Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Khoa Học >> Phân tâm học nhập môn

  Cùng một tác giả
Không có truyện nào


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 25506 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

Phân tâm học nhập môn
Sigmund Freud

Sự hoán chuyển

Vì những bài học này sắp đến thời kỳ chấm dứt nên chắc các bạn đang chờ đợi một sự gì mà nó không được phép trở thành một mối thất vọng. Các bạn sẽ tự nhủ là nếu tôi hướng dẫn các bạn đi vào một chi tiết lớn nhỏ trong phân tâm học, chắc không phải để từ biệt các bạn mà không nói gì đến cách trị liệu làm nền tảng cho mọi hoạt động của phân tâm học. Tôi không thể lẩn tránh vấn đề đó bởi lẽ làm như thế tức là không cho các bạn biết về một sự kiện mới giúp cho các bạn bổ túc những điều đã học.

Tất nhiên các bạn không chờ đợi tôi hiến cho các bạn cách áp dụng kỹ thuật, cách phân tích với mục đích trị liệu. Các bạn chỉ muốn biết một cách tổng quát về phương sách hoạt động của môn tinh thần trị liệu trong phân tâm học thôi và kết quả của nó ra sao. Các bạn có quyền đó, không ai phủ nhận được nhưng tôi không muốn nói cho các bạn biết gì hết, muốn để các bạn tự tìm ra phương sách đó và kết quả của nó bằng phương tiện riêng của các bạn.

Các bạn thử nghĩ xem các bạn biết hết nhưng điều cần biết của chứng bệnh, những yếu tố áp dụng phương sách đối với người bệnh. Có vẻ như một phương pháp trị liệu chẳng cần có mặt làm gì nữa. Trước hết đây là sự di truyền, chúng ta không nói đến sự việc này luôn, người khác đã nói đến một cách cương quyết rồi và chúng ta không có gì mới để thêm vào những điều họ nói. Các bạn đừng cho rằng tôi phủ nhận tầm quan trọng của nó! Chúng ta sở dĩ biết đến sức mạnh của tính di truyền chính là với tư cách của một người chuyên trị liệu. Chúng ta chẳng thay đổi được gì vào đó cả: bao giờ sự di truyền này đối với chúng ta cũng như một điều đã có sẵn, như một động lực đưa ra những giới hạn cho sự cố gắng của chúng ta. Rồi những ảnh hưởng của những biến cố trong thời thơ ấu đầu tiên mà chúng ta đã quen dành cho một chỗ ngồi tốt nhất cho việc phân tích; chúng thuộc về quá khứ và chúng ta không thể coi như không có chúng được. Sau cùng chúng ta có tất cả những cái gì mà chúng ta gọi chung là “một sự từ bỏ thực sự” mọi sự đau khổ trên đường đời bắt buộc con người phải từ bỏ tình ái, gây ra biết bao điều đau đớn, bao sự bất hoà trong gia đình, bao cuộc hôn nhân không cân xứng đó là chưa nói đến những điều kiện khó khăn trong xã hội và những sự đòi hỏi khắt khe về luân lý mà ai cũng phải chịu áp lực. Tất nhiên đó cũng là con đường mở rộng để đưa lại một sự trị liệu hữu hiệu, nhưng là trị liệu theo lối của hoàng đế Joseph, theo như một huyền thoại ở thành Vienne; một sự can thiệp của một con người có uy quyền cực mạnh bắt mọi người khuất phục trước ý chí của mình và san bằng mọi khó khăn. Nhưng chúng ta là người như thế nào để có thể đưa ra một phương pháp trị liệu như thế? Chúng ta là những người nghèo không có một uy quyền gì trong xã hội, phải hành nghề mà sống, chúng ta không thể không chữa chạy không công cho những người nghèo trong khi những bác sĩ khác theo lối chữa chạy khác lại đủ phương tiện để giúp đỡ người nghèo trong khi chúng ta không làm được. Lối trị liệu của chúng ta là một lối trị liệu lâu dài, phải mất nhiều thì giờ làm mới có hiệu quả. Có thể khi duyệt lại những yếu tố đã kể các bạn có thể đặc biệt chú trọng đến một yếu tố nào đó và cho rằng yếu tố đó có thể dùng làm địa điểm áp dụng phương pháp trị liệu của chúng ta. Nếu xã hội bắt buộc con người phải ở trước một giới hạn nào đó về luân lý và chính cái giới hạn đó làm cho người bệnh đau khổ, thì tại sao chúng ta lại không chữa chạy bằng cách khuyến khích họ rũ bỏ những sự giới hạn này, tìm cách thoả mãn và lấy lại sức khoẻ mà không thèm để ý gì đến sự theo đuổi một lý tưởng mà xã hội đặt ra trong khi chính xã hội cũng không theo. Điều đó có nghĩa là người bệnh sẽ khỏi bệnh nếu sống hoàn toàn từ đầu đến cuối đời tình dục của mình. Nếu sự chữa chạy phải đi đến chỗ đó thực thì người ta sẽ trách là nó đã đi trái lại con đường luân lý tổng quát của xã hội vì nó đã cho cá nhân con người cái mà nó đã lấy đi của tập thể.

Nhưng các bạn đã lầm. Việc khuyên người ta sống hoàn toàn đầy đủ cuộc đời tình dục của mình không liên can gì hết sự trị liệu trong phân tâm học và dù rằng tôi đã có lần nói rằng trong người bệnh luôn luôn có xung đột giữa khuynh hướng khát dục và sự dồn ép tình dục, giữa khía cạnh tình dục và khía cạnh luân lý của người bệnh. Chúng ta không giải quyết cuộc xung đột bằng cách giúp cho bên nọ thắng bên kia. Đối với những người tinh thần bất an thì là luân lý đã thắng với hậu quả là khuynh hướng tình dục sẽ được đền bù bằng sự xuất hiện triệu chứng bệnh thần kinh. Trái lại, nếu khía cạnh tình dục của con người thắng trận thì khía cạnh luân lý sẽ bị dồn ép và cũng sẽ tìm cách tự đền bù bằng sự xuất hiện của các triệu chứng. Hai giải pháp này đều không thể chấm dứt cuộc xung đột vì thế nào cũng có một bên không thoả mãn. Những trường hợp trong đó cuộc xung đột yếu đến nỗi chỉ cần có sự cam thiệp của bác sĩ là giải quyết được ngay rất hiếm, và nói thực ra những trường hợp như thế thì không cần đến sự chữa chạy của phân tâm học. Những người có thể dễ dàng chịu ảnh hưởng như thế của bác sĩ có thể đạt được kết quả mà không cần đến bác sĩ. Khi một người bị thiếu sót tình dục đi tìm sự thoả mãn bằng đủ mọi cách, họ đâu có cần xin phép ông bác sĩ hay nhà phân tâm học.

Người ta thường không chú trọng đến một điểm quan trọng cần thiết trong vấn đề này, đó là một xung đột gây bệnh thần kinh không thể đem so sánh với sự xung đột thường có giữa các khuynh hướng tinh thần, đối với những người bệnh thần kinh thì sự xung đột xảy ra giữa những động lực trong đó một vài động lực đã tiến đến giai đoạn tiền ý thức và ý thức trong khi những động lực khác chưa ra khỏi giai đoạn vô thức. Chính vì thế nên cuộc xung đột không thể tiếp xúc bằng một giải pháp được. Hai bên đối thủ không dàn mặt nhau như con gấu trắng và con cá voi trong thí dụ mà tất cả các bạn đều biết. Một giải pháp thực sự chỉ có thể đạt được khi cả hai bên đối thủ đều ra mặt trận. Tôi cho rằng phương pháp trị liệu duy nhất là làm sao cho họ dàn mặt ra với nhau để gặp mặt nhau.

Các bạn sẽ lầm nữa nếu tin rằng phân tâm học có thể thành công được bằng cách khuyên bảo và hướng dẫn. Trái lại chúng ta chỉ muốn có một điều là làm sao cho người bệnh tự quyết định lấy. Vì thế cho nên chúng ta khuyên người bệnh hãy chờ đến khi khỏi bệnh hãy quyết định về những vấn đề quan trọng như chọn nghề buôn bán, làm ăn cưới xin hay ly dị. Các bạn phải công nhận rằng các bạn hẳn không nghĩ đến điều đó. Chỉ khi nào người bệnh rất trẻ, không biết tự bảo vệ, chưa chắc chắn, chúng ta mới đóng vai trò của ông bác sĩ hay nhà giáo dục. Nhưng lúc đó chúng ta vì ý thức được trách nhiệm của mình nên càng phải cẩn trọng hơn nhiều.

Khi thấy tôi, trong việc trị liệu, không muốn thúc đẩy người bệnh sống đầy đủ cuộc đời tình dục của họ, các bạn đừng cho rằng tôi bênh vực luân lý xã hội. Công việc này cũng như công việc trên, chúng ta không hề muốn làm. Thực ra chúng ta không phải là những người muốn cải cách mà chỉ là những người biết quan sát thôi. Nhưng cũng không thể chỉ quan sát mà không phê bình chỉ trích: vì thế nên chúng ta không thể bênh vực nền luân lý của xã hội về tình dục, tán thành phương cách mà xã hội đưa ra để giải quyết vấn đề đời sống tình dục. Điều xã hội gọi là luân lý của xã hội đòi hỏi nhiều sự hy sinh không đưa lại những kết quả cân xứng, xã hội thiếu cả không ngoan lẫn thành thực. Chúng ta không ngần ngại gì mà không nói cho người bệnh nghe những điều vừa nói, làm cho họ quen dần với sự suy nghĩ về những sự kiện tình dục mà không có thành kiến cũng như đối với mọi sự kiện khác, để rồi sau khi chữa chạy xong, nếu họ trở nên độc lập và chọn một giải pháp dung hoà giữa một đời sống tình dục buông thả và một đời sống khổ hạnh tuyệt đối thì chúng ta chẳng có gì đáng hổ thẹn trong lương tâm. Kẻ nào, sau khi đã chống lại chính mình, tiến đến sự thực của cuộc đời, kẻ đó sẽ tránh được hết mọi hiểm nguy của mọi sự vô luân và hiến cho mình một bậc thang giá trị về luân lý khác với bậc thang thường áp dụng vai trò của sự kìm hãm tình dục trong việc phát sinh ra bệnh thần kinh. Chỉ trong rất ít trường hợp là chúng ta có thể chấm dứt tình trạng bệnh hoạn do sự thiếu thốn tình dục và tích luỹ khát dục gây nên bằng cách thoả mãn những đòi hỏi tình dục bằng giao cấu.

Vậy các bạn không thể cắt nghĩa tác dụng trị liệu của phân tâm học bằng cách nói rằng phương pháp này cho phép người ta sống hoàn toàn và đầy đủ đời sống tình dục. Các bạn hãy tìm một cách cắt nghĩa khác. Biết đâu khi giải các điều sai lầm của các bạn tôi lại chẳng đã đặt các bạn lên một con đường tốt. Các bạn nghĩ rằng phân tâm học sở dĩ có ích bởi vì đã tìm cách thay thế vô thức bằng hữu thức, diễn tả vô thức bằng hữu thức đúng đắn. Đưa vô thức vào hữu thức chúng ta huỷ bỏ được sự dồn ép, bỏ được những điều kiện phát sinh ra triệu chứng, biến cuộc xung đột gây bệnh thành một cuộc xung đột bình thường dù sao cũng có thể giải quyết được bằng cách này hay cách khác, chúng ta không làm gì hơn là làm cho người bệnh có sự thay đổi trong tinh thần mà khi đạt được kết quả đó thì người bệnh sẽ khỏi. Khi không huỷ bỏ được sự dồn ép hay những diễn biến tinh thần cùng loại thì phương pháp trị liệu của chúng ta thất bại.

Chúng ta có thể diễn tả mục tiêu của chúng ta dưới nhiều hình thức: chúng ta có thể nói chúng ta muốn làm cho vô thức thành hữu thức, hay huỷ bỏ sự dồn ép hay lấp chỗ trống trong bệnh mất trí nhớ, tất cả mọi hình thức này đều có giá trị như nhau. Nhưng lời xác nhận này không làm cho các bạn hài lòng. Các bạn hiểu người bệnh theo một ý khác, có bạn muốn nói rằng sau khi khỏi bệnh họ trở thành một người khác hẳn; vậy mà tôi lại bảo rằng họ sở dĩ khỏi bệnh chỉ vì họ có thêm một vài ý thức, mất đi một vài vô thức hơn trước thôi. Các bạn cho rằng thay đổi như thế chẳng có lợi gì. Người bệnh sau khi khỏi bệnh trở thành một người khác, cố nhiên, nhưng thực ra anh ta vẫn như trước, nghĩa là trước khi bị bệnh với những điều kiện khả quan hơn thôi. Thế là nhiều lắm rồi. Các bạn cho rằng thay đổi chút ít thế thì ăn thua gì nhưng các bạn sẽ không còn nghi ngờ về tầm quan trọng của sự khác nhau chút ít đó trong tinh thần người bệnh một khi thấy chúng ta phải mất bao nhiêu cố gắng, làm biết bao nhiêu chuyện mới đạt được kết quả đó.

Tôi muốn hỏi các bạn có biết gì về một phương pháp mà người ta gọi là trị liệu bằng cách huỷ các nguyên nhân gây bệnh không. Phương pháp này không đánh thẳng vào cách phát sinh của bệnh mà tìm cách huỷ bỏ những nguyên nhân gây ra bệnh. Phương pháp trị liệu trong phân tâm học có tìm cách huỷ bỏ nguyên nhân gây ra bệnh hay không? Câu trả lời không giản đơn tí nào nhưng sẽ giúp chúng ta thấy câu hỏi đó đặt ra thực không đúng lúc. Khi phương pháp trị liệu phân tâm học không đặt cho mình mục tiêu gần nhất là phải huỷ bỏ ngay tức khắc những triệu chứng thì phương pháp này quả có tìm cách huỷ bỏ nguyên nhân gây bệnh nhưng dưới một khía cạnh khác phương pháp này lại không có tính cách đó. Từ lâu chúng ta đã theo dõi sự liên tục của các nguyên nhân từ sự dồn ép đến những tính di truyền và bản năng, từ những cường độ tương đối của chúng trong người bệnh đến những đường đi sai lạc của chúng trong quá trình phát triển bình thường. Bây giờ giả dụ như chúng ta có thể dùng một chất hoá học gì can thiệp vào cấu tạo con người, làm tăng lên hay giảm đi chất lượng khát dục trong một lúc nào đó, tăng cường một bản năng này làm yếu đi một bản năng khác: đó chính là một môn trị liệu tận gốc, đi từ các nguyên nhân theo nghĩa đen của những chữ này, một phương pháp mà phân tâm học đã dùng trong giai đoạn tìm hiểu đầu tiên cần thiết. Vậy mà các bạn hẳn biết rằng lúc này không phải là lúc mình tìm cách ảnh hưởng tới sự hoạt động của khát dục; phương pháp của chúng ta đánh vào một vòng nhỏ trong xâu chuỗi nguyên nhân đó; nếu cái vòng nhỏ này không phải là thành phần của những cội rễ của các hiện tượng mà chúng ta có thể nhìn thấy được, không phải vì thế mà không rất xa vời đối với các triệu chứng và sở dĩ chúng ta biết được chính là nhờ những trường hợp hết sức thuận tiện.

Điều chúng ta biết về vô thức không trùng hợp với điều mà người bệnh biết về vô thức khi ta cho người bệnh biết những điều ta biết, người bệnh không hề thay thế vô thức bằng những điều vừa được cho biết mà chỉ đặt những điều vừa biết cạnh vô thức thôi và như thế là không có thay đổi gì cả. Chúng ta phải gán cho cái vô thức này một hình ảnh cụ thể bên ngoài, tìm vô thức trong những điều nó nhớ lại trong khi nó được thành lập sau khi xảy ra một sự dồn ép. Chúng ta chỉ cần huỷ diệt sự dồn ép là vô thức lập tức được thay thế bằng hữu thức. Nhưng làm thế nào để huỷ diệt được sự dồn ép? Giai đoạn thứ hai trong công việc của chúng ta bắt đầu. Trước hết phải tìm xem có sự dồn ép không rồi sau đó mới tìm cách huỷ diệt sự đề kháng giúp cho sự dồn ép được tồn tại. Làm thế nào huỷ diệt được sự đề kháng? Cũng bằng cách vén màn bí mật đặt nó trước mắt người bệnh, nghĩa là sự đề kháng cũng bắt nguồn ở một sự dồn ép, hoặc sự dồn ép mà ta đang tìm hoặc một sự dồn ép xuất hiện đột ngột trước đó. Sự đề kháng phát sinh ra một hoạt động phản công có mục đích dồn ép khuynh hướng tục tĩu. Vậy trong lúc này chúng ta lại làm công việc lúc đầu: giải thích, khám phá, cho người bệnh biết rõ những điều khám phá này nhưng lần này làm đúng chỗ hơn lần trước. Sự phản công hay sự đề kháng không thuộc vô thức mà thuộc cái tôi, ngay cả khi sự đề kháng không có trong ý thứ. Ở đây thực ra hai chữ “vô thức” có hai nghĩa: vô thức như một hiện tượng, và vô thức như một hệ thống. Điều này có vẻ khó hiểu, không rõ ràng, nhưng thực ra nó không phải là hai thứ giống nhau sao? Chúng ta đã chuẩn bị từ lâu rồi. Chúng ta hi vọng rằng ngay khi đặt trước mắt người bệnh sự đề kháng, sự phản công này thì lập tức cả hai phải biến mất ngay. Trong những trường hợp đó chúng ta làm việc với những động lực nào? Chúng ta trông mong vào chỗ chính người bệnh cũng muốn khỏi bệnh và vì muốn thế nên mới nhờ chúng ta chữa; chúng ta trông mong vào trí thông minh của anh ta trong khi chúng ta can thiệp để nâng đỡ trí thông minh đó. Nếu có chúng ta giúp vào tất nhiên trí thông minh của người bện sẽ nhận ra ngay sự đề kháng và tìm được xem cái gì đã bị dồn ép. Nếu tôi bảo các bạn: “Hãy nhìn lên trời sẽ thấy một cái phi cơ”, tất nhiên bạn sẽ tìm thấy rõ ràng phi cơ đó hơn là nếu tôi chỉ bảo bạn nhìn lên trời không thôi mà không nói rõ phải tìm thấy gì. Người sinh viên lần đầu tiên nhìn vào kính hiển vi sẽ không thấy gì cả nếu không được ông thầy cho biết phải nhìn gì.

Rồi chúng ta lại có những sự kiện trong nhiều bệnh như bệnh náo loạn thần kinh, bệnh lo sợ, bệnh bị ám ảnh, những tiền đề của chúng ta đã được chứng nghiệm. Bằng cách khảo cứu về sự dồn ép, khám phá ra sự đề kháng, tìm ra cái gì đã bị dồn ép, chúng ta đã giải quyết được vấn đề, thắng được sự đề kháng, huỷ diệt được sự dồn ép, biến vô thức thành hữu thức, chúng ta thấy rõ ràng mỗi khi cần thắng một đề kháng, trong tâm hồn người bệnh thường diễn ra một sự tranh đấu ghê gớm, một sự đấu tranh về tinh thần bình thường, trên phương diện tâm lý giữa những động lực trái ngược, một đằng muốn giữ cho sự phản công được tồn tại, một đằng muốn huỷ diệt nó. Những động lực trên là những động lực cũ kỹ gây ra sự dồn ép; những động lực dưới là những động lực đột nhiên xuất hiện mới đây có vẻ như phải quyết định cuộc xung đột theo ý chúng ta muốn vì thế chúng ta đã thành công trong việc đánh thức dậy cuộc xung đột cũ đã gây ra sự dồn ép và xét lại một vấn đề tranh chấp có vẻ như đã giải quyết xong từ lâu. Những sự kiện mới xuất hiện để bênh vực sự xét lại này là chúng ta nhắc cho người bệnh biết rằng trước khi đã có một quyết định nào đó làm cho bệnh phát ra, muốn khỏi bệnh cần có một quyết định khác và từ khi bệnh phát ra cho tới bây giờ, các điều kiện đã thay đổi rất nhiều. Vào thời kỳ bệnh phát ra cái tôi ốm yếu, ấu trĩ và đã có đủ lý do để từ khước những đòi hỏi của khát dục vì sợ xảy ra nguy hiểm. Ngày nay cái tôi khoẻ hơn, có kinh nghiệm hơn và nhất là được bác sĩ hỗ trợ một cách trung thành và tận tâm. Vì thế cho nên chúng ta có quyền chờ đợi cuộc xung đột ngày xưa được đặt lại trên bàn mổ sẽ được giải quyết thoả đáng hơn ngày xưa lúc mới phát sinh và gây ra sự dồn ép, những sự thành công của chúng ta trong lĩnh vực bệnh náo loạn thần kinh, bệnh lo sợ và bệnh bị ám ảnh đã chứng minh sự chờ đợi của chúng ta.

Tuy nhiên có những bệnh tuy cũng có điều kiện giống như bệnh trên mà chúng ta chưa bao giờ thành công cả. Vậy mà trong đó cũng có một sự xung đột sơ khai giữa cái tôi và khát dục, cũng đưa đến một sự dồn ép, mặc dù bề ngoài ra sao chăng nữa; chúng ta cũng tìm thấy trong đời người bệnh những điểm phát khởi sự dồn ép y như trong bệnh khác; chúng ta cũng dùng phương pháp như nhau, cũng hứa hẹn người bệnh những hứa hẹn đó, cũng giúp đỡ họ như thế, nghĩa là cũng hướng dẫn họ bằng những hình dung chờ đợi, và giữa lúc sự dồn ép phát khởi và lúc này có một thời gian thuận tiện cho việc gạt ra ngoài một sự đề kháng cũng như huỷ diệt được sự dồn ép. Những người bệnh này, hoặc vọng tưởng, hoặc uất, hoặc điên sớm phát đều tỏ ra trơ như đá vững như đồng trước lối chữa chạy của phân tâm học. Lý do tại sao nhỉ? Tất nhiên không phải vì người bệnh kém thông minh. Chúng ta thường cho rằng người bệnh có một trình độ trí thức nào đó và trình độ này không phải là không có trong người bệnh vọng tưởng là những người rất khéo léo trong việc xếp đặt sự việc. Cũng không phải là thiếu một yếu tố nào đó. Trái lại với những người vọng tưởng, bọn người uất thường biết rằng mình bị bệnh và đau đớn rất nhiều, nhưng không phải vì thế mà họ có thể khỏi bệnh bằng phân tâm học được. Chúng ta đứng trước một sự kiện mà chúng ta không hiểu nổi, thành ra nhiều khi chúng ta tự hỏi không biết chúng ta đã biết rõ những điều kiện thành công trong những bệnh khác không?

Nếu chỉ kể đến những bệnh náo loạn thần kinh và lo sợ thôi, chúng ta cũng thấy hiện ra một sự kiện mới mà chúng ta không hề biết trước để chuẩn bị. Chỉ một ít lâu là chúng ta thấy những người bệnh này có thái độ rất kỳ lạ đối với chúng ta. Chúng ta tưởng đã duyệt lại hết mọi yếu tố cần thiết cho việc chữa chạy, tưởng đã làm cho lập trường của chúng ta đối với người bệnh thực rõ ràng như một con tính; nhưng không ngờ trong con tính đó nó len lỏi vào một yếu tố mà ta không để ý đến. Yếu tố bất ngờ này xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nên tôi chỉ mô tả cho các bạn xem những hình thức đẽ hiểu nhất và xảy ra nhiều nhất.

Trước hết người bệnh thường là muốn chóng khỏi bệnh, tất nhiên quan tâm một cách đặc biệt đến ông bác sĩ. Tất cả những điều gì liên quan đến ông này đối với anh ta trở thành quan trọng hơn chính bệnh của anh ta và anh ta không để ý đến bệnh tật nữa. Vì thế nên trong lúc đầu giao thiệp giữa người bệnh và bác sĩ rất dễ chịu; người bệnh luôn luôn tỏ ra biết đón ý bác sĩ, tỏ lòng biết ơn bất cứ lúc nào có cơ hội, đưa ra ánh sáng những điểm tế nhị và những đức tính mà chúng ta không ngờ đến. Rút cục người bệnh làm cho ông bác sĩ có cảm tưởng tốt đối với mình, và ông này cảm ơn sự tình cờ đã đưa đến một cơ hội để giúp đỡ một con người đặc biệt dễ chịu. Rồi bà con của người bệnh sẽ cho ông bác sĩ biết rằng người bệnh mến ông thầy thuốc lắm, luôn luôn nói đến ông ta và càng ngày càng tìm ra những đức tính quý báu khác nơi ông thầy thuốc. “Cháu nó chỉ nghĩ đến ông thôi, tin tưởng nơi ông một cách mù quáng, mỗi lời ông nói nó đều coi như trích trong Thánh kinh. Nó nói đến ông nhiều quá làm chúng tôi nghe mãi chán cả tai”.

Người thầy thuốc tất nhiên cũng đủ khiêm tốn để thấy rằng những lời khen ngợi đó chỉ là sự phát biểu sự thoả mãn của người bệnh trước những hy vọng khỏi bệnh mà ông thầy thuốc đã bày ra trước mắt người bệnh. Vì thế nên công việc chữa chạy tiến hành trong những điều kiện đặc biệt tốt đẹp; người bệnh hiểu những điều chỉ dẫn, đào sâu những vấn đề mới xuất hiện, ý tưởng và kỷ niệm hiện ra dồi dào, những lời phán đoán của người bệnh rất chính xác và chắc chắn đến nỗi làm ông thầy thuốc ngạc nhiên, ông này khoan khoái khi thấy người bệnh chấp nhận những điều tâm lý mới lạ thường gặp nhiều chống đối của những người khoẻ mạnh bình thường. Kèm theo với thái độ dễ chịu của người bệnh, người ta cũng cảm nhận thấy có sự tiến bộ khách quan của trạng thái bệnh hoạn.

Những ngày tươi đẹp như thế thường không kéo dài, và đến một ngày nào đó tình thế sẽ xấu đi. Nhiều khó khăn xuất hiện, người bệnh cho rằng mình không nhớ gì nữa hết, không quan tâm đến công việc chữa chạy nữa và không cần để ý gì đến đề nghị phải nói hết những điều gì hiện ra trong đầu, không thèm để ý gì đến những lời khuyên răn hay phê bình. Người bệnh hành động như không hề có bệnh gì phải chữa chạy cả, và chưa từng ký kết gì với ông thầy thuốc hết; rõ ràng là anh ta đang bận tâm về một điều gì mà không muốn nói ra. Đó là một tình thế nguy hiểm cho việc chữa chạy. Có xảy ra một sự đề kháng mạnh mẽ, có sự gì đã xảy ra?

Nguyên nhân phải tìm trong tấm lòng âu yếm quá mức của người bệnh đối với ông bác sĩ, trong khi không có gì chứng minh được tình cảm đó. Hình thức và mục đích của lòng âu yếm đó tất nhiên phụ thuộc vào sự giao thiệp giữa hai người. Nếu ông bác sĩ là một người còn trẻ và người bệnh là một thiếu nữ thì người bệnh có yêu ông bác sĩ cũng là một sự tự nhiên vì người con gái thương yêu người luôn luôn ở bên cạnh mình nghe được nỗi lòng mình, lại có vẻ cao quý hơn mình, vì là người cứu mình ra khỏi bệnh tật; người ta quên rằng đối với một người bệnh thần kinh thì một tình cảm như thế hẳn là do một sự rối loạn nào đó của bản năng khát dục. Sự giao tiếp giữa người bệnh và ông thầy thuốc càng đi xa giả thuyết bao nhiêu thì chúng ta càng ngạc nhiên bấy nhiêu khi thấy lần nào cũng vậy, sự việc đó cũng diễn lại đúng tăm tắp. Không nói đến trường hợp một người đàn bà vì đau khổ trong gia đình nên đâm ra yêu ông thầy thuốc, bà ta tuyên bố sẵn sàng ly dị để lấy ông ta, và nếu có gặp gì trở ngại trong việc thực hiện ý định này thì cũng không ngập ngừng gì mà không trở thành tình nhân của ông ta. Sự việc đó xảy ra mà không cần có sự can thiệp của phân tâm học. Nhưng trong những trường hợp đang nghiên cứu, người đàn bà hay cô thiếu nữ tuyên bố những điều liên can đến cách chữa chạy: họ cho rằng bao giờ họ cũng biết chỉ có ái tình mới chữa khỏi bệnh họ thôi và ngay trong những buổi đầu chữa chạy họ đã biết rằng sự giao tiếp với ông bác sĩ sẽ đưa lại cho họ điều mà cuộc đời luôn luôn từ chối không đưa cho họ. Chính vì hy vọng như thế nên họ tỏ ra cố gắng và vượt qua được những khó khăn trong việc giãi bày tâm sự. Tôi thêm rằng chính vì hy vọng như thế nên họ mới hiểu được dễ dàng những điều mà người khác hiểu một cách khó khăn, Lời thú nhận như thế làm chúng ta chết đứng vì ngạc nhiên và phá bỏ mọi sự tính toán. Có thể nào là chúng ta đã bỏ qua một yếu tố quan trọng nhất không?

Càng nhiều kinh nghiệm bao nhiêu thì chúng ta càng thấy khó khăn mà chống lại một nhận xét nhục nhã cho những ý tưởng khoa học của chúng ta. Lúc đầu ai cũng cho rằng đó chỉ là một khó khăn nhất thời không liên can gì đến việc chữa chạy cả. Nhưng khi thấy lần nào sự việc cũng xảy ra đều đều như thế ngay cả khi không có những điều kiện thuận tiện, ngay cả khi sự khác biệt giữa thầy thuốc và người bệnh trở nên kì cục, ví dụ như người bệnh là một ông già, và ông thầy thuốc là một người râu tóc bạc phơ, nghĩa là trong những trường hợp không thể có chuyện gì hấp dẫn thì người ta bắt buộc phải gạt bỏ ý kiến cho rằng sự việc xảy ra chỉ vì ngẫu nhiên và phải công nhận rằng đó là một hiện tượng có liên lạc chặt chẽ với thực chất của trạng thái bệnh hoạn.

Sự kiện mới này chẳng là gì khác hơn là sự hoán chuyển. Đó chỉ là một sự hoán chuyển tình cảm từ người bệnh sang ông thầy thuốc vì chúng ta không tin rằng công việc chữa chạy đã làm tình cảm đó nảy nở ra. Sự xảy ra nhanh chóng này hẳn phải có một nguyên nhân khác, và phải có sẵn trong người bệnh dưới trạng thái tiềm tàng và đã chuyển qua người thầy thuốc trong lúc chạy chữa. Sự chuyển hoán có thể phát hiện hoặc dưới hình thức của một sự đòi hỏi tình ái ầm ĩ, hoặc dưới những hình thức nhẹ nhàng hơn. Đứng trước ông thầy thuốc có tuổi, người thiếu nữ bị bệnh có thể nảy ra ý muốn không phải trở thành tình nhân của ông ta, nhưng trở thành con gái của ông ta mà ông ta yêu quí hơn và muốn trở thành một tình bạn lâu dài. Có một vài người đàn bà biết gán cho sự hoán chuyển một hình thức khác, nhào nặn làm cho nó trở thành sống được; người khác, trái lại, để cho nó phát hiện dưới hình thức nguyên trạng, phôi thai và không thể chịu nổi. Nhưng cả hai hình thức đều do một hiện tượng cùng một nguồn gốc.

Trước khi chúng ta tự hỏi nên đặt sự kiện mới này vào nơi nào, các bạn hãy cho phép tôi hoàn tất sự mô tả. Sự việc xảy ra như thế nào nếu người bệnh là đàn ông? Người đàn ông có thể thoát khỏi cái tình thế khó chịu bắt nguồn ở sự khác phái của ông thầy thuốc không? Không, họ cũng không thoát. Họ cũng yêu mến ông thầy như thế, cũng có ý tưởng quá đáng về đức tính của ông ta, cũng để ý đến những cái gì dính dáng đến ông ta và cũng ghen với những người đến gần ông ta chẳng khác gì bệnh nhân đàn bà. Những hình thức thay thế sự hoán chuyển xảy ra luôn luôn những sự đòi hỏi về tình dục trực tiếp ít hơn một khi sự đồng tính luyến ái giữ một vai trò không quan trọng bằng các yếu tố cấu thành bản năng. Trong người bệnh đàn ông, thầy thuốc thường nhận thấy có một sự hoán chuyển mà thoạt nhìn người ta có cảm tưởng trái ngược hẳn với tất cả những cái gì đã được mô tả từ trước tới nay: đó là sự hoán chuyển thù nghịch hay tiêu cực.

Trước hết chúng ta nghĩ rằng sự hoán chuyển phát hiện ra ngay từ lúc bắt đầu đi vào chữa chạy và trong một thời gian đã thành một đối tượng chắc chắn nhất trong công việc đó. Người ta không thấy nó và không chú trọng một khi công việc chữa chạy trôi chảy đều đều. Nhưng khi nó biến thành một sự đề kháng thì người ta phải chú trọng đến và sự liên quan của nó đối với cách chữa chạy có thể thay đổi ở hai điểm khác nhau trái ngược nhau: thứ nhất lòng âu yếm trở nên mạnh mẽ, sự đòi hỏi tình dục trở nên rõ ràng đến nỗi phát sinh ra một sự đề kháng bên trong; thứ hai, những tình cảm âu yếm có thể biến thành tình cảm thù nghịch. Nói chung thì những tình cảm thù nghịch bao giờ cũng nấp sau tình cảm âu yếm và xuất hiện sau nhiều; sự có mặt của hai loại tình cảm trái ngược như thế trong phân lớn sự giao thiệp của chúng ta với người khác. Cũng như những tình cảm âu yếm, những tình cảm thù nghịch cũng là dấu hiệu của một tình cảm yêu dấu y như sự thách thức và sự vâng lời cũng diễn tả một tình cảm lệ thuộc dù với dấu hiệu trái nhau. Tình cảm thù nghịch đối với ông thầy thuốc cũng là một “hoán chuyển” vì tình thế do sự chữa chạy gây nên không thể làm nảy nở được một tình cảm như thế; do đó chúng ta phải chấp nhận sự có mặt của sự hoán chuyển tiêu cực, điều này chứng tỏ rằng chúng ta đã không lầm khi nói đến sự hoán chuyển tích cực hay những tình cảm yêu dấu.

Sự hoán chuyển từ đâu mà ra? Nó đã đưa cho chúng ta những khó khăn gì? Chúng ta làm sao để vượt qua những khó khăn đó? Chúng ta có lợi gì về những khó khăn đó không? Tất cả những vấn đề này chỉ có thể được nghiên cứu vào chi tiết trong một bài về kỹ thuật phân tâm học. Ở đây tôi nói qua cho các bạn nghe thôi. Tất nhiên chúng ta sẽ không nhượng bộ trước sự đòi hỏi của người bệnh do sự hoán chuyển gây nên; nhưng giận dữ gạt bỏ chúng đi là một điều không hợp lí. Chúng ta vượt qua được sự hoán chuyển bằng cách nói cho người bệnh biết là những tình cảm của anh ta không phải do sự giao thiệp với ông bác sĩ gây ra, mà chính là do một tình trạng xảy ra từ lâu nay lại sống lại trong người anh ta thôi. Chúng ta buộc người bệnh phải đi ngược trở lại từ lúc tình cảm này phát sinh ra đến lúc khởi thuỷ còn ghi lại kỉ niệm trong người bệnh. Khi đạt được kết quả này rồi thì sự hoán chuyển, dù âu yếm hay thù nghịch cũng đặt vào tay chúng ta cái chìa khoá để mở được tất cả các cửa thầm kín nhất trong đời sống tinh thần. Tôi muốn nói một vài điều để làm tan sự ngạc nhiên của các bạn về hiện tượng bất ngờ này. Các bạn đừng quên rằng căn bệnh đang nghiên cứu này không phải là hiện tượng đã hoàn tất, cứng rắn mà là hiện tượng luôn luôn phát triển và lớn mạnh như một sinh vật vậy. Lúc đầu việc chữa chạy không chấm dứt được sự phát triển đó, nhưng một khi người bệnh đã tìm hiểu thì những cứ điểm cấu thành mới của căn bệnh được tập trung lại ở một điểm duy nhất: sự giao thiệp giữa người bệnh và ông thầy thuốc. Sự hoán chuyển có thể được đem so sánh với những lớp giữa thân cây và vỏ cây, khởi điểm cho sự cấu thành mới của những mô mới làm cho thân cây ngày càng dầy hơn. Khi sự hoán chuyển trở nên khá quan trọng rồi thì công việc nghiên cứu các kỷ niệm của người bệnh bị chậm trễ rất nhiều. Người ta có thể nói rằng, người ta không phải đang chữa một căn bệnh xảy ra từ trước mà đang chữa một căn bệnh hoàn toàn mới, biến dạng hẳn, thay thế căn bệnh trước. Lớp mới đến thêm vào lớp cũ này chúng ta đã theo dõi ngay từ lúc đầu, đã trông thấy nó phát sinh ra và phát triển, vì chúng ta đứng ở trung tâm điểm nên chúng ta có thể tìm ra chiều hường dễ dàng. Tất cả những triệu chứng đều mấy hết ý nghĩa lúc sơ khởi, có một ý nghĩa mới có liên quan với sự hoán chuyển. Hay chỉ còn những triệu chứng cũ chịu biến đổi với sự xuất hiện của hoán chuyển là còn lại thôi. Chế ngự được căn bệnh thần kinh nhân tạo này tức là huỷ bỏ được căn bệnh do sự chữa chạy gây nên. Hai kết quả này đi liền với nhau và khi đạt được thì công việc chữa chạy của chúng ta chấm dứt. Con người trong sự giao thiệp với ông thầy thuốc đã trở thành bình thường, thoát khỏi được các khuynh hướng bị dồn ép, cũng sẽ vẫn giữ được mức bình thường đó một khi ông thầy thuốc không có mặt nữa.

Chính trong bệnh náo loạn thần kinh, bệnh lo sợ có bệnh ám ảnh mà sự hoán chuyển có tầm quan trọng đặc biệt kỳ lạ đó. Vì thế nên người ta có lý khi gọi những bệnh này là “bệnh thân kinh hoán chuyển”. Người nào khảo cứu về phân tâm học đã có một khái niệm khác đúng về thực chất của sự hoán chuyển hẳn biết rõ không còn gì hồ nghi nữa, rằng những khuynh hướng bị dồn ép và xuất hiện dưới hình thức triệu chứng bệnh thần kinh có đặc tính gì rồi, sẽ không còn đòi hỏi bằng chứng gì nữa về tính chất khát dục của các khuynh hướng đó. Chúng ta có thể nói rằng lòng tin tưởng của chúng về tầm quan trọng của các triệu chứng bắt nguồn ở sự thoả mãn khát dục bằng cách thay thế chúng bằng cách khác chỉ được khẳng định hoàn toàn sau khi nghiên cứu về sự hoán chuyển này.

Và bây giờ chúng ta có hơn một lí do để hoàn bị hoá quan niệm trước đây của chúng ta về cách chữa khỏi bệnh, làm cho quan niệm này ăn khớp với quan niệm mới. Khi người bệnh bắt đầu chống lại sự đề kháng mà chúng ta đã cho anh ta biết rõ, anh ta cần một sự thúc đẩy thực mạnh mẽ để cho sự quyết định nghiêng về phía chúng ta muốn, nghĩa là về phía khỏi bệnh. Nếu không, sự quyết định có thể nghiêng về phía lập lại tình trạng trước và dồn ép trở lại những cái gì mà chúng ta đã được đến gần ý thức. Điều quyết định trong sự việc này không phải sự thông minh của người bệnh - trí thông minh này không đủ mạnh, không đủ tự do để làm việc đó – mà chính là thái độ của người bệnh đối với ông thầy thuốc. Nếu sự hoán chuyển có tính chất tích cực thì người thầy thuốc trở nên có uy tín thực tốt đẹp, biến đổi sự thông cảm thành lòng tin tưởng. Nếu không có sự hoán chuyển đó, hay sự hoán chuyển chỉ có tính cách tiêu cực thì người bệnh sẽ không thèm để ý gì đến lời thầy thuốc. Lòng tin tưởng trong dịp này lặp lại chính lịch sử phát sinh của mình: nó là con đẻ của tình ái và không cần đến lý lẽ nào khác lúc ban đầu. Chỉ mãi về sau này nó mới bị gán cho cái lý lẽ một tầm quan trọng đủ để đem ra nghiên cứu khi những lý lẽ đó do các người yêu dấu đưa ra, không có và không bao giờ có một tác dụng gì trong đời sống của phần lớn mọi người. Vì thế cho nên chúng ta chỉ có thể đánh vào khía cạnh trí thức của con người một khi con người có đủ khả năng tích luỹ được nhiều đối tượng khát dục, chúng ta có nhiều lý do để cho rằng phân tâm học chỉ có ảnh hưởng tới một mức độ nào đó đối với người bệnh và mức độ đó tuỳ thuộc vào mức độ của bệnh nác xít của người bệnh.

Người bình thường nào cũng có khả năng tích luỹ trong người mình một số sinh lực khát dục. Khuynh hướng hoán chuyển nói trên chỉ là sự quá độ kỳ lạ của khả năng tích luỹ này thôi. Có điều kỳ lạ là một đặc tính quan trọng và xảy ra rất nhiều như thế mà không được chú trọng cho đúng giá trị của nó. Vì thế nên nó không lọt qua mắt những nhà quan sát kỹ lưỡng. Vì thế nên Bernheim đã tỏ ra rất sâu sắc khi thành lập thuyết về hiện tượng thôi miên dựa trên đề luận là tất cả mọi người đều có thể “dễ bị ám thị”. Tính cách “dễ bị ám thị” này chẳng là gì khác hơn khuynh hướng hoán chuyển, hiểu theo nghĩa hẹp nghĩa là có hoán chuyển tiêu cực. Tuy nhiên Bernheim chứng minh cho chúng ta biết sự ám thị là một sự kiện cơ bản không cần biết rõ nguồn gốc. Ông ta không nhìn rõ dây liên lạc giữa sự “dễ bị ám thị” và tình dục hay sự hoạt động của khát dục. Chúng ta cần biết rằng nếu trong kỹ thuật của chúng ta, chúng ta đã bỏ rơi thôi miên chính là để lại tìm thấy sự ám thị dưới hình thức của sự hoán chuyển.

Nhưng tôi dừng lại ở đây và nhường lời cho các bạn. Tôi chợt thấy rằng các bạn có một lời bài bác mạnh đến nỗi nếu không cho các bạn nói ra các bạn sẽ không thể nào tiếp tục theo dõi bài trình bày của tôi được. Các bạn sẽ nói: “Vậy tức là rút cục giáo sư cũng công nhận rằng giáo sư đã làm việc với sự trợ giúp của sự ám thị chẳng khác gì các nhà thôi miên học. Chúng tôi chờ đợi điều đó từ lâu rồi. Nếu chỉ có sự ám thị mới là yếu tố duy nhất có hiệu quả thì tất cả những điều đã làm như gợi là kỷ niệm của dĩ vãng, khám phá ra vô thức, giải thích những sự biến dạng, mất bao nhiêu cố gắng, bao nhiêu công của thời giờ dùng được vào việc gì đây? Tại sao ông lại không trực tiếp hoán vị các triệu chứng cũng như những nhà thôi miên học lương thiện khác. Nếu để bào chữa việc đi loanh quanh mãi, ông cho rằng ông đã khám phá ra nhiều điều về phương diện tâm lí quan trọng thì có cái gì đảm bảo giá trị cũng như sự khám phá đó? Nhưng sự khám phá đó không phải là kết quả của sự ám thị sao, những sự ám thị không có ý? Ông không thể dùng phương pháp của ông bắt buộc người bệnh phải theo những điều ông muốn và cho là đúng sao?

Điều các bạn nói đó thực hay và cần được trả lời. Nhưng vì không có thì giờ nên tôi không thể trả lời ngay được. Tôi sẽ chỉ chấm dứt những điều đã bắt đầu. Tôi đã hứa với các bạn là cho các bạn biết tại sao chúng ta lại thất bại trong việc chữa chạy bệnh thần kinh nác xít.

 Tôi chỉ cần nói vài điều thôi và các bạn sẽ thấy là những điều đó thực giản dị và phù hợp với mọi điều khác. Quan sát cho thấy rằng những người bệnh nác xít không có khả năng chuyển hoán hay nếu có thì chỉ có rất ít, chẳng có nghĩa lý gì. Họ đẩy ông thầy thuốc ra không phải vì thù nghịch mà vì lơ là. Vì thế nên chúng ta không ảnh hưởng đến họ được: những điều ông thầy thuốc nói chẳng ăn thua gì với họ cả, họ tỏ vẻ lạnh lùng; vì thế cho nên công việc chữa chạy dựa trên việc làm sống lại sự xung đột gây bệnh, vượt qua được sự đề kháng của sự dồn ép, đã tỏ ra rất hiệu quả trong các bệnh khác lại tỏ ra chẳng ăn thua gì trong bệnh này. Người bệnh vẫn như cũ. Chính họ cũng đã cố gắng để lấy lại tình thế nhưng những cố gắng này chỉ đưa đến những hậu quả bệnh hoạn mà thôi. Chúng ta chẳng làm gì để thay đổi tình trạng đó được.

Dựa vào những dữ kiện bệnh lí chúng ta khẳng định rằng đối với người bệnh này khát dục đã tách rời khỏi các đối tượng và biến thành khát dục của cái tôi. Chúng ta tưởng có thể dùng đặc tính này để phân biệt bệnh thần kinh này với loại bệnh thần kinh đầu tiên (náo loạn thần kinh, lo sợ, ám ảnh). Vậy mà thái độ của bệnh này trong việc chữa chạy đã xác nhận quan điểm của chúng ta. Vì không có hiện tượng chuyển hoá nên những người bệnh này thoát khỏi ảnh hưởng của chúng ta và không thể khỏi bệnh bằng những phương sách hiện có của chúng ta.

<< Thuyết khát dục và bệnh thần kinh Narcissisme | Phương pháp trị liệu phân tâm học >>


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 988

Return to top