Mộng hay thực
Huỳnh Trung Chánh
Đang chăm chú thêu, nghe tiếng cháu nội Ngọc Diệp reo vang trước cửa, thím Thanh ngưng lại, trễ mắt kiếng xuống, dang hai tay đón núm ruột thân yêu duy nhất của mình hun chùn chụt:
- Hôm nay con học có giỏi không?
Bé chu mỏ:
- Giỏi lắm chứ nội! Con trả bài thuộc lòng được 10 điểm nè, toán cũng 10 điểm nữa nè!
Nghe con bé trổi giọng đớt đát nhão nhoẹt, thím cưng quá mắng yêu: “Tổ cha mầy!”, đoạn thím mĩm cười cầm cái bánh cam trao cho cháu:
- Vậy thì đáng thưởng quá rồi!
Thím Thanh lẵng lặng nhìn cháu háo hức ăn mà niềm vui dâng tràn. Rồi bỗng nhiên thím chợt nhớ đến ba nó, đang vui thím biến thành thương cảm, buông tiếng thở dài để che dấu nỗi nghẹn ngào chất chứa trong lòng.
Thím thầm than thở, người ta thường kháo với nhau là “Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí”, nhận định nầy áp dụng cho hoàn cảnh thím chính xác đến nổi càng nhớ nghĩ thím càng lo sợ chẳng hiểu tại sao tai họa cứ tuần tự tới hoài, biết đến bao giờ tai họa mới chịu buông tha thím? Chỉ mới mười năm trước đây, gia đình thím đang lặn ngụp trong cảnh sung túc an lành tại thị xã Rạch Giá. Vợ chồng thím – Hải và Thanh – “đụng” nhau khi cả hai đang là công nhân mạt hạng cho một vựa cá biển tại thị xã Rạch Giá. Vợ chồng tận lực làm việc ngày đêm, tằn tiện, nhặt nhạnh từng đồng góp thành vốn nhỏ khả dĩ tự đứng thu mua cá biển, rồi chuyên chở đến chợ Cầu Ông Lãnh giao hàng. Tiền bạc lại đẻ ra tiền, thương vụ tăng lên dần, chú thím tậu tàu đánh cá để bớt được khâu trung gian, và cứ thế, chỉ trong một thời gian ngắn họ vừa củng cố vị trí chủ vựa cá biển to lớn vừa làm chủ đoàn tàu đánh cá hùng hậu, tiền bạc vô như nước. Đã vậy, Hưng đứa con trai duy nhất ngoan hiền, học giỏi, lại trúng tuyển vào trường đại học công nghệ, khiến cho bà con cô bác ai cũng trầm trồ khen ngợi.
Thế rồi, ngay trong tiệc rượu tưng bừng mừng con đỗ đạ̣t, đang cụng ly cười nói vang trời, bỗng nhiên chú ôm bụng kêu đau, Thanh đỡ chồng vào giường thì Hải đã nôn mửa thốc ra, rồi nằm rũ riệt thở không ra hơi. Thím cuống quít lăng xăng, lau mồ hôi, thoa dầu, cạo gió, đắp nước nóng... những tưởng bệnh trạng của chú chỉ là thứ trúng thực nhẹ, cần một đêm nghỉ ngơi cũng bình phục, nào ngờ chú cứ oằn oại rên la mãi. Thím hốt hoảng chở vào bệnh viện tỉnh, sau khi thử nghiệm họ khuyên thím khẩn cấp đưa chồng đi Bệnh viện Chợ Rẫy. Từ Chợ Rẫy chú được chuyển sang Viện Ung Thư giải phẩu, cắt bỏ một khúc ruột dài vì bệnh ung thư đại tràng. Sau mấy đợt mổ liên tiếp, chưa kịp hoàn hồn thì chú lại phải chịu đựng sáu trận xạ trị liên tiếp, đồng thời, lại phải uống toàn những loại y dược cực độc, thân xác Hải bèo nhèo khô kiệt, tựa hồ như cơ hội sống sót vô cùng mỏng manh. Cuối cùng, sau bảy tháng trị liệu, mầm mống ung thư dường như đã biến dạng, sức khỏe tương đối vãn hồi đôi phần, hi vọng sẽ có ngày hoàn toàn bình phục. Trong thời gian tận lực lo lắng sanh mạng người chồng yêu, Thanh bỏ xụi công việc kinh doanh, ủy thác viên quản lý tín cẩn toàn quyền quyết định. Trái với niềm tin của thím, khi kiểm soát sổ sách, Thanh khám phá ra cả hai cơ sở đều lỗ lã nặng với những khoản thất thu đáng ngờ. Tệ hại nhất là đoàn đánh tàu đánh cá, đã không sanh lợi, mà có chiếc còn bị hư hỏng bỏ phế chỉ vì thiếu chăm sóc. Thời điểm nầy, tuy mạng sống của Hải có thể bảo toàn, nhưng làm sao chàng đủ sức tiếp tay vợ gánh vác bao nhiêu công việc đổ tấp lên đầu như xưa. Một mình thím, cố gắng lắm, may ra thím đủ sức kiểm soát vựa cá, nhưng mải mê kiếm tiền, bỏ bê chồng lây lất với cơn bệnh ngặt nghèo thì thím không nỡ. Vì vậy, thím đành quyết định sang vựa cá và bán đổ bán tháo đoàn tàu cá, mang toàn bộ tài sản lên Saigon sinh sống. Thanh mua ngôi nhà rộng rãi tại mặt tiền đường Sư Vạn Hạnh, xéo xéo chùa Ấn Quang, với giá tương đối rẻ. Thím chọn khu xóm bình dân ở để dấu tông tích giàu sang của mình, địa điểm nầy lại rất thuận tiện để thím đưa chồng tới lui bệnh viện. Thật ra, Thanh dự trù trong tương lai, khi hoàn cảnh cho phép, thím có thể cơi lầu và biến nhà ở thành một cơ sở kinh doanh hoành tráng được. Nếp sống lần lần trở nên ổn định, nhưng Thanh chưa thanh thản bao nhiêu ngày thì lại phải bồn chồn lo lắng tiển đứa con trai cưng lên đường nhập ngũ. Hưng bị bác đơn hoãn dịch vì trợt cả hai kỳ thi cuối năm. Thằng bé vừa lên đại học, bài vở khó khăn, lại mất tinh thần về căn bệnh quái ác của cha, nên hơ hỏng không vượt qua nổi kỳ thi gay go. Ra trường sĩ quan, Hưng liền nhận được lệnh phục vụ tại một đơn vị tác chiến, Thanh phải vận động mãi, tốn hao tài sản khá nhiều mới kéo con về văn phòng, thuộc Ban Quân Huấn tiểu khu Long Khánh. Hưng vừa yên thân, thì Hải liền khuyến khích con lập gia đình, hi vọng sớm có cháu nội ẵm bồng trước khi phải nhắm mắt lìa đời. Thế nhưng Hưng cố tình lảng tránh chuyện nầy, chàng cho rằng mình quá trẻ để bận bịu vợ con, huống chi trong buổi chiến tranh, mạng sống người lính chiến rẻ như bèo, rủi có bề gì thì sao!?
Sức khỏe của Hải sa sút rõ rệt, căn bệnh hiểm nghèo của chú, sau ba năm tiềm phục, bỗng có dấu hiệu bùng nổ trở lại, nhưng chú trì hoãn mãi không chịu tái khám. Thanh nài ép lắm chú mới chịu vào bệnh viện. Lần nầy, y sĩ cho biết bệnh trạng biến chứng trầm trọng vì đã di căn, mạng sống khó kéo dài hơn sáu tháng và việc chữa trị đã trở thành vô ích...
Nghe hung tin nầy, Hưng vâng lời mẹ, “khẩn cấp” tổ chức lễ thành hôn với Hạnh, người yêu lâu năm tại tỉnh nhà, và chỉ trong vòng một năm họ đã “khẩn cấp” sản xuất ngay được cô con gái mũm mĩm khiến ông bà nội hỷ hả rộn ràng. Lòng thiết tha mong đợi cháu nội có lẽ đã giúp cho Hải thêm nghị lực phấn đấu với tử thần, nhờ vậy chú sống lây lất mãi cho đến khi ăn thôi nôi cháu nội mới vĩnh viễn ra đi.
Thời bôn ba làm giàu, Thanh chỉ biết tôn trọng Thần Tài và cúng kiến cô hồn để cầu mua may bán đắt, tuyệt nhiên thím chẳng màng nghĩ đến việc lễ Phật nói chi đến chuyện tu tập. Do đó, tuy cư ngụ cạnh chùa Ấn Quang đã hơn bốn năm mà Thanh vẫn ngại ngùng chưa hề đặt chân đến cổng chùa. Mãi đến khi lâm vào hoàn cảnh góa bụa, con cháu cách xa, vò võ một mình một bóng trong chuỗi ngày dai dẳng buồn tênh, Thanh mới chịu theo dì Ba bán cơm tấm cạnh nhà đi chùa lễ Phật, nghe Pháp và làm công quả. Nhờ vậy, thím lần lần nếm hương vị đạo: nhận chân được lý vô thường, lý nghiệp báo và sự thật về cái “khổ” lúc nào cũng đang rình rập kiếp sống mong manh của con người. Thím bèn khẩn thiết xin thọ giới quy y và được ban pháp danh là Thanh Liên, dịch nghĩa là đóa sen xanh. Từ đó, thím càng tích cực tham gia mọi sinh hoạt chùa chiền, lấy việc tu học, lễ bái và làm công quả làm niềm vui. Một hôm thím đang chăm chỉ quét dọn sân chùa, bỗng liên tưởng đến giấc mộng kinh hoàng đêm qua, thím rối loạn tâm thần, choáng váng vịn tay vào tường mới đứng vững được. Thầy Minh Phát vô tình đi ngang vội dừng lại ái ngại lên tiếng:
- Con mệt lắm phải không?
- Con chỉ hơi xây xẩm chút xíu thôi, giờ đã khỏe lại rồi ạ!
Thầy nhíu mày trầm tư, đoạn lên tiếng:
- Thầy đoán có lẽ con thường cảm thấy hồi hộp bất an, ban đêm còn bị ác mộng hành hạ nữa phải không?
Thím ngạc nhiên chẳng hiểu sao thầy biết rõ chuyện nầy, muốn hỏi kỹ nhưng ái ngại, nên ngần ngừ rồi đáp:
- Dạ đúng như vậy đó thầy!
Thầy lắc đầu, thở dài:
- Thầy xem ra nghiệp sát của con nặng nề quá! Tội nghiệp! Thật là tội nghiệp!
Từ khi học Phật, biết nhân quả tội phước, thím Thanh vẫn canh cánh trong lòng nỗi lo lắng kinh hoàng về nghiệp sát lớn lao khó ước lường của mình. Lòng dạ thím đâu đến nổi ác độc, vậy mà, tính ra có lẽ thím đã trực tiếp hoặc gián tiếp tàn sát hằng triệu triệu sanh linh các loài thủy tộc, đó là chưa kể các loài thú vật trên bờ, có loại nào ngon bổ mà thím buông tha mạng sống đâu? ngay như những loại hàng khan hiếm, bẫy bắt khó khăn cùng với lối sát hại tàn nhẫn như lộc nai, mật rắn, mật gấu, huyết se sẻ, nai hà nàm, óc khỉ... chỉ vì nghe lời đồn đãi là bổ âm tráng dương thím liền hùa theo, tranh nhau đặt mua về tẩm bổ nữa kìa.
Khi thu dọn cơ nghiệp về ẩn thân chốn nầy, thím Thanh chẳng hề thổ lộ bà con lối xóm ngành nghề của mình thuở trước, thành thử mối lo âu dằng dặc về quả báo của nghiệp sát đeo đẳng ngày đêm, thím chỉ âm thầm chịu đựng chẳng thể tâm sự với ai cho vơi nhẹ nỗi lòng.
Vì vậy, khi nghe thầy Minh Phát “phán” một câu khơi dậy đúng ngay mối sợ hãi thầm kín của mình, thím Thanh bỗng rờn rợn điếng cả người, rồi bật khóc nức nở:
- Con sợ quá thầy ạ! Mà con phải làm sao bây giờ? Thầy có cách gì cứu giúp con giải nghiệp được không thầy?
- Nếu con một dạ chí thành tu tập Phật Pháp thì nghiệp nặng nào cũng nhẹ lần con ạ!
- Thầy ạ! Mỗi tháng hai ngày mười bốn và ba mươi con đều nghiêm chỉnh tham dự lễ Phật Sám Hối chẳng quên, ngoài ra, con cũng tham gia đạo tràng tịnh độ do thầy Minh Thành hướng dẫn, tụng kinh và niệm Phật A di Đà hàng ngày, liệu như vậy có đỡ chút nào không thầy!
- Ơ! thầy nghĩ rằng thành tâm lễ Sám hối và việc vô cùng cần thiết, Niệm Phật lại càng hiệu nghiệm công đức khó ước lường. Chư cổ đức thường dạy “Chí thành xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, sẽ được tiêu tội nặng trong tám mươi ức kiếp sanh tử”, tóm lại, pháp môn Niệm Phật diệu dụng khôn lường, miễn là con cố gắng niệm sao cho có phẩm chất, niệm tinh chuyên không tán loạn thì tội nào chẳng tiêu trừ!
Thầy ngập ngừng giây lâu, rồi ôn tồn tiếp lời:
- Tổ Ấn Quang từng khuyên nhủ rằng thời mạt pháp hung hiểm khó lường nên người hành giả, ngoài thời khóa Niệm Phật, cũng cần Niệm Bồ Tát Quán Thế Âm cho vạn sự đều được an lành.
Từ đó, thím Thanh một mực nương theo lời dạy của thầy, tu tập ngày càng tinh chuyên, điểm đặc biệt là thím rất tha thiết niệm Bồ Tát Quan Âm, có lẽ niềm tin nầy giúp thím yên ổn tâm thần, đỡ nghĩ quẩn, lo âu về hoàn cảnh đứa con trai đang dấn thân trong vòng binh lửa.
Tình hình chiến sự đầu năm 1975 ngày càng sôi động ác liệt, miền Trung tan rã, tỉnh Long Khánh trở thành ải địa đầu chống đỡ thủ đô Saigon, tất cả lính văn phòng đều bị phân phối bổ xung cho các đơn vị tác chiến, Hưng bèn hối thúc vợ đưa con di tản về Saigon với mẹ. Chỉ một thời gian ngắn sau, thím Thanh lại hãi hùng nghe tin Long Khánh bị tràn ngập, bạn bè quân ngũ của Hưng, có kẻ tử trận, người chạy thoát thân về Saigon, riêng tin tức về số phận của Hưng vẫn mù mờ và đầy mâu thuẩn. Thế rồi, giờ phút sụp đổ của thủ đô Saigon kề cận. Trong cảnh thành phố bị cô lập rồi bỏ ngỏ, người Hoa Kỳ hấp tấp rút lui mang theo nhóm cộng sự viên thân tín, và Saigon phút chốc trở thành vô chủ, hổn loạn kinh hoàng. Dân chúng hoang mang cùng cực, lăng xăng tuôn ra khắp nẻo đường tìm cách thoát thân ra nước ngoài bằng đủ mọi phương tiện. Gia đình bên vợ của Hưng nhà sát cửa biển Rạch Giá cũng chuẩn bị sẵn sàng vượt biên, nhưng chuyến đi đành đình hoãn vì con cháu chưa tụ về đầy đủ. Trong thời buổi nầy, làm sao Thanh giữ tâm thanh thản tu tập cho được, thím hoang mang thảng thốt, nhưng chẳng có phương cách nào khác hơn là suốt ngày sụt sùi trước tượng Quan Âm lâm râm khẩn cầu Bồ Tát gia hộ cho con. Cô dâu giao con cho mẹ chồng chăm sóc, hàng ngày đôn đáo chạy ngược xuôi trông ngóng dò la tin tức chồng, nàng cũng liều lĩnh lội khắp các trận địa, đến từng nhà tù thuộc phạm vi tỉnh Long Khánh, thăm hỏi tung tích chồng... nhưng chỉ nghe toàn là những tin đồn mù mờ đầy bi thảm, chớ chẳng có gì chính xác cả. Sau bao ngày vất vả vô ích, nàng khổ đau tuyệt vọng gần như điên loạn, đến nổi bà mẹ ruột phải kèo nài với thím Thanh rước con gái về quê tịnh dưỡng. Điều khá bất ngờ, là chỉ mới hai tuần sau, thím Thanh nhận được tin nhắn gởi từ Rạch Giá cho biết, gia đình sui gia dính líu với đường giây tổ chức vượt biên bị đổ bể, nên cả nhà đã vội lên thuyền đi ngay chẳng kịp thông báo và rước đứa cháu ngoại đang ở Saigon. Thím Thanh tạm tin điều đó, nhưng thật ra, chính thím đã linh cảm chuyện nầy khi chứng kiến cảnh cô dâu ôm con khóc ngất trước khi ra đi...
Thay đổi chánh trị khiến cho nền kinh tế đất nước trở nên què quặt, người dân bám víu vào Saigon bị chao đảo thảm thương vì mất việc làm và cũng không còn có việc để làm. Như phần đông cư dân, nếp sống của thím Thanh tuy chưa đến mức khẩn trương nhưng cũng chới với vô cùng: Một phần ba tài sản thím cày cục mua công phố phiếu đã “tiêu ra ma”, tiền giao cho bè bạn hùn hạp mua bán hầu như bị “xí huề” mất hết, may mà thím cẩn thận giữ một mớ vàng y chôn dấu kỹ dưới nền gạch. Đây là phần gia tài dành cho con, bằng mọi cách thím bảo vệ giữ gìn, nên dễ dầu gì thím chịu đào lên tiêu pha trong lúc nầy. Thím đành áp dụng phương pháp lần lượt vét đủ loại đồ đạc trong nhà đưa ra chợ Trời đổi gạo; những thứ bán chác được còn tồn trữ nhiều, nên phải lâu lắm thím mới sợ đói, bây giờ, thím chỉ sợ bị lên án là “không lao động sản xuất” là hạng “ăn bám” xã hội để rồi bị khuyến khích phải bỏ nhà bỏ cửa về vùng kinh tế mới tham gia sản xuất mà thôi. Dì Ba cơm tấm, bày vẽ cho thím chịu khó “thổi” một sề xôi đậu phộng, đặt bên cạnh quán cơm tấm của dì Ba buôn bán để lấy điểm lao động tốt. Thời giờ còn lại, thím sang chùa tận lực công quả trong Ban Ẩm Thực. Nguyên chùa chiền cũng lâm nguy vì bị gán cho hai chữ “ăn bám”, Phật tử tránh né không dám đến chùa lễ Phật, thùng “Phước Sương” èo uột không đủ khả năng nuôi chúng, thầy Minh Phát bèn chủ trương nấu cơm chay bày bán tạo hoa lợi cho chùa.
Sinh hoạt theo lối kinh tế bao cấp thêm phần gay go, thầy Minh Phát giới thiệu thím vào tổ thêu, lãnh hàng về nhà thêu lấy công đổi gạo. Thời thiếu nữ, thím thêu thùa giỏi giang, giờ nầy đã lớn tuổi tuy mức sản xuất chậm mà nét thêu vẫn sắc sảo như xưa. Trở ngại lớn của thím, là đang thêu mà động tâm nhớ đến con, thì mũi kim cứ lệch lạc phải tháo gỡ hao tốn rất nhiều công sức. Thầy Minh Phát biết được, dạy thím áp dụng nguyên tắc “một câu Niệm Phật, một mũi kim thêu”, cứ bình tâm “niệm thêu tiếp nối nhau không dứt” là được. Thím nhất nhất tuân theo thực hành và tương đối thành công: Niệm Phật không xen tạp niệm, mà thêu thùa cũng chẳng còn bầm giập.
Hôm đó, như thường lệ, cơm nước xong xuôi, hai bà cháu rủ nhau quì trước Bàn Phật niệm một chuỗi Quán Âm cầu nguyện Bồ Tát gia hộ cho Hưng, đứa con trai đã mất tích từ ba năm trước, nhưng với niềm tin vô bờ đặt vào đấng “Mẹ Hiền Quan Âm” thím chẳng bao giờ bỏ cuộc. Thình lình có tiếng xô cửa, rồi dì Ba cơm tấm bước vào nhà, ông ổng cất tiếng:
- Hì! hì! Chị tạm ngưng thời khóa một chút được không? Tôi nghe được chuyện nầy hay lắm, phải báo cho chị nghe liền mới chịu được!
Thím Thanh đang lễ Phật bị kêu réo cảm thấy hơi khác thường, nhưng nể người bạn thân thím đành tươi cười bước ra:
- Chà! Chắc phải là chuyện ghê gớm như “Trời sập” mới khiến chị “hăng tiết vịt” phun ra ngay cho hả dạ phải không?
Dì ba tỏ vẻ thích thú, cười hớn hở rồi tửng tửng đáp:
- Đây là chuyện “Ông Trời ngó lại”, chắc chắn hấp dẫn hơn chuyện “Trời sập” nhiều! Mà vụ nầy, ai muốn nghe tui nói thì phải bình tĩnh mới được nghen!
- Lúc nào tôi chẳng bình tĩnh hả chị Ba? Mà hôm nay bỗng nhiên sao chị cứ ỡm ờ làm khó dễ tôi quá vậy?
- Hì! hì! Người ta đồn rằng có toán lính Cộng Hòa thuộc tỉnh Long Khánh bị Pathet Lào bắt từ năm 1975, vừa được thả về nước. Chuyện khó tin quá phải không chị?
Dù chuyện vô lý khó tin thế nào mà dính dấp đến tù cải tạo thím Thanh cũng quan tâm đặc biệt cả, nên chi vừa nghe ba chữ lính Cộng Hòa tỉnh Long Khánh là thím đã điếng người, khuỵu xuống suýt xĩu. Dì Ba hoảng hốt chụp đỡ bạn ngồi xuống ghế. Thím Thanh hổn hển thở không ra hơi mà vẫn ráng ú ớ hỏi loạn lên:
- Thiệt hả chị! Thiệ̣t hả chị! Người nào thuật cho chị chuyện nầy? Họ có kể ra tên ai không chị?
- Dĩ nhiên là chuyện thiệt. Tôi mới gặp thằng lính Cộng Hòa đó tức thời đây nè!
Nó kể rằng khi rã ngũ bọn nó năm thằng rủ nhau chạy ngược lên Pleiku Kontum dự định theo đường rừng đi Thái Lan, nhưng vừa qua Lào thì bị bắt. Bọn Lào giam giữ mãi mới giải giao về nước...
Thím Thanh dợm đứng dậy, líu lưỡi:
- Chị..chị...cho...cho... tôi...
Tôi hiểu ý chị rồi! Chị muốn hỏi tin tức thằng Hưng phải không?
- Phải... ! phải!...
- Coi kìa! Mình đã giao hẹn là phải bình tĩnh để nghe mà! Đừng run rẩy như vậy tôi không dám kể nữa đâu! Ơ... ơ... Nó cho biết thằng Hưng cũng còn sống...