Toàn bộ dân làng đưa tiễn khá xa Mdimu Tốt và rơi lệ từ biệt cô, cố nài nỉ cô lúc nào đó ghé thăm M Rua và hãy nhớ tới lũ làng của ông. Xtas ngần ngừ một lúc, không hiểu có nên chỉ cho những người da đen cái khe núi, nơi chôn giấu những thứ hàng hóa và thức ăn dự trữ được thừa hưởng của ông Linđe hay không - những thứ mà vì thiếu người mang vác nên em đành phải bỏ lại. Nhưng nghĩ rằng việc sở hữu những kho báu như thế có thể làm bùng lên trong họ lòng hằn học và ganh ghét nhau, đánh thức sự tham lam và làm vẩn đụ c cuộc sống vốn đang thanh bình của họ nên em bỏ ý định ấy. Ngược lại, em bắn hạ một con trâu to và để thịt của nó lại cho họ làm bữa tiệc tiễn chân. Nhìn thấy một lượng thịt lớn như thế, họ rất vui sướng.
Trong ba ngày tiếp đó, cả đoàn lại đi qua vùng hoang mạc.
Ban ngày thì nóng nực, nhưng ban đêm lại lạnh - vì vùng này nằm ở độ cao lớn, đến nỗi Xtas phải bảo Mêa bọc Nen trong hai lần chăn. Giờ đây bọn trẻ thường phải vượt qua những khe núi, có khi chỉ là những khe núi trơ trụi đầy sỏi đá, nhưng đôi khi lại là những khe đầy cây cối, phải cố gắng lắm mới vượt qua nổi. Trên bờ những khe núi ấy, bọn trẻ thường nhìn thấy những con khỉ lớn, nhiều khi cả sư tử và báo, bọn này làm tổ trong các hang đá. Xtas bắn hạ một con báo theo yêu cầu của Cali, sau đó cậu bé da đen khoác ngay tấm da của nó vào người để dân da đen có thể biết ngay rằng họ đang được tiếp xúc với một người dòng dõi hoàng tộc.
Sau những khe núi đó, trên một bình nguyên nằm ở độ cao lớn, lại bắt đầu xuất hiện những cái làng của người da đen. Một số làng nằm cạnh nhau, một số cách nhau tới một hai ngày đường.
Tất cả các làng đều có hàng rào cọc gỗ bao bọc để chống lại sư tử, những hàng rào này được phủ đầy dây leo, đến nỗi nhìn xa trông chúng như cứ như một cụm rừng nguyên thủy vậy. Chỉ đến khi trông thấy khói bốc lên từ bên trong mới có thể biết được rằngtrong đó có người sinh sống. Ở mọi nơi, đoàn người được đón tiếp gần giống như ở làng của ông M Rua, nghĩa là thoạt tiên có nhiều phần lo sợ và nghi ngờ, sau đó kinh ngạc và tôn kính. Chỉ có một lần xảy ra chuyện: khi vừa trông thấy con voi, con Xaba, ngựa và những người da trắng, cả làng bỏ chạy vào khu rừng cạnh đó, đến nỗi không còn ai để nói chuyện nữa. Tuy vậy không một ngọn giáo nào được sử dụng để chống lại đoàn. Vì người da đen trước khi đạo Hồi truyền cho họ lòng căm thù những người không theo đạo và sự tàn bạo, vốn là những người hiền lành và nhút nhát. Cho nên thường thường là Cali “ăn một miếng” của vị vua bản địa, vua bản địa “ăn một miếng” của Cali, rồi sau đó quan hệ hai bên vô cùng thân thiện. Khắp nơi người ta đều bày tỏ lòng thành kính và thần phục đối với Mdimu Tốt dưới dạng gà mái, trứng và mật ong thu được từ những cái kéo gỗ treo bằng nhữngsợi dây dừa trên những cành cây lớn. “Ông lớn”, chủ nhân của con voi, của sấm sét và của những con rắn lửa, thường gây nên sự sợ hãi, tuy nhiên sự sợ hãi đó nhanh chóng biế n thành lòng biết ơn, khi người ta hiểu được rằng tính hào phóng của Xtas sánh ngang với sức mạnh của em. Nơi có các làng ở gần nhau thì sự tới thăm của các vị khách khác thường này được người ta báo trước cho nhau bằng trống, vì người da đen biết cách truyền đạt tất cả mọi điều bằng cách gõ trống. Cũng có trường hợp toàn thể cư dân ra đón tiếp bọn trẻ và ngay từ đầu đã đối xử với chúng hết sức thân thiện.
Trong một làng có chừng nghìn đầu dân, vị thủ lĩnh của làng - vừa là vua vừa là phù thủy - đồng ý chỉ cho bọn trẻ xem “đại linh vật” - vật thờ cúng được giữ gìn, được tôn kính và sợ sệt vô cùng, đến nỗi dân chúng không dám tới gần cái khám thờ bằng gỗ mun, phủ da tê giác, mà chỉ dám đến dâng lễ vật ở cách đó khoảng năm mươi bước chân. Vua kể rằng vật thiêng này rơi xuống từ mặt trăng cách đây không lâu, nó có màu trắng và không có đuôi. Xtas tuyên bố rằng chính em, theo lệnh Mdimu Tốt đã phóng vật ấy lên trời. Nói như thế, em hoàn toàn không sai sự thật chút nào, vì hóa ra cái “linh vật” nọ chỉ là một trong những cái diều mà bọn trẻ đã thả từ núi Linđe. Xtas và Nen vui sướng nghĩ rằng, nếu gió thuận, những chiếc diều khác có thể còn bay xa hơn, và chúng quyết định tiếp tục thả diều từ trên cao nguyên này. Ngay buổi chiều hôm ấy, Xtas đã làm ngay một cái và thả lên trời, điều đó khiến cho dân da đen tin rằng Mdimu lẫn ông lớn da trắng là những vị thần từ mặt trăng xuống, và không thể chỉ kính trọng những vị thần ấy thôi là đủ.
Tuy nhiên, điều khiến Xtas vui sướng hơn những biểu hiện của sự tuân phục và thành kính ấy là tin tức cho biết hồ Baxxa Narốc chỉ ở cách đây chừng mười ngày đường. Những cư dân của cái làng mà hiện nay bọn trẻ đang dừng chân nói rằng, thỉnh thoảng họ còn đổi rượu vang làm bằng cây cọ đum để lấy muối do những người từ phía đó mang lại. Vua bản xứ cũng nghe nói tới vua Phumba, đó làthủ lĩnh của một dân tộc tên gọi là “Đôcô”, và Cali thừa nhận rằng những người láng giềng xa hơn nữa thường gọi người Vahima và người Namburu bằng tên gọi ấy. Tin tức ít đáng mừng hơn là tin cho biết trên bờ con nước lớn ấy đang có chiến tranh, và để tới được Baxxa Narốc, phải vượt qua những ngọn núi rất hoang vu, những khe núi rất dốc đầy dã thú. Song đối với các loài dã thú thì Xtas đâu có lo ngại gì, còn nói về núi hoang vu thì em còn thích hơn là những vùng đồng bằng trũng, vì nơi đó con ma sốt rét, thường xuyên rình rập nhữ ng nhà bộ hành trẻ tuổi này.
Thế là bọn trẻ vui vẻ tiếp tục lên đường. Sau cái làng đông đúc cư dân ấy, chúng chỉ còn gặp có một điểm dân cư nữa, nhưng rất nhỏ bé, giống như một cái tổ chim cheo leo trên bờ vực. Sau đó bắt đầu vùng đồi chân núi, thỉnh thoảng bị những cái khesâu cắt ngang. Về phía Đông nhô lên một dãy đỉnhnúi mờ mờ, trông từ xa như có màu đen thẫm. Đó là vùng đất lạ chưa một ai biết đến.
Trong khi hướng tới đó, bọn trẻ không thể lường được trước những gì chúng có thể gặp phải ở đó, trước khi tới được lãnh thổ của vua Phumba. Không thiếu cây cối trên những trảng trống mà chúng đi qua, nhưng trừ những cây bồng bồng và xiêm gai mọc đơn độc, tất cả các loài cây khác đều mọc thành khóm, tạo nên những lùm cây dầy đặc. Những người bộ hành thường dừng chân trong những lùm cây ấy để ăn uống nghỉ ngơi và lấy bóng mát của chúng.
Trong những lùm cây có vô số loài chim chóc. Rất nhiều loại bồ câu rừng, những con chim rõ to mà Xtas gọi là chim tucan, sả rừng, sáo sậu, chim cu đất và hằng hà sa số những con chim bengalix ríu ra ríu rít trong vòm lá, bay từ khóm cây này sang khóm cây khác, từng con một hoặc cả đàn, biến hóa như những chiếc cầu vồng. Nhìn từ xa, một số cây như đầy những bông hoa màu hồng vậy. Nen đặc biệt thích những con chim bắt ruồi thiên đường và những con chim màu đen to lớn, có điểm trên bộ lông những vệt màu hồng có tiếng hót nghe như tiếng sáo mục đồng.
Những con chim trảu tuyệt đẹp, trên lưng màu hồng, dưới bụng màu thanh thiên nhạt, quay lộn trong ánh sáng mặt trời, tóm gọn những con ong đang bay cùng những con châu chấu. Trên ngọn cây léo nhéo tiếng những chú vẹt xanh, đôi khi điểm thêm những tiếng kêu trong trẻo như chuông bạc, tiếng của những con chim nhỏ màu xanh xám, ẩn kín dưới lá cây ađauxôni đang chào hỏi nhau.
Trước bình minh và sau khi mặt trời lặn có hàng đàn chim sẻ của vùng này bay ngang qua, đông đến nỗi, giá như không có tiếng kêu và tiếng đập cánh của chúng thì có thể tưởng đó là những đám mây. Xtas đoán rằng chính những con chim mỏ trắng này kêu lên những tiếng như chuông bạc ấy, khi chúng đàn ra trong các lùm cây về ban ngày.
Nhưng bọn trẻ ngạc nhiên nhất khi trông thấy những con chim khác bay thành từng đoàn nhỏ, và hót hay như một dàn nhạc thực sự. Mỗi đàn gồm năm sáu con mái và một con trống có lông óng ánh như kim loại. Chúng thườ ng đậu trên những cây xiêm gai đơn độc, con trống đậu trên ngọn cây, những con mái đậu phía dưới - và sau những thanh âm đầu tiên dường như phát ra để lên dây lại cổ họng, con trống bắt đầu hót, còn những con mái im lặng lắng nghe. Khi con trống dứt tiếng hót, lũ chim mái liền họa theo câu cuối cùng trong khúc hót của con trống. Sau khi dừng nghỉ một lúc ngắn, con trống lại tiếp tục, rồi lại kết thúc để lũ chim mái hòa theo, cả đàn bay đi theo một đường bay lượn sóng sang cây xiêm gai khác gần đấy, và dàn nhạc gồm một lĩnh xướng và dàn đồng ca lại lặp lại trong sự tĩnh mịch ban chiều. Bọn trẻ nghe mãi không biết chán. Nen nhớ lại giai điệu của dàn nhạc ấy, và cùng với dàn đồng ca của những con chim mái, cô bé cất giọng thanh thanh của mình hát lên những thanh âm cuối cùng nghe như những tiếng lặp đi lặp lại rất nhanh: “Tui, tui, tui, tui, tuiling, ting, ting!” Một lần, mải lần theo những nhạ c sĩ có cánh, bọn trẻ đi từ cây nọ sang cây kia và bỏ cách xa trại tới khoảng một cây số, để lại trại ba đứa bé da đen, con King và con Xaba, bởi vì Xtas không muốn dắt theo con chó để nó khỏi sủa làm lũ súc vật hoảng sợ, dọc đường em muốn đi săn luôn thể. Khi đàn chim rời cây xiêm gai mọc sau chót để bay sang bờ bên kia một khe núi rộng, cậu bé dừng lại và bảo:
- Bây giờ anh đưa em về chỗ con King, rồi anhđi xem thử xem trong khoảng rừng trên cao kia có linh dương hay ngựa vằn không, Cali nói là thịt khô không còn đủ cho hai ngày nữa đâu.
- Em lớn rồi mà, - Nen đáp, cô bé lúc nào cũng muốn chứng tỏ rằng mình không còn là một đứa trẻ nữa. - Em quay về một mình cũng được. Từ đây trông thấy trại rõ thế kia, cả khói nữa kìa.
- Anh sợ em đi lạc mất thôi.
- Lạc sao được! Ở trong rừng rậm thì có thể em lạcđấy, nhưng ở đây, anh xem, cỏ thấp thế này kia mà!
- Thế nhỡ con gì vồ em thì sao?
- Chính anh bảo ban ngày sư tử và báo không săn mồi đấy thôi. Thêm nữa, con King đang rống lên vì nhớ chúng mình đấy, anh có nghe thấy không? Sư tử làm sao lại dám săn mồi ở chỗ có tiếng con King được.
Và cô bé bắt đầu khăng khăng giữ ý mình.
- Anh Xtas, em đi một mình như người lớn cho coi!
Xtas ngần ngừ một lát, nhưng rồi em cũ ng đồng ý. Quả thực, có thể trông rõ cái trại và làn khói đang bốc lên. Con King nhớ Nen, chốc chốc lại rốnglên. Đi trong cỏ thấp thì không thể lạc đường được, còn sư tử, báo và linh cẩu thì chẳng phải nói tới làm gì, vì những loài thú này chỉ săn mồi ban đêm mà thôi. Cậu bé cũng biết rằng không gì làm cô bé vui sướng hơn là việc chứng tỏ cô không còn bé nữa.
- Thôi được rồi, - cậu bảo, - em đi một mình cũngđược, nhưng phải đi thẳng một mạch về, đừng tha thẩn dọc đường đấy nhé!
- Thế em hái hoa có được không? - Cô bé vừa hỏivừa chỉ vào những cây hoa khổ tô phủ vô số những đóa hoa màu hồng.
- Được.
Nói rồi, cậu bé quay người Nen lại, chỉ cho cô thấy một lần nữa cho yên dạ cái lùm cây nơi khói trại đang bốc lên, nơi phát ra tiếng rống của con King, rồi em lẩn vào trong những lùm cây cỏ cao mọc kín bờ khe.
Nhưng chưa bước được một trăm bước, em đã cảm thấy lo lắng, “Mình thật là ngu ngốc, - em nghĩ, - đã để cho Nen đi một mình trên đất Phi châu này. Ngu, ngu! Nó còn bé thế kia! Mình không được rời nó một bước, trừ khi nào có con King. Ai biết được sẽ gặp chuyện gì? Ai biết được dưới gốc cây hoa màu hồng ấy lại không có một con rắn, một con vượn nào đó có thể từ dưới khe nhô lên tóm lấy nó hay cắn nó thì sao? Lạy Chúa! Mình đã làm một việc quá ngốc!”.
Sự lo lắng biến thành nỗi tự giận mình, trở thành mộ t nỗi sợ hãi thắt ruột. Không nghĩ ngợi gì thêm, em quay ngoắt lại, dường như có một điềm gở báo trước vậy. Em đi vội vã với sự thành thạo đã có được do những chuyến đi săn bắn hàng ngày, súng sẵn sàng nhả đạn, em đi giữa nhữ ng bụi gai trinh nữ không một tiếng động, cứ như một con beo ban đêm đang lần mò tới chỗ đàn linh dương vậy. Một lát sau, em nhô đầu ra khỏi những đám cỏ cao, nhìn - và sững người lại.
Nen đang đứng gần bụi cây khổ tô, hai tay đưa ra phía trước mặt, những đóa hoa màu hồng mà cô bé để rơi xuống trong cơn kinh hoàng đang nằm ngổn ngang dưới chân, còn cách đấy chừng hơn hai mươi bước chân, một con thú to màu vàng xám đang trườn lại phía cô bé trong đám cỏ thấp.
Xtas trông rõ cặp mắt xanh lét của con thú đang nhìn chòng chọc vào bộ mặt trắng như phấn của cô bé, cái đầu nhỏ với đôi tai mỏng dính, những cái xương bả vai của nó nhô cao lên do đang ở tư thế bò trườn rình mồi, cái thân mình dài và cá i đuôi còn dài ngoẵng hơn nữa, chót đuôi đang ve vẩy nhẹ nhàng như mèo. Một giây nữa thôi - chỉ một cái nhảy và thế là Nen hết đời.
Nhìn thấ y cảnh ấy, trong chớp mắt cậu bé đã được tôi luyện và quen với hiểm nguy hiểu ngay rằng nếu như em không bình tĩnh ngay lập tức, nếu như em không tỉnh táo, nếu như em bắn không thật trúng đích mà chỉ làm cho con vật bị thương - dù có bị thương nặng đi nữa - thì cô bé sẽ chết. Song em đã quen với việc chế ngự bản thân mình đến độ, với những ý nghĩ đó, tay chân em bỗng trở nên bình tĩnh dẻo dai như chiếc lò xo bằng thép. Chỉ một thoáng nhìn, em đã trông thấy một cái đốm sẫm màu ở gần mang tai con vật - và bằng một cử chỉ nhẹ nhàng, em chĩa ngay nòng súng vào đó và nổ liền.
Tiếng súng nổ, tiếng kêu thét lên của Nen và một tiếng gào khàn khàn cụt lủn của con vật bật lên gần như đồng thời. Xtas nhảy vọt tới chỗ Nen, lấy mình che cho em, và chĩa ngay súng vào con thú một lần nữa.
Nhưng phát đạn thứ hai không cần thiết nữa, vì con mèo rừng kinh khủng đã nằm bẹp dí dưới đất như một miếng giẻ rách, mũi nó chạm đất, móng cấu chặt vào cỏ, không động đậy. Viên đạn ria đã phá nát toàn bộ cái gáy và xương sống gáy nó. Những vòng óc màu trắng đẫm máu dập nát chườm ra trên mắt nó.
Cậu bé thợ săn và Nen đứng thừ người nhìn con thú bị giết, nhìn nhau một hồi lâu không nói được lên lời. Rồi sau đó diễn ra một chuyện thật lạ lùng. Chính Xtas, vừa mới đây dường như vẫn còn ngạc nhiên về sự tĩnh trí và bình tĩnh như những người thợ săn già u kinh nghiệm nhất trên thế giới, giờ đây bỗng nhiên lại tái nhợt người đi, chân run lẩy bẩy, mắt ứa lệ, rồi hai tay ôm chặt lấy đầu lắp đi lắp lại mãi:
- Ôi, Nen! Nen! Giá mà anh không quay lại!...
Và bị chế ngự bởi nỗi kinh hoàng, bởi cơn tuyệt vọng muộn màng, đến nỗ i mỗi đường gân thớ thịt trong người em như đều run lên hệt như em bị sốt rét vậy. Sau một giây căng thẳng thần kinh và thể xác đến tột độ là giây phút yếu mềm và dịu nguội. Mắt em như thấy cảnh con thú dữ đang nằm nghỉ với cái mõm đẫm máu trong một cái hang tối tămnào đó, cùng cái thi thể nát nhừ của Nen. Điều đó có thể diễn ra như thế và chắc chắn sẽ phải xảy ra như thế, nếu như em không kịp quay trở lại. Chỉ một phút nữa thôi, chỉ một giây nữa thôi, - là đã quá muộn. Em không thể chịu đựng nổi cái ý nghĩ ấy.
Và mọi chuyện kết thúc bằng cách Nen lại ai ủi Xtas sau khi cô bé đã bớt sợ. Cái sinh linh nhỏ bé và tốt bụng này quàng hai tay lên cổ Xtas, và vừakhóc vừa gọi em thật to, dường như muốn đánhthứ c em dậy:
- Anh Xtas, anh Xtas ơi! Em có làm sao đâu! Anh nhìn này, em không bị làm sao cả! Anh Xtas! Anh Xtas ơi!
Nhưng phải một lúc lâu Xtas mới định thần và bình tĩnh lại được. Ngay sau đó Cali đến, cậu bénghe thấy tiếng súng ở gần trại và biết rằng không bao giờ bvana kubva bắn súng để chơi, nên nó dẫn theo con ngựa để chở thú săn được. Nhìn thấy con vật bị bắn chết, cậu bé da đen bỗng giật lùi, mặtnó xám ngóe đi ngay lập tức.
- Vôbô! - Nó thét lên.
Mãi đến giờ, bọn trẻ mới bước lại gần cái xác đã cứng lại. Cho đến lúc này Xtas vẫn chưa biết loài thú gì đã bị em bắn hạ. Mới nhìn qua cậu bé ngỡ rằng đó là một con mèo rừng xứ Cáp loại lớn1, nhưng nhìn kĩ hơn em nhận ra rằng không phải như thế, vì con thú bị giết còn lớ n hơn cả báo. Lớpda màu xám hoe vàng của nó điểm những chấm lốm đốm màu hạt dẻ, nhưng đầu nó lại nhỏ hơn đầu báo, vì thế trông nó hơi giống chó sói, chân cũng cao hơn, bàn chân rộng hơn, mắt to tướng. Một con mắt đã bị đạn bắn cho lồi hẳn ra ngoài, con mắt còn lại vẫn đang nhìn bọn trẻ, một con mắt không đáy, bất động và khủng khiếp. Xtas đi đến kết luậnrằng đấy hẳn là một loài báo mà khoa động vật học chưa hề biết đến, cũng giống như hồ Baxxa Narốc mà khoa học địa lí chưa biết đến vậy.
Cali vẫn đang vô cùng kinh hoảng nhìn con vậtnằm thẳng đuỗn, lắp bắp bằng giọng khe khẽ, dường như nó sợ làm con vật thứ c dậy:
- Vôbô!... Ông lớn bắn chết cả vôbô!
Xtas quay lại đặt tay lên mái đầu cô bé, dường như muốn xem lại cho chắ c chắn rằng con vôbô không vồ được em, rồi nó nói:
- Nen, em thấy chưa, dù cho em có lớn hoàn toànrồi đi nữa, em cũng không được phép đi một mình trong rừng!
- Đúng thế, anh Xtas ạ, - Nen đáp với vẻ nhún nhường. - Nhưng với anh hay với King thì em có thể đi được chứ, phải không anh?
- Em kể xem nào. Em có nghe thấy tiếng nó mòlại gần không?
- Không... mãi đến khi có một con ruồi vàng thậtto từ trong hoa bay ra, em quay lại nhìn theo mới thấy nó đang từ trong khe núi trườn ra.
- Rồi sao nữa?
- Nó dừng lại, nhìn em.
- Nhìn lâu không?
- Lâu lắm, anh Xtas ạ. Mãi cho tới khi em buôngthả những bông hoa xuống đất và lấy tay che mắt thì nó mới bắt đầu trườn đến phía em...
Xtas chợt nghĩ ra rằng, giá như Nen là một cô bé da đen thì chắc hẳn đã bị con thú vồ ngay rồi, cô bé thoát được cũ ng còn do con thú ngạc nhiên không hiểu phải làm gì, vì lần đầu tiên nó mới được trông thấy một loài sinh vật lạ .
Một cơn lạnh chạy khắp xương cốt cậu bé.
- Ơn Chúa! Ơn Chúa! Là anh đã quay lại!...
Rồi em hỏi tiếp:
- Thế lúc đó em nghĩ gì?
- Em muốn gọi anh... nhưng không gọi được... nhưng...
- Nhưng sao?
- Nhưng em vẫn nghĩ rằng anh sẽ bảo vệ em... Bản thân em cũng không biết nữa...
Vừa nói thế, cô bé vừa quàng tay ôm lấy cổ Xtas, còn cậu bé vuốt vuốt tóc cô.
- Em không sợ nữa chứ?
- Không.
- Mdimu của anh! Mdimu của anh! Em đã thấy thế nào là Phi châu chưa nào?
- Thấy rồi, nhưng anh sẽ giết chết mọi con thú đáng ghét phải không anh?
- Giết hết!
Cả hai lại nhìn kĩ con vật ăn thịt một lần nữa. Xtas muốn giữ tấm da của con vật làm kỉ niệm nên bảo Cali lột da, nhưng cậu bé sợ có một con vôbô nữa từ khe núi lại mò đến chăng, nên nó xin bọn trẻ đừng để nó ở lại đây một mình. Trả lời câu hỏi rằng nó có sợ vôbô hơn sợ sư tử không, nó nói:
- Sư tử chỉ rống ban đêm mà không nhảy qua hàng rào còn vôbô nhảy qua ngay cả ban ngày, giết nhiều nhiều người da đen ngay giữa làng, rồi bắt một người đem đi ăn thịt. Cả giáo lẫn cung nỏ đều không thể chống lại vôbô, vì không thể giết nổi vôbô đâu.
- Nói bậy, - Xtas nói. - Cậu hãy nhìn xem nó có chết không kìa?
- Ông lớn da trắng giết được vôbô, người da đen không giết được. - Cali đáp.
Rốt cuộc bọn trẻ lấy dây buộc con mèo khổng lồ nọ vào mình ngựa, ngựa kéo nó về trại. Nhưng Xtas không giữ được bộ da của có vì con King, hình như hiểu được rằng vôbô định vồ cô chủ của nó, nó bèn nổi cơn giận dữ đến nỗi mệnh lệnh của Xtas cũng không ngăn nổi nó. Nó lấy vòi túm chặt con vật bị giết, tung lên không hai lần, rồi ra công quật vào thân cây, cuối cùng dùng chân giày xéo, biến xác nó thành một khối bèo nhèo không còn hình thù gì nữa, trông cứ như mứt nấu nhừ. Xtas chỉ kịp cứu lấy cái quai hàm, em đặt quai hàm cùng với phần đầu còn lại của con vật trên đường kiến đi, và chỉ trong một tiếng đồng hồ, lũ kiến đã khiến cho xương sạch đến nỗi, không còn sót lại trên đó một nguyên tử nào của máu thịt hết cả.
-----.
1 Nguyên văn: serval - một loại thú màu xám, to bằng con mèo rừng.