Chuyến đi của đại uý Glen và bác sĩ Clery hoàn toàn không nhằm mục đích tìm kiếm Nen và Xtas.Đó là một chuyến đi rất đông người và được hậu cần chu đáo của chính phủ, nhằm mục đích nghiêncứu sườn phía Đông Bắc của dãy núi Kilima Ndarô khổng lồ, cùng với những vùng đất còn rất ít được biết đến nằm ở phía Bắc rặng núi này. Mặ c dù cả đại uý lẫn bác sĩ đều biết tin về việc bọn trẻ bị bắt cóc từ Mêđinét En Phaium (vì các nhật báo Anh và Ả Rập đều đưa tin này) nhưng họ nghĩ rằng cả hai trẻ hoặc đã chết hoặc đang rên xiết trong cảnh nô lệ ở xứ sở của tên Mahơđi, nơi mà không một ngườidân châu Âu nào trốn thoát. Ông Clery có người chị lấy ông Rôlixơn ở Bombay, rất yêu thích cô bé Nen trong chuyến đi tới Cairô, cảm thấy vô cùng đau đớn vì bị mất cô bé.
Song cả hai ông nói chung cũngchân thành thương tiếc cậu bé cương nghị. Đã mấy lần liề n từ Mombaxa họ gửi điện tới ông Rôlixơn để hỏi thăm xem đã tìm thấy bọn trẻ chưa, và mãi cho tới khi nhận được bức điện cuối cùng - điện đến từ trước khi họ lên đường khá lâu - với câu trả lời mang tin buồn, thì cả hai mới mất hi vọng.
Thậm chí họ không hề nghĩ rằng bọn trẻ vốn bị giam ở thành Kháctum xa xôi lại có thể xuất hiện ở vùng này. Tuy nhiên, thường thường, về đêm, sau khi kết thúc những công việc ban ngày, họ thường trò chuyện về bọn trẻ, vì bác sĩ không sao quên nổi cô bé xinh xắn tuyệt vời nọ.
Trong khi đó, chuyến đi của họ càng ngày càng tiến xa. Sau khi dừng chân một thời gian lâu trêncác sườn phía Đông của dãy núi Kilima Ndarô, sau khi đã khảo sát nguồn sông Xốpbát và Tana cùng ngọn núi Kênia, đại uý và bác sĩ quặt về phía Bắc, rồi sau khi vượt qua vùng Cuaxô Nưirô lầy lội, họ tiến vào một vùng đồng bằng rộng lớn, không cư dân, chỉ có những đàn linh dương không tính xuể sinh sống. Sau hơn ba tháng đi đường, cần để cho mọi người được nghỉ ngơi một thời gian dài, vậy nên đại uý Glen - sau khi phát hiện được cái hồ nhỏ nhiều nước, một thứ nước màu nâu nâu nhưng rất lành, liền ra lệnh hạ trại tại đó và tuyên bố nghỉ mười ngày.
Trong khi dừng chân nghỉ, hai người da trắng thường lo việc săn bắn, chỉnh lại những ghi chép về địa lí và tự nhiên, còn những người da đen thì rong chơi theo đúng sở thích của họ. Một ngày kia, bác sĩ Clery dậy sớm, vừa khi đến bên bờ hồ, ông trông thấy khoảng mươi người Dandiba trong đoàn đang ngước mắt nhìn lên một ngọn cây cao, lặp đi lặp lại một cách luẩn quẩn:
- Ndege? Akuna ndege! Ndege? (Chim? không phải chim!
Chim?) Bác sĩ bị cận thị nên bảo người về lều mang lại cho mình cái kính dã chiến, rồi nhìn qua kính lên cái vật mà những người da đen đang chỉ trỏ - và một nỗi kinh ngạc hiện lên trên mặt ông.
- Hãy mời đại uý đến ngay! - Ông bảo.
Song trước khi những người da đen kịp chạy đến nơi, đại uý đã hiện ra trước cửa lều vì ông đang định đi săn linh dương.
- Trông này, anh Glen! - Bác sĩ vừa nói vừa trỏ lên cây.
Đến lượt đại uý cũng ngửa đầu nhìn lên, lấy tay che mắt và ngạc nhiên không kém bác sĩ.
- Cái diều! - Ông kêu lên.
- Phải, nhưng những người da đen không biết thả diều, từ đâu nó bay lại đây mới được chứ?
- Có lẽ có một cái làng da trắng nào hay một đoàn truyền giáo nào đó đang ở gần đây chăng?...
- Gió đã thổi từ hướng Tây suốt ba ngày nay rồi, nghĩa là thổi từ phía vùng ta chưa biết, vùng mà hình như cũng không người như cái đồng hoang này vậy. Mà anh cũng biết đấy, vùng này đâu có làng nào, cũng có đoàn truyền giáo nào đâu.
- Vậy thì lạ thật nhỉ...
- Phải lấy cho được. Có thể chúng ta sẽ biết được nó xuất phát từ đâu chăng.
Đại uý ra lệnh. Cái cây cao vài chục mét, nhưng những người da đen trong chớp mắt đã leo lên đến ngọn, cẩn thận lấy cái diều đang bị vướng xuống, đưa cho bác sĩ. Bác sĩ vừa nhìn cái diề u đã bảo ngay:
- Có những chữ gì đây này... Ta đọc xem...Rồi nheo mắt lại, ông bắt đầu đọc. Bỗng nhiên mặt ông biến đổi hẳn, tay run run.
- Anh Glen, - ông nói, - anh hãy cầm lấy đọc lênvà bảo cho tôi biết xem tôi có bị say nắng không và trí óc tôi có hoàn toàn minh mẫn hay không.
Đại uý cầm lấy cái gọng diều bằng tre có dán tờ giấy và đọc như sau: “Nenly Rôlixơn và Xtanixoáp Tarcôpxki.
Bị đưa từ Kháctum đi Phasôđa. Rồi từ Phasôđa bị đưa về phía dòng sông Nin.Đã thoát khỏi tay bọn phiến loạn. Sau nhiều tháng đi đường chúng tôi đã đến được một cái hồ nằm ở phía Nam Abixinia.Chúng tôi đang đi về phía Đông. Yêu cầu được cứu ngay".Ở rìa tờ giấy có một dòng ghi thêm bằng nét chữ nhỏ hơn:
“Cái diều này là cái thứ năm mươi tư, đượ c thả lên từ dãy núi vây quanh cái hồ chưa có tên trong địa lí. Ai nhặt được xin chuyển cho Công ti Kênh đào ở Port Xaiđơ hoặc cho đại uý Glen ở Momxaba.
Xtanixoáp Tarcôpxki“. Khi giọng đọc của đại uý đã lặng đi, cả hai người bạn cùng im lặng nhìn nhau.
- Cái gì thế này? - Mãi sau bác sĩ Clery mới hỏi.
- Tôi không tin vào mắt mình nữa! - Đại uý trả lời.
- Nhưng đây đâu phải là ảo ảnh.
- Không phải!
- Rõ ràng viết: “Nenly Rôlixơn và XtanixoápTarcôpxki”.
- Thật rõ ràng.
- Sao bọn trẻ lại có thể ở vùng này nhỉ?
- Chúa đã cứu thoát chúng, rất có thể là như thế.
- Tạ ơn Người! - Bác sĩ nhiệt thành kêu lên.
- Nhưng biết tìm bọn chúng ở đâu bây giờ.
- Trên diều không còn viết thêm gì nữa à?
- Còn vài chữ nữa nhưng đúng vào chỗ bị cành cây chọc thủng. Khó mà đọc nổi.
Cả hai chụm đầu xuống tờ giấy và sau khi nghiên cứu khá lâu, họ mới đánh vần được nổi:
- “Mùa mưa qua đã lâu”.
- Thế có nghĩa là gì? - bác sĩ hỏi.
- Có nghĩa là thằng bé không còn tính được thời gian nữa.
- Và bằng cách này nó muốn báo gần đúng thời gian. Anh nó i phải lắm. Và như thế có nghĩa là chiếc diều này mới thả cách đây chưa lâu.
- Nếu đúng như thế thì bọn trẻ ở cách đây không xa!
Cuộc trò chuyện sôi nổi đứt đoạn còn kéo dài một chút nữa, rồi hai người bạn lại nghiên cứu cái tài liệu nọ một lần nữa, mỗi người đều nghiền ngẫm riêng mình thật kĩ mỗi lời mỗi chữ ghi trên đó. Song việc này khó tin đến nỗi giá như nó không xảy rađúng vào cái vùng hoàn toàn không có người Âu sinh sống và cách bờ biển những sáu trăm cây số, thì hẳn bác sĩ và đại uý đã cho rằng đó chỉ là mộttrò đùa không phải lúc mà một bạn trẻ người Âu nào đó hoặc những đứa con nuôi của một đoàn truyền giáo nào đó đã bày đặt ra sau khi đọc tin về việc bọn trẻ bị bắt cóc qua các báo mà thôi. Song thật khó mà không tin vào chính mắt mình: họ đang cầm cái diều thật trong tay, trên đó nổi rõ lên những hàng chữ màu đen đã hơi bị mờ đi.
Ấy thế mà nhiều chuyện họ không sao hiểu nổi. Bọn trẻ kiếm ở đâu ra giấy để làm diều? Nếu như có một đoàn thương khách nào đó cho chúng giấy, thì hẳn là chúng đã nhập luôn vào đó và đâu cần xin cứu viện nữa. Vì những lí do gì mà cậu bé không cố gắng cùng với cô bạn đồng hành nhỏ bé của mình chạy trốn sang Abixinia? Vì sao bọn phiếnloạn đày bọn trẻ về phía Đông sông Nin, tới vùng đất chưa ngườ i biết đến? Làm cách nào chúng có thể thoát khỏi tay bọn canh giữ? Chúng ẩn náu ở đâu? Bằng phép màu nhiệm nào mà suốt hàng tháng trời đi đường ròng rã chúng không bị chết đói, không làm mồi cho dã thú? Vì sao những người dã man không giết chúng? Tất cả những câu hỏi đó đều không có trả lời.
- Tôi không hiểu gì cả, tôi không thể hiểu gì cả!
- Bác sĩ Glery lặp đi lặp lại. - Họa chăng đó là sự kì diệu của Chúa.
- Chắc chắn là thế. - Đại uý đáp.
Rồi ông nói thêm:
- Nhưng cả cái thằng bé ấy nữa chứ! Vì rõ ràng đây là công lao của nó.
- Nó đã không bỏ rơi con bé! Cầu Chúa ban phước lành cho cái đầu và đôi mắt của chú bé!
- Xtanlây, thậm chí cả Xtanlây cũng không thể sống nổi quá ba ngày trong những điều kiện như thế.
- Ấy thế mà bọn trẻ lại sống nổi.
- Và chúng đang cầu cứu. Chấm dứt chuyện nghỉ ngơi! Lên đường ngay lập tức!
Và họ làm đúng thế. Dọc đường hai người bạn lại nghiên cứu tài liệu một lần nữa, vì họ tin rằng có thể tìm thấy trong đó lời chỉ dẫn về phương hướng mà họ cần phải đi để cứu bọn trẻ.
Nhưngkhông có chỉ dẫn nào hết. Đại uý dẫn đoàn đi theo đường dích dắc với hi vọng là có thể gặp một đống lửa đã tắt hoặc những dấu hiệu nào đó khắc lên vỏ cây. Họ cứ đi như thế mấy ngày liền.
Không may, sau đó họ tiến vào một vùng đồng bằng hoàn toàn không có cây cối gì, chỉ phủ đầy những bụi thạch thảo cao và những lùm cỏ khô khốc. Nỗi lo lắng bắt đầu hành hạ hai ngườ i bạn. Trên cái khoảng không gian mênh mông này thậm chí có thể dễ dàng bỏ qua cả những đoàn thương khách lớn chứ chưa nói tới hai đứa trẻ con, mà theo tưởng tượng của họ, đang bò trườn ở đâu đó như hai con sâu nhỏ giữa nhữ ng bụi thạch thảo còn cao hơn chúng nữ a. Lại một ngày nữa trôi qua. Nhữ ng cái lon đựng giấy để lại trong các bụi cây cũng như những đống lửa ban đêm không hề giúp gì. Đại uý và bác sĩ đôi khi đã bắt đầu thấy mất hi vọng, không hiểu liệu có tìm thấy bọn trẻ hay không, nhất là có tìm thấy chúng cò n sống hay không.
Tuy nhiên, họ vẫn tìm kiếm một cách nhiệt thành suốt mấy ngày nữa. Những đội tuần tra mà đại uý Glen phái đi sang phía bên trái và bên phải cho biết rằng tiếp theo đây sẽ là vùng hoang mạc khô cằn hoàn toàn không có nước, cho nên khi tình cờ tìm thấy nước trong một khe đất, họ đành phải dừng lại để lấy nước chuẩn bị cho chuyến đi tiếp tục.
Cái khe thực ra chỉ là một hẽm sâu chừng mươi mét và rất hẹp. Dưới lòng khe có nguồn nước nóngsủi bọt như sôi vì có chứa axít cácbôníc. Song sau khi để nguội đi, nước lại rất tốt và rất lành. Nguồn nước dồi dào đến nỗi cả ba trăm người trong đoàn cũng không thể khiến nó cạn được. Ngược lại, họcàng lấy nhiều nước bao nhiêu thì nguồn lại càng phun mạnh bấy nhiêu và khiến cho khe càng đầy hơn nhiều.
- Cũng có thể với thời gian vù ng này sẽ thành một nơi chữa bệnh, - bác sĩ Clery nói. Nhưng hiện nay thì bọn thú không uống được nước này vì hai sườn khe quá dốc.
- Liệu bọn trẻ có tìm ra được một nguồn nước tương tự như thế này không nhỉ? - Đại uý hỏi.
- Không rõ. Cũng có thể là trong vùng này có nhiều nguồn nước. Nhưng nếu không thì bọn trẻ chết mất vì thiếu nước.
Đêm đến. Họ đốt lên những đống lửa heo hắt mặc dù không dựng hàng rào chắn vì chẳng biết dựng bằng gì. Sau khi ăn tối, bác sĩ và đại uý ngồi trên những chiếc ghế gấp và vừa hút thuốc vừa trò chuyện về những điều đang đè nặng nhất lên trái tim họ.
- Không có lấy một dấu vết nào hết! - Ông Clerythốt lên.
- Mình đã định, - Glen đáp, - phái mươi người của chúng ta đi đến biển để đánh điện báo là đã có tin bọn trẻ. Nhưng thật mừng là mình đã không làm việc đó, vì chắc là những người này sẽ chết dọc đường, mà nếu họ có đến nơi được chăng nữa thì khuấy lên cái hi vọng hão huyền mà làm gì...
- Để lại khiến cho nỗi đau trở lại...
Bác sĩ nhấc cái mũ ra khỏi đầu, lau trán đẫm mồ hôi.
- Này, - ông nói, - nhưng nếu chúng mình quay trở lại cái hồ ấy, chặt thật nhiều cây và đêm đêm đốt những đống lửa thật to thì có thể bọn trẻ thấy được đấy...
- Nếu như chúng ở gần thì thể nào chúng mình cũng tìm được chúng, còn nếu chúng ở xa thì sự lồi lõm của địa hình sẽ che mất ánh lửa. Cái bình nguyên này có vẻ bằng phẳng nhưng thực ra đầy gò đống, lượn sóng như mặt đại dương. Thêm nữa, nếu đi lùi lại thì chúng mình bị mất thêm khả năng tìm ra dấu vết của bọn trẻ.
- Anh hãy nói thẳng xem, không còn tí hi vọng nào nữa à?
- Bạn thân yêu ơi, chúng ta là người lớn, mạnh khỏe và tháo vát, thế nhưng cậu hãy nghĩ thử xem chuyện gì sẽ xảy ra nếu như chúng mình chỉ có độc hai đứa rơi vào xứ này, cứ cho là có cả khí giới đi, nhưng không có lương thực và không có người nào khác...
- Phải, phải, đáng buồn là đúng như vậy... Tôi hình dung ra cảnh hai đứa trẻ đi qua vùng hoang mạc trong một đêm như thế này.
- Đói, khát, thú dữ...
- Ấy thế mà thằng bé lại viết rằng chúng nó đã đi qua nhiều tháng ròng rã.
- Thế nên trong chuyện này có cái gì đó vượt quá sức tưởng tượng của mình.
Một hồi lâu trong lặng im chỉ nghe thấy tiếng thuốc lá đang ngún cháy trong nõ tẩu. Bá c sĩ nhìn đăm đăm vào bóng đêm nhợt nhạt, rồi hạ giọng nói:
- Khuya rồi, nhưng tôi không thấy buồn ngủ...Cứ nghĩ rằng bọn trẻ còn sống, vẫn đang lang thang đâu đó trong ánh trăng, giữa những bụi thạch thảo khô khốc này... mỗi mình hai đứa... hai đứa trẻ con như thế. Anh có nhớ không, Glen, cái khuôn mặt đầy vẻ thiên thần của cô bé.
- Nhớ chứ, mình không sao quên được.
- Ôi! Tôi sẵn sàng để cho chặt tay mình giá như...
Ông không nói hết câu, vì đại uý Glen bật dậy như bị bỏng.
- Pháo hiệu ở phía xa! - Ông kêu lên. - Pháohiệu!
- Pháo hiệu! - Bác sĩ lắp lại.
- Có một đoàn người nào đó đang ở phía trướcchúng ta.
- Có thể là họ đã tìm thấy bọn trẻ.
- Có thể. Mau đến với họ đi!
- Tiến lên!
Nhữ ng mệnh lệnh của đại uý trong chớp mắt loan ra toàn trại. Những người Danbiba bật dậy.Nhữ ng ngọn đuốc được thắp sáng lên ngay. Để trả lời lại tín hiệu phía xa, ông Glen cho đốt liền mấy cái pháo hiệu, cái nọ tiếp theo cái kia, rồi sau đó cho bắn mấy loạt súng. Chưa đầy mươi lăm phút cả trại đã lên đường.
Từ phía xa có những tiếng súng đáp lại. Không còn nghi ngờ gì nữa, rằng có một đoàn người Âu đang kêu gọi sự giúp đỡ vì một lí do chưa tường nào đó.
Đại uý và bác sĩ thi nhau chạy, vừa hi vọng vừa phập phồng lo sợ. Họ có tìm thấy bọn trẻ hay không? Bác sĩ nhủ thầm trong bụng rằng nếu như không thì chắc hẳn trên con đường tiếp theo đó họ chỉ còn tìm thấy xác của chúng giữa những lùm thạch thảo kinh khủng này mà thôi.
Nửa giờ sau, một cái gò nhô lên trong số nhữ ng chỗ lồi lõm được nói tới trên kia đã chắn mất tầm mắt của hai người bạn.
Nhưng họ đã tới gần đến nỗi có thể nghe rõ tiếng vó ngựa. Chỉ mấy phút sau, trên sườn đồi đã hiện ra một kị sĩ đang ôm giữ trước mặt mình một vật gì đó to lớn màu trắng.
- Giơ đuốc lên cao! - Glen ra lệnh.
Đúng vào lúc đó người kị sĩ nọ dừng ngựa trong vùng ánh sáng.
- Nước! Nước!
- Bọn trẻ! - Bác sĩ Clery hét lên.
- Nước! - Xtas lặp lại. Và em gần như ném Nen vào tay đại uý rồi nhảy xuống ngựa.
Song ngay tức khắc em lảo đảo và ngã vật xuống như chết.