giụa làm giáo sư ngã lăn ra. Valia nói:
- Chúng ta phải giúp không có cái con bướm chết tiệt này ăn thịt bác ấy mất.
Giáo sư vùng vẫy ở bờ miếng gỗ dán vửa lí nhí kêu gì đó.
- Anh Karik! Anh có nghe thấy không?... Đó là bác ấy kêu: “Giúp tôi với! Giúp tôi với!”.
Valia chìa tay phía con bướm. Karik cản em lại:
- Khoan đã, hình như bác ấy nói cái gì đó nữa!
Nhưng Valia đã tóm lấy con bướm, vung tay ném nó đi chỗ khác. Sau đó cô nhắc tấm ván có giáo sư lên sát tận mắt nhìn rồi nói:
- Hình như bác ấy bực tức điều gì đó! Chắc là con bướm làm bác ấy một trận tơi bời.
Giáo sư giơ tay cao lên trời, chạy lăng xăng trên miếng ván và nói lí nhí gì đó. Ông lấy tay ôm đầu, dậm những cái chân nhỏ xíu. Valia nói:
- Bác đừng sợ! Nó không đụng đến bác nữa đâu. Cháu giết nó rồi!
Nhưng điều đó không làm giáo sư dịu đi. Ông lại vung tay mạnh hơn nữa và hình nưh còn nhổ nước miếng mấy lần. Thấy rõ Ivan Germogenovich giận dữ lắm. Valia an ủi giáo sư:
- Thôi được rồi! Để cháu tìm nó và giẫm nát nó ra cháu sẽ cho nó biết bắt nạt những người nhỏ hơn thì sẽ bị trừng trị ra sao.
Nghe thấy những lời đó, Ivan Germogenovich ôm lấy đầu bước loạng choạng rồi đột nhiên nhảy lên tưng tưng vừa la hét chiêm chiếp dữ dội đến nổi Karik hiểu ngay rằng giáo sư có điều gì quan trong muốn nói. Valia hét lên:
- Cháu sẽ dẫm nát nó ngay bay giờ.
Karik thì thầm nói
- Em đừng có hét lên thế! Em làm bác ấy điếc mất thôi. Bác ấy bé lắm mà. Thôi, đưa bác ấy cho anh.
Karik nâng niu giáo sư xuống lòng bàn tay rồi đưa sát lên tai. Cậu nghe thấy tiếng nói yếu ớt của Ivan Germogenovich:
- Ecophor, con Ecophor độc nhất!... một cái mẫu hiếm như vậy!... hiếm như vậy!....
Karik thì thầm:
- Bác ấy nói về con Ecophor gì đó!
Valia khẽ đáp:
- Đó chắc là tên gọi thuốc bột đó. Mà thuốc bột thì chẳng còn gì nữa…
Karik nhìn vào lòng bàn tay chậm rãi nói từng lời:
- Bác Ivan Germogenovich ơi, biết làm sao bây giờ? Gió cuốn tất cả chỗ bột thuốc đi mất… Chúng cháu đâu có lỗi…
Rồi cậu lại đưa bần tay lên sát tai.
- Cái đó không sao cả! – Ivan Germogenovich nói lí nhí rất khó nghe – Trong phòng thí nghiệm của bác còn vài gam thứ bột đó… Đưa bác về nhà… Nhưng trước hết phải tim con Ecophor đã… Nó ơ đây thôi…Trên cỏ đó…
Karik hỏi:
- Thế Ecophor là cái gì ạ?
Ivan Germogenovich lí nhí nói:
- Ecophor là con bướm thuộc nhó sâu nhậy…chỉ có ở miền nam thôi… Ở miền này những con bướm ấy cực kỳ hiếm thế mà Valia lấy mất của bác… Bắt nó phải tìm lại ngay.
Karik nói:
- Này Valia, đi tìm Ecophor. Tự em đã ném cái của hiếm ấy đi thì bây giờ lo mà kiếm lại.
Valia cúi xuống, sờ soạng và túm lấy cánh, giơ cao con bướm đã gần chết lên.
- Có phải con này không bác? – Karik vừa hỏi vừa chỉ vào con bướm.
Ivan Germogenovich vui sướng reo lên:
- Đúng nó đấy! mang nó về nhà cho bác. Có điều bác xin các cháu cẩn thận hộ cho… đừng có chập hai cánh lại với nhau.
Karik hỏi:
- Về nhà chúng cháu phải đi theo hướng nào ạ?
- Cháu cứ đi thẳng đến cái ao đừng rẽ đi đâu cả. Sau cái ao cháu sẽ thấy đường cái về thành phố. Chỉ có một con đường về thành phố thôi mà.
Karik ngắt một chiếc lá mã đề rất to, khéo léo cuốn lại thành cái phễu rồi thận trọng đặt xuống đáy phễu nhà bác học vĩ đại Ivan Germogenovich Enotov. Cậu nói với Valia:
- Nào, bây giờ thì chạy về nhà thôi. Nhưng em cẩn thận đấy, đừng có làm mất con Ecophor.
- Khoan đã… Chúng ta cứ trần truồng thế này về thành phố sao được!
Karik tỏ ý coi thường:
- Cần quái gì!
Valia nói:
- Karik, không, em không đi thế này đâu! Kỳ lắm!
Karik ngạc nhiên:
- Sao lại kỳ?
- Tại vì em gầy quá! Xương sống xương sườn cứ phơi ra hết thế này thì người ta cười cho.
- Không sao đâu, ta chạy thật nhanh vào.
Valia lắc đầu lìa lịa:
- Dứt khoát không được, phải mặc quần qao vào đã.
Valia nhặt cái áo sơ mi nhàu nát ở dưới đất rồi khoát lên mình.
- Có gì khác hình nộm. Em thử tự ngắm mình xem có ra cái gì không?
Cái áo sơ mi của Ivan Germogenovich. Valia mặc dài đến tận gót. Ống tay áo thì đến đầu gồi. Nhưng dù sao cũng có quần áo. Valia xắn tay áo lên và vận áo sơ mi như cái váy. Valia không để ý đến sự chế nhạo của Karik, hỏi cậu:
- Thế còn anh thì sao? Anh cũng lấy cái quần áo nào của bác Ivan Germogenovich mà mặc vào chứ!
Karik đành phải mặc cái quần dài của giáo sư vào.
Cậu kéo cái quần lên tận cổ. Valia tán thưởng:
- Rất đàng hoàng!
Karik bơi trong hai ống quần. Cậu đi được vài bước thì vấp ngã. May mà cậu kịp giơ cao cái tay đang nắm giáo sư ở trong. Nếu không thì có lẽ đã tuột mất hoặc đè bẹp Ivan Germogenovich rồi.
- Phải xắn quần lên! – Valia khuyên anh và giúp cậu sửa sang lại.
Karik làm theo như vậy.
Cuối cùng việc chuẩn bị đã xong.
Karik cầm lấy tay em và cả hai tựa như đã hẹn trước, đồng thành cất tiếng hát:
Hãy tiến lên – Kèn đang gọi lên đường.
Hỡi các bạn trẻ dũng cảm.
Hãy ngẩng cao đầu và chân đi đều bước.
Như những đại bàng cánh lướt trời mây.
Phía sau cái ao là con đường trải nhựa thằng tắp như mũi tên. Con đường dẫn về phía thành phố.