[1]"Tính toán xã hội chủ nghĩa" (Socialist Calculation) là đối tượng của một trong những cuộc tranh luận lớn nhất trong lịch sử kinh tế học thế kỷ XX, mà bài viết sau đây sẽ đề cập tới. Cuộc tranh luận xoay quanh vấn đề liệu một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa kế hoạch hoá có thể thay thế việc tính toán của thị trường (tự do) trong việc phân bổ nguồn lực và điều tiết giá cả hay không. Nếu tính toán xã hội chủ nghĩa không thay thế được thị trường, thì coi như Chủ nghĩa xã hội là không khả thi về mặt lý thuyết, và tất yếu sẽ bị thủ tiêu. (ND)
[2]Miền đất phía Tây Bắc Scotland, nổi tiếng với những bà vợ ghê gớm. (ND)
[3]George J. Stigler (1911-1991), nhận giải Nobel về Kinh tế học năm 1982, "vì những nghiên cứu đột phá của ông về cấu trúc ngành, chức năng của thị trường và những nguyên nhân và hậu quả của điều tiết công" (Hội đồng trao giải Nobel 1982). Stigler còn được giới kinh tế học kính trọng với tư cách một sử gia tư tưởng kinh tế sắc sảo và độc đáo. (ND)
[4]G. Stigler, Công dân và Nhà nước, Chicago, Nxb trường Đại học Chicago, 1975, tr. 1-13.
[5]Xem A. Bergson, ‘Chủ nghĩa xã hội’ trong Howard Ellis (ed.), Khảo cứu về Kinh tế học đương đại, Illinois, Homewood, 1952.
[6]Về luận điểm trường phái áo xem F. A. von Hayek (ed.), Kế hoạch hoá kinh tế tập thể chủ nghĩa, London, Routledge, 1935 và các tiểu luận của ông về ‘Tính toán Xã hội chủ nghĩa’ trong Chủ nghĩa cá nhân và Trật tự kinh tế; L. von Mises, Chủ nghĩa xã hội, London, Cape, 1936; và T. J. B. Hoff, Tính toán kinh tế trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Indianapolis, Liberty Press, 1981. Trong số rất nhiều đóng góp về chủ nghĩa xã hội, tôi đã sử dụng các tài liệu sau: F. M. Taylor, ‘Định hướng sản xuất trong một Nhà nước xã hội chủ nghĩa’, American Economic Review, tập XIX, 1929, tr. 1-9; Oskar Lange, ‘Về Lý thuyết kinh tế của Chủ nghĩa xã hội’, Review of Economic Studies, Tập I, 1936, tr. 53-71, in lại trong A. Nove và D. M. Nuti (Eds.), ‘Kinh tế học Xã hội chủ nghĩa’, Economic Journal, tập 47, 1937, tr. 253-270; và B. Lippincott (ed.), Về Lý thuyết Kinh tế của Chủ nghĩa xã hội, Minnesota, Nxb trường Đại học Minnesota, 1938. Về những khảo cứu gần đây của các nhà kinh tế, xem K. I. Vaughan, ‘Tính toán kinh tế dưới Chủ nghĩa xã hội’, Economic Enquiry, tập 18, 1980, tr. 534-554; Don Lavoie, ‘Phê phán cách giải thích chuẩn về sự tính toán [xã hội chủ nghĩa]’, Journal of Libertarian Studies, tập v, 1981, tr. 41-87; và P. Murrell, ‘Liệu lý thuyết của Chủ nghĩa xã hội thị trường có trả lời được thách thức của von Mises?’, History of Political Economy, tập 15, 1983, tr. 92-105.
[7]Trường phái kinh tế học Áo (Austrian School of Economics) do Carl Menger (1841-1921) sáng lập vào những năm 1870, sau đó được các môn đồ là Eugen von Böhm-Bawerk (1851-1914) và Friedrich von Wieser (1851-1926) kế tục. Trường phái Áo kêu gọi một thị trường tự do và chống lại gần như bất cứ sự can thiệp nào của nhà nước. Vào thế kỷ XX, lý luận của Trường phái Áo đạt tới đỉnh cao nhờ công lao của hai nhà kinh tế lỗi lạc Ludwig Edler von Mises (1881-1973) và Friedrich August von Hayek (1889-1992). (ND)
[8]xem nguyên tác tiếng Anh: www.mises.org/econcalc.asp (ND)
[9] In lại trong Hayek, Kế hoạch hoá kinh tế tập thể chủ nghĩa, tr. 87-130.
[10]Xem cuốn Chủ nghĩa xã hội của L. von Mises.
[11]Sự thiếu nhiệt tình quan tâm đến kinh tế học về xã hội cộng sản của bản thân Marx là dễ thấy.
[12]John Kenneth Galbraith (sinh năm 1908), kinh tế gia người Mỹ gốc Canada, được xem là một lãnh tụ của phái Thể chế Mỹ (American Institutionalism), mặc dù ông không thừa nhận điều này. Galbraith có những phê phán chua cay về xã hội tư bản hiện đại, và về chính các đồng nghiệp là kinh tế gia theo phái chính thống, khi ông coi họ như những tên nô lệ giáo điều. Các tác phẩm nổi tiếng của ông là American Capitalism (1952), The Affluent Society, (1958), The New Industrial State (1967). (ND)
[13]Herbert Marcuse (1898-1979) nhà tư tưởng, nhà triết học người Đức. Thoạt tiên cộng tác với Heidegger, nhưng đã chia tay vì những bất đồng quan điểm trong lý thuyết Quốc xã. Marcuse nổi tiếng với tư cách một nhà tư tưởng phê phán mạnh mẽ xã hội tư bản hiện đại. Ông đã nỗ lực tổng hợp lý thuyết của Freud với chủ nghĩa Mác, thể hiện rõ qua tác phẩm Eros and Civilization (1955) (bản tiếng Việt "Dục tính và Văn minh" do NXB Kinh Thi xuất bản ở miền Nam Việt Nam trước Giải phóng). Marcuse còn là một nhà hành động cánh tả, nhận được nhiều ủng hộ của thanh niên phương Tây những năm 1960-70. Xem thêm: www.marcuse.org/herbert/ (ND)
[14]Điều này ít khi được nhắc tới, ngay cả trong tư tưởng xã hội chủ nghĩa ôn hoà, khi mà sự phân phối bình quân chủ nghĩa không nhất thiết trợ giúp cho những người nghèo nhất.
[15]Lange: xem chú thích chi tiết ở phần sau. Abba P. Lerner (1903-1982) kinh tế gia gốc Nga nhưng được đào tạo ở Trường Kinh tế London (LSE), di cư sang Mỹ năm 1937, có nhiều đóng góp cho kinh tế học thời bấy giờ. Lerner đứng về phía Lange trong cuộc tranh luận từ năm 1934. Fred M. Taylor (1855-1932) kinh tế gia người Mỹ, tham gia vào cuộc tranh luận từ rất sớm với bài viết "The Guidance of Production in a Socialist State" (AER 1929). Henry Douglas Dickinson (1899-1968), được biết đến với các tác phẩm "Price Formation in a Socialist Community" (EJ 1933) và The Economics of Socialism, (1939). (ND)
[16]‘Bản chất và lịch sử của vấn đề’, trong Kế hoạch hoá kinh tế tập thể chủ nghĩa, tr. 6.
Nguồn: Tiểu luận này lần đầu tiên xuất hiện trên Il Politico, một tạp chí về Khoa học Chính trị của Italia (Trường Đại học Pavia), Tập XLIX, Số 4, năm 1984