Có một thực tế lạ lùng trong lịch sử tư tưởng chính trị và xã hội của thế kỷ này, đó là hai hệ thống kiến giải xã hội mang tính lý thuyết và duy lý, thống trị mạnh mẽ nhất, một bên là những người theo chủ nghĩa cá nhân tự do cổ điển và bên kia là những người theo chủ nghĩa tập thể, lại rất hiếm khi đối đầu nhau một cách trực tiếp trong lãnh địa của những phép tắc khảo cứu khoa học. Bất chấp dung lượng khổng lồ của chúng, những bài viết trong các ngành triết học xã hội này chẳng mấy khi được viết ra theo cách cho phép đi tới những giải pháp rốt ráo cho hàng loạt vấn đề chúng đặt ra: thay vào đó, chúng xuất hiện như những công trình kiến trúc vĩ đại, với nhiều tầng bậc mỹ thuật khác nhau, đứng kế bên nhau chứ không phải trên cùng một mảnh đất chung. Như những bà nội trợ xứ Glaswegia [2] gân cổ lên cãi nhau từ hai bên hè phố, người theo chủ nghĩa cá nhân và người theo chủ nghĩa tập thể dường như luôn luôn tranh luận từ hai hệ tiền đề khác nhau. Như người được giải Nobel về Khoa học Kinh tế George Stigler [3] từng nói, những cuộc tranh luận giữa những người xã hội chủ nghĩa’ và những người ‘tư bản chủ nghĩa’ là không ăn khớp với nhau (‘unjoined’). [4] Tuy nhiên, sự chệch choạc này, theo Stigler, hoàn toàn bắt nguồn từ sự thất bại của cả hai phe khi đánh giá các kết quả thực tiễn của những lập luận tương ứng của họ. Theo một lối ‘thực chứng’ điển hình, ông tuyên bố rằng chỉ ‘bằng chứng thực tế’ (evidence) mới có thể giải quyết được sự bất đồng giữa các hệ tư tưởng.
Trái với quan điểm trên, cần phải nhấn mạnh rằng những nhận định thực nghiệm riêng nó không bao giờ có thể mang tính quyết định trong các lập luận triết học về chính trị và xã hội. Nguyên nhân một phần vì dữ liệu trong lĩnh vực xã hội là rất phức tạp, không thể kiểm soát, mang tính tạm thời và lộn xộn. Rõ ràng là, những thất bại hiển nhiên của việc kế hoạch hoá tập trung nhằm tối đa hoá các mục tiêu xã hội chủ nghĩa đã không làm thay đổi ngay cả những người theo chủ nghĩa tập thể có đầu óc thực nghiệm, dù những thất bại này chắc chắn làm anh ta thất vọng. Anh ta luôn có thể quy kết chúng cho những tình huống không thuận lợi, những thứ hiển nhiên là không thể tránh khỏi, chứ không phải do một số sai sót nội tại trong lý thuyết của anh ta. Nhưng, quan trọng hơn, mọi lập luận thực chứng trong khoa học xã hội đều sống ký sinh trên một lý thuyết tổng quát nào đó, đòi hỏi một cơ sở mang tính triết học nhiều hơn. Vấn đề đã được nêu lên và trả lời bởi người theo chủ nghĩa cá nhân là tại sao những thất bại rõ ràng như thế của chủ nghĩa tập thể đã diễn ra: phải như thế thì sau đó anh ta mới có thể nói một cách tự tin rằng, những thất bại đó thực chất là những đặc điểm không thể khắc phục được của lâu đài kinh tế học xã hội chủ nghĩa.
Tất nhiên, đây là một vấn đề cực kỳ nan giải: liệu những cuộc tranh cãi trong triết học xã hội có thể được làm cho "ăn khớp" với nhau theo một cách thức nào đó, mà không phải theo lối thực nghiệm (và do đó chỉ liên hệ với nhau một cách cục bộ) hay không, câu hỏi này bản thân nó nhất định vẫn cứ là một đối tượng của sự bất đồng quan điểm thường hằng. Tuy nhiên, đã có một cuộc tranh luận trong lịch sử tư tưởng kinh tế, "cuộc tranh luận về tính toán" nổi tiếng giữa các nhà kinh tế xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trong những năm 1920 và 1930, mà trong cuộc tranh luận đó những người tham gia không đứng tranh cãi trên những mảnh đất khác nhau, mà dường như ở trong cùng một khuôn khổ lý thuyết chung. Thêm vào đó, không những họ không tranh luận về "thực tiễn", mà trái lại, không có bên nào trong số họ bị xô đẩy bởi bất cứ một hiện tượng thực tế nào. Từ quan điểm của lịch sử tư tưởng kinh tế, cuộc tranh luận này đã được các nhà kinh tế khảo cứu cẩn thận rồi. Thật vậy, cho tới tận gần đây, vẫn có một sự đồng thuận giữa các nhà kinh tế chuyên nghiệp rằng, theo một nghĩa trừu tượng hay lý thuyết nào đó, các nhà kinh tế xã hội chủ nghĩa đã "thắng". [5] (Bất kể những vấn đề đạo đức, chính trị và thực tế khá hiển nhiên, những thứ vẫn có thể làm sự chống đối kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa trở thành dứt khoát). Mục đích của bài viết này là chứng tỏ rằng kết luận trên là sai lầm xét từ quan điểm của lý thuyết kinh tế. Tuy nhiên, người ta cũng biết rằng cuộc tranh luận về tính toán không thuần tuý chỉ liên quan đến kinh tế học; nó còn liên quan đến những vấn đề rộng lớn hơn của triết học xã hội, mà đa phần đã không được những người trong cuộc thừa nhận một cách công khai.
Nguồn gốc lịch sử dẫn tới cuộc tranh luận tương đối đơn giản. [6] Nó diễn ra giữa một bên là các nhận vật chủ chốt của Trường phái Kinh tế chính trị học Áo [7] , mà chủ yếu là Ludwig von Mises (1881-1973) và Friedrich von Hayek (sinh năm 1899), còn bên kia là các môn đồ của cách tiếp cận cân bằng tổng quát chính thống, nổi bật nhất là H. D. Dickinson (1899-1968), Fred M. Taylor (1855-1932), Oscar Lange (1904-1965) và, về sau này, Abba P. Lerner (1903-1982). Cuộc tranh luận được mở màn vào năm 1920 với sự công bố bài báo nổi tiếng của Mises, ‘Tính toán kinh tế trong Khối thịnh vượng chung Xã hội chủ nghĩa’ [8] , [9] trong đó, ông lập luận rằng nếu không có một thị trường cho hàng tiêu dùng và nhân tố sản xuất, thì các giá trị kinh tế (không chỉ giá cả của hàng tiêu dùng, mà bao hàm tất cả các loại tiền tô, tiền công và lãi suất) sẽ không thể nào được tính toán ra là bao nhiêu, mà sẽ phải bị quyết định một cách độc đoán (arbitrarily) bởi một chính quyền trung ương. Nếu một hệ thống xã hội chủ nghĩa loại bỏ thị trường, thì nó cũng loại bỏ cách tổ chức hợp lý của một nền kinh tế.
Lúc này các nhà kinh tế xã hội chủ nghĩa có tên trên kia đã xem xét những phê phán của Mises một cách rất nghiêm túc (điều này có thể là một lý do vì sao họ không mấy khi được nhắc tới trong các cuốn lịch sử chuẩn về tư tưởng xã hội chủ nghĩa do các nhà khoa học và lý thuyết chính trị viết nên) nhưng họ nghĩ rằng câu trả lời cho những câu hỏi của Mises có thể được tìm thấy ngay trong hệ thống lý thuyết kinh tế chính thống. Hệ thống này đã thực sự cung cấp một cách tính toán giá trị, xét cho cùng thì dựa trên sự ưa thích chủ quan, nhưng không nhất thiết đi tới kết luận rằng hệ thống kinh tế nên bao hàm các thể chế tư bản chủ nghĩa điển hình với quyền tư hữu và các ‘hãng’. Chính Hayek là người đã bảo vệ và triển khai những tiền đề của Mises bằng cách tấn công một cách công khai vào quan điểm chính thống về tính toán kinh tế. Tuy nhiên, bản chất của phê phán Mises- Hayek chưa bao giờ được hiểu cho thấu đáo vào thời điểm đó, chủ yếu là vì kinh tế học Áo chưa bao giờ được phân định cho rõ ràng như một loại lý thuyết kinh tế khác biệt so với lý thuyết thị trường cạnh tranh truyền thống, và cuộc tranh luận dường như được khép lại vào cuối những năm 1930 với phần thắng vẻ vang thuộc về các nhà xã hội chủ nghĩa. Sau năm 1920, Mises tiếp tục tấn công chủ nghĩa xã hội nhưng phê phán của ông có khuynh hướng trượt theo những nghiên cứu mang tính tâm lý học và xã hội học nhằm chống lại các nhà xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội [10] . Thật thú vị, cả Hayek cũng chuyển hướng từ lý thuyết kinh tế thuần tuý sang triết học xã hội một cách tổng quát và phát triển một học thuyết phức tạp về phương pháp luận và nhận thức luận, mà học thuyết này, giờ đây nhìn lại, có liên quan trực tiếp đến cuộc tranh luận ban đầu. Cách giải thích của ông về bản chất của tri thức kinh tế, nếu đúng, loại bỏ hoàn toàn cách tính toán do các nhà xã hội chủ nghĩa đưa ra vào những năm 1930. Lý thuyết kinh tế không còn là một công cụ trung tính phục vụ bất cứ một hình thức kinh tế cho trước nào, mà chỉ có ý nghĩa trong một hệ khái niệm triết học mong muốn tìm cách lĩnh hội đầy đủ bản chất của đời sống xã hội mà thôi.