1
Mồng một Tết. Trong lúc nhân dân ở thành phố, ở đồng bằng, mặc áo quần đẹp, đi lại chúc tết nhau: "Vạn sự như ý", thì các chiến sĩ tiểu đoàn mười tám xuất phát từ chiến khu Truồi, lội suối băng rừng, hành quân về phía đèo Phát Tượng - một ngọn đèo hiểm trở vùng cực nam Thừa qhiên.
Ngoài súng đạn, ba lô, ruột tượng gạo rang làm lương khô, mỗi chiến sĩ được phát hai đòn bánh tét. Số bánh tét này là của nhân dân khắp các làng quê huyện Phú Lộc gởi lên chiến khu ủng hộ bộ đội vào những ngày trước Tết. Ban chỉ huy tiểu đoàn quyết định để dành toàn bộ số bánh làm lương ăn cho trận đánh phục kích tàu ở đèo Phát Tượng mà tiểu đoàn đã nghiên cứu chuẩn bị từ một tháng trước đó. Dự kiến của Ban chỉ huy, trận đánh có thể kéo dài từ một đến ba ngày.
Trưa mồng bốn Tết, cả tiểu đoàn đã nằm trên trận địa phục kích, dưới mưa xuân rả rích. Mưa không nặng hạt, đúng điệu mưa xuân, nhưng phải dầm mưa suốt ngày đêm, áo quần của các chiến sĩ đều ướt sũng, nước ngấm vào da thịt lạnh thấu xương… chờ địch đã qua một ngày, một đêm, địch vẫn chưa xuất hiện. Mỗi chiến sĩ bóc đến đòn bánh tét thứ hai…
Ở trung đội trợ chiến, một chiến sĩ xạ thủ súng mười hai ly bảy, bóc đòn bánh tét của mình, đòn bánh được gói rất khéo. Hai đầu đòn bánh đều nhau, tròn trịa như cải ống bương, khéo từ lá gói, đến nút lại lạt buộc.
Anh chiến sĩ vừa mở lá một đầu đòn bánh, mắt bỗng trợn tròn, ngạc nhiên. Anh gọi hai người bạn cùng đang bóc bánh:
- Lạ quá các cậu ơi! Trong đòn bánh tét của mình có bức thư?
Bức thư được bọc cẩn thận trong mảnh lá chuối hơ lửa, viết bằng mực tím, nét chữ nắn nót nhưng xiêu vẹo của người mới biết đọc biết viết. Bức thư chắc là được bỏ thêm vào sau khi bánh đã luộc chín nên nét chữ không nhòe. Ba chiến sĩ ngồi xổm dưới công sự đào dưới lùm cây rậm, tụm đầu đọc bức thư:
"Kính thưa các anh bộ đội!
Dạ thưa các anh tui tên là Niệm, làm nghề bán bún bò gánh: Trước tê tui ở Bao Vinh, tui có đứa con tên là Mừng, cháu mười ba tuổi, cháu trốn tui đi theo các anh Vệ Quốc Đoàn đánh Tây ở Huê. Dạ, đời tui chỉ có một mạ một con cực khổ trần ai lắm các anh nờ. Tui gắng gỏi sông cũng chỉ vì con, mặt trận Huế bể, người trong xóm tui rủ nhau hồi cư hết, nhưng tui về mà làm chi các anh ơi, về mà lui cui lút cút một đèn, một bóng thì thà chết đường chết chợ cho xong. Tui gánh bún bán mua đắp đổi qua ngày côt để tìm con tui coi cháu còn sống hay chết, mà tìm khắp sáu huyện chẳng thấy tăm dạng con mô.
Tui nghe đồn cháu theo các anh lên chiến khu, tui xin du kích uỷ ban các xã, các huyện cho tui đi theo gánh đồ đoàn tiếp tế lên chiến khu để tìm cháu mà chiến khu mô cũng nói với tui là không chộ cháu ở đây, cực thân tui lắm các anh nờ. Bữu ni nhân ngày Tết nhất! Tui gói năm đòn bánh tét mô tui cũng bỏ một phong thơ như ri, gửi lên cho các anh ở chiến khu ăn Tết, may ra các anh ăn trúng đòn bánh của tui đọc thấy thơ ni biết được con tui chừ đang ở mô thì gửi giấy về làng Thệ Chí Đông tin cho tuỉ biết với. Được như rứa tui đội ơn các anh suốt đời.
Nay kính thơ
Niệm"
Anh chiến sĩ bóc đòn bánh tét tên là Tiến, trước đây là cu li nhà máy vôi Long Thọ. Anh mồ côi cha mẹ từ ngày mới chập chững biết đi. Hai vợ chồng người bác họ nuôi anh… Đời anh chưa bao giờ biết được thế nào là tình yêu của mẹ. Bởi vậy mà bức thư của người mẹ đi khắp các làng mạc hói hà cả tỉnh Thừa Thiên để tìm con làm anh lạ lùng lắm. Mãi đến hôm nay, hăm ba tuổi đẩu, do bức thư tình cờ tìm thấy trong đòn bánh tét anh ăn trước giờ xung trận, anh mới phát hiện ra một điều rủi ro bất hạnh lớn nhất của đời anh là không biết được tình yêu của mẹ. Và anh đã khóc. Thấy anh khóc hai người bạn trong tổ đại liên mười hai ly bảy nói:
- Có rứa mà cũng khóc. Vô duyên òm? - Nhưng chính mắt hai người cũng ướt nhòe.
- Mưa chi mưa ác! Thúi đất thúi đai! - Hai anh nói và quay mặt chùi vội nước mắt.
Anh xạ thủ Tiến có một nhược điểm làm cả đơn vị thường xúm lại trêu chọc: Anh không nói được vần tờ. Tên anh là Tiến anh tự xưng là Yến, tiểu đoàn trưởng anh gọi là yểu đoàn ưởng, bức thư anh gọi là bức hư.
Tiến bò dọc theo mép đồi, đến công sự của Ban Chỉ huy tiểu đoàn, nộp bức thư và kể lại đẩu đuôi.
Chính trị viên Lê Bích đọc đi đọc lại bức thư ba lẩn. Lát sau có thêm hai chiến sĩ ở đại đội một bò đến, nộp một bức thư giống hệt bức thư Tiến nộp.
Anh Tiến ngồi trên mép công sự, chằm chặp nhìn chính trị viên tiểu đoàn. Anh hỏi:
- Chừ anh định răng với cái "hư ni"?
- Theo ý đồng chí ta nên như thế nào?
- Heo ý ui, a phải đi ìm con giúp cho chị ni.
- Nếu tôi cử đồng chí đi làm nhiệm vụ này, đồng chí có đồng ý không?
- Lúc mô đi!
- Đi ngay bây giờ, mà chuyến đi sẽ vất vả ghê gớm đấy. Đồng chí phải đi xuyên dọc Trường Sơn, ghé qua tất cả các chiến khu từ cuối tỉnh đến đầu tỉnh. Bỏ rẻ cũng phải mất mười lăm ngày vượt núi. Tìm thấy hay không, đồng chí phải từ chiến khu Hoà Mỹ về đồng bằng, vượt phá Tam Giang qua làng Thệ Chí, tìm chị đó báo tin cho chị biết. Đồng chí có biết làng Thệ Chí không?
- Có trước đây tui cũng có ra làng ni thuê thuyền chở đá vôi cho nhà máy.
- Từ làng Thệ Chí, đồng chí phải đi theo đường sát biển, qua cửa Thuận An, đi cho đến núi Tuý Vân, rồi nhờ thuyền đò của bà con ngư dân vượt đầm Cầu Hai, về lại chiến khu Truồi.
- Vất vả rứa chứ hơn nữa ui cũng chẳng ngại. Ui hương chị ta quá, ui muốn ngó mặt mũi chị như răng mà hương con đến nước nớ… Ui chỉ iếc là không đánh được ận ni…
Chính trị viên kê tờ giấy khống chỉ lên xà cột, viết thư gửi các chiến khu:
"Kính gửi các đồng chí lãnh đạo các chiến khu: Bạch Mã, Truồi, Độn Bồ, Khe Tre, Nam Đông, Binh Điền, Trạm Ba, Trò, Hoà Mỹ.
Chúng tôi xin giới thiệu với các đồng chí, đồng chí Đặng Tiên là chiến sĩ tiểu đoàn mười tám, có nhiệm vụ đến chiến khu của các đồng chí để tìm một liên lạc tên là Mừng, con của người phụ nữ có bức thư mà chúng tôi gửi kèm theo đây. Kính mong các đồng chí hết sức giúp đỡ đồng chí Tiên, tìm xem trong chiến khu của các đồng chí từ trước đến nay có em liên lạc nào tên là Mừng, nếu có mà đã hy sinh rồi thì cũng báo cho đồng chí Tiên biết để đồng chí về báo với mẹ em hiện đang ở làng Thệ Chí.
Chào quyết thắng.
Chính trị viên tiểu đoàn mười tám.
Lê Bích"
Bị chú: Đồng chí Đặng Tiên của chúng tôi có một khuyêt tật là không nói được vần tờ. Bởi vậy trong lúc đồng chí Tiên trình bày, trò chuyện mong các đồng chí nắm được và thông cảm".
Chính trị viên điều ở đơn vị lên thêm cho Tiến một ruột tượng gạo rang, một ống muối ruốc ớt. Và trang bị cho anh một hộp diêm, một khẩu tiểu liên và hai băng đạn, một cây dao rựa.
Đúng như chính trị viên dự kiến, anh Tiến đã đi từ trận địa phục kích đến chiến khu Hoà Mỹ - chiến khu cuối cùng của Thừa Thiên - mất mười tám ngày ròng rã. Anh đã phải vượt qua hàng nghìn dốc núi, lội qua hàng trăm con suối cạn, suối sâu năm lần chạm trán với cọp, voi, bò tót, lợn lòi, trăn thì không ngày nào không gặp. Anh đã ghé lại tất cả các chiến khu đã ghi trong thư. Đến chiến khu nào, các đồng chí lãnh đạo cũng cho biết, cách đây tám tháng, sáu tháng, năm tháng, ba tháng… có một chị tên là Niệm trong đoàn dân quân từ đồng bằng gánh gạo, muối, tiếp tế chiến khu, hỏi thăm đứa con trai của chị tên là Mừng, mười ba tuổi, trốn nhà đi Vệ Quốc Đoàn từ ngày mặt trận Huế nổ súng.
Bởi vậy, làm sao có thể tả hết nỗi đau đớn thất vọng của người Vệ Quốc Quân có tâm hồn hiệp sĩ này khi ra đến chiến khu Hoà Mỹ, được tin là chú bé liên lạc mà anh phải mất mười tám ngày trời băng rừng vượt núi, nhiều lần suýt làm mồi thú dữ, để tìm kiếm, lại là một tên gián điệp ranh ma, xảo quyệt, vô cùng lợi hại. Và cách đây chưa lâu, hắn đã cùng với một tên gián điệp khác, đánh cắp bí mật của kháng chiến trốn khỏi chiến khu chạy về đồn giặc.
Cặp mắt anh vụt đỏ kè. Anh bặm môi, nghiến răng kêu lên dữ tợn:
- Hằng yên ni hề có ời đất, ui mà còn sống, nhất định có ngày ìm được cái hằng con ranh con lộn đó, ui nghiền nát đầu hắn ra như nghiền con rận!
Nhưng anh còn một nhiệm vụ nữa là phải tìm về làng Thệ Chí để báo tin cho người mẹ tìm con bất hạnh. Anh cảm thấy nhiệm vụ này còn khó khăn khủng khiếp hơn cả nhiệm vụ báo tử. Anh thật sự hoảng sợ đến toát mồ hôi hột mỗi lần nghĩ đến nó.
"Ui chao ôi, mới mười ba uổi mà hắn đã là một tên gián điệp lợi hại, ranh ma, quỷ quyệt hì không biết hắn học cái nghề bán nước đó ừ khi mô?"
Anh cứ rên rỉ hoài như vậy trong suốt mấy ngày liền nấn ná ở chiến khu Hoà Mỹ. Trong mấy ngày đó anh Tiến cứ ở với đội Thiếu niên Trinh sát. Các em bây giờ đã tập trung hết về đội. Sau một đợt học tập chuyên môn chính trị ngắn ngày, các em được phân công phụ trách các đài quan sát của chiến khu. Nhiệm vụ bám địch ở đồng bằng giao lại cho các anh lớn mới được trung đoàn bổ sung về đội. Do đó đội bây giờ được đổi tên là Đội Trinh sát của trung đoàn. Anh Tiến hỏi chuyện các em về "cái thằng Mừng Việt gian" tính nết thường ngày, mặt mũi hắn như răng? Nghe các em kể nó thân nhất với thằng Nghi liên lạc của trung đoàn bộ, anh vô Xê-ca một tìm gặp Nghi hỏi chuyện.
Em Nghi kể cho anh nghe chuyện cái đêm em đèo ngựa đưa Mừng về thăm mạ ở làng Phò. "Về đến ngõ hắn lại nhờ em vô nhà nhắn tin với mạ, còn hắn thì đứng nép ngoài hàng rào ngó vô mà khóc. Hắn sợ mạ đập đầu xuống đất mà kêu la không cho hắn đi Vệ Quốc Đoàn nữa". Anh Tiến ngạc nhiên nói: "Rứa hắn là đứa bụng dạ không đến nỗi mô hè?". Nhưng ngẫm nghĩ một lúc, anh nói tiếp: "Đã mang thân đi làm Việt gian bán nước chắc chi hắn thật bụng? Hắn làm rứa cất để che mắt thế gian". Và anh bỗng phát hiện ra một điều mới mẻ. "Chưa chừng cả con mạ hắn là Việt gian cũng nên, cha Việt gian, con Việt gian, thì mạ Việt gian là cái chắc! Thôi, đúng rồi con mạ hắn giả dạng xin đi tiếp tế lên chiến khu là cốt để dò la tin tức chiến khu về báo cho Tây chứ tìm con tìm kiếc cóc chó chi! Việc sờ sờ ra rứa mà mình không nghĩ ra, đúng là mình ngu hết chỗ nói".
Đang từ thương xót, cảm phục, anh chiến sĩ có tâm hồn hiệp sĩ, phút chốc đùng đùng nổi giận. Anh càng tiếc cay tiếc đắng cái công mười tám ngày đêm băng ngàn lội suối đi tìm con giúp cho cả cái nòi Việt gian!
Rồi anh quyết định phải cấp tốc trở lại con đường cũ, báo ngay với các chiến khu biết để đề phòng con mụ Việt gian giả đò tìm con. Và ngay trưa hôm đó, anh đeo ruột tượng lương khô vào lưng, khoác khẩu tiểu liên, xăm xăm trở về chiến khu Truồi, theo con đường rừng vô cùng gian khổ và nguy hiểm.
***
Một buổi sáng tinh mơ mùa hè năm 1948. Chiến khu Hoà Mỹ vừa mới thức giấc. Núi rừng, cây cỏ, sông Ô Lâu còn phủ kín trong màn sương trắng đục. Một chú bé không biết từ phía nào lại chui ra khỏi con đường lau lách, bước vào trạm gác tiền tiêu phía tây nam chiến khu.
Chú bé độ cái mũ bêrê màu rượu chát còn mới tinh kéo sụp che gần kín trán, mặc bộ áo quần kaki màu xanh lá cây, chân đi dép da. Cả người chú ướt đẫm sương. Chắc chú phải đi bộ cả đêm, lội qua nhiều khe suối, băng qua nhiều đám bùn lầy nên hai ống quần ướt đến bẹn, trát đầy bùn, dính bết vào bắp chân. Gương mặt chú hốc hác, cặp mắt thâm quầng, bước đi lảo đảo kiệt sức. Chú bé chào anh lính gác đang còn ngái ngủ:
- Anh ạ…
- Chú ở mô và mô đây sớm rứa?
- Anh không nhìn ra em à? Em thằng Mừng ở đội Thiếu niên Trinh sát đây mà.
Anh lính gác như không còn tin vào mắt mình nữa, bước đến nhìn sát vào tận mặt chú bé, kêu:
- Đúng ìà mi rồi? Mi còn dám vác mặt mo lên đây à? Chứ mi ở mô mò lên đây?
- Dạ, dưới đồn Sơn Quả. Em trốn khỏi đồn từ chiều bữa qua…
Nghe tiếng chộn rộn trước sân, cả tổ gác trạm gác tiền tiêu bước ra đứng vây quanh chú bé. Họ đều nhận ra đúng là Mừng, tên gián điệp ranh ma, xảo quyệt, cách đây ba tháng đã cùng với tên Kim điệp viên lợi hại trốn khỏi chiến khu.
Họ có thể tưởng tượng đủ mọi điều, nhưng việc Mừng dám trở lại chiến khu và ngang nhiên khai rằng từ đồn giặc đến đây, thì ngoài sức tưởng tượng của họ.
Anh tổ trưởng thốt lên:
- Thằng ni gớm thật?
- Mi là thằng gan già!
Gương mặt mệt mỏi của Mừng vụt tươi lên. Em tưởng đó là lời khen.
- Dạ… em phải chạy gần suốt cả đêm, mà phải toàn lủi trong bụi rậm. Em mệt quá, các anh cho em về lán ngủ một giấc rồi chút nữa em về đội. - Mừng nói, cặp mắt ríu lại, xắm nắm định bước vô lán.
- Ngủ à? - Anh tổ trưởng quắc mắc giận dữ. - Trói cổ nó lại!
Mừng đứng khựng lại, vẻ mặt ngơ ngác nhìn anh:
- Em làm chi mà trói em?
- Làm Việt gian gián điệp chớ còn làm chi?
Anh tổ trưởng bước tới, như sắp tát em. Em bước thụt lùi hốt hoảng đưa tay lên đỡ mặt. Và lúc này em như vụt hiểu ra không phải các anh tổ trạm gác đùa vui với em như mọi lần.
Em rơm rớm nước mắt nói:
- Thằng Kim mới Việt gian chứ em đời mô…?
- Không nói lôi thôi! Trói cổ nó lại! Đồng chí Tánh. - Anh tổ trưởng gọi một trong ba chiến sĩ tổ gác - Vô Xê-ca Một báo ngay cho ban Quân báo trung đoàn ra giải quyết. Lấy sợi dây điện thoại ra đây. Phải rút kinh nghiệm xương máu, không được trói tụi ni bằng dây dừa.
- Ồ, thằng Kim vấn thuốc châm lửa giúp thằng gián điệp chớ có phải em mô…
- Bay cùng một duộc cả! Mới rãy mũi đã làm Việt gian bán nước. Tụi ni phải đem bắn quách, để sống làm chi cho nhớp đất?
Anh tổ trưởng hằm hằm nói, chụp hai cánh tay Mừng bẻ quặp ra phía sau lưng, dùng sợi dây điện thoại trói em giật cánh khuỷu. Trói xong, không nén nổi giận dữ, xô em một cái, em ngã chúi mặt cạnh chân cột lán. Từ trong bụng em văng ra một khẩu súng lục "côn mười hai", nước thép xanh biếc. Anh nhảy tới chộp lấy khẩu súng như sợ em nhanh tay chộp mất.
Anh cầm khẩu súng, bàn tay rung rung như khẩu súng quá nặng, lật đi lật lại ngắm nghía. Gương mặt anh méo mó vì tức giận. Anh chìa khẩu súng ra trước mặt Mừng, chửi:
- Tổ cha mi! Rứa cái chi đây? Mi còn chối nữa hay thôi?
- Thằng ni gớm thật! Anh lính gác nhìn nó với ánh mắt dễ sợ - Không trói hắn nhanh chắc hắn đã cho cả tụi mình ăn đạn!
Anh tổ trưởng bấm chốt kéo "sác-giơ" ra. Sác-giơ đầy đạn vàng chóe.
Mừng ngồi co rúm nép sát chân cột, nhìn các anh với cặp mắt ngơ ngác, thất thần, Em nói, môi run run:
- Khẩu súng nớ em lấy cắp của cha em… em định giấu mang về cho đội trưởng… Em… em… - giọng em bỗng nghẹn tắc. Em nhìn hết anh tổ trưởng đến mấy anh trong tổ gác. Em vụt hiểu ra, không một ai tin lời em hết. Em bật oà khóc. Em ngọ nguậy cánh tay định đưa lên cùi nước mắt và em nhớ ra hai tay mình đã bị trói. Nước mắt giàn giụa, lã chã, tắm hai gò má, trôi xuống miệng, xuống cằm, giọt giọt xuống đất. và lúc đó phía ngoài đường có nhiều tiếng chân chạy, tiếng hỏi chộn rộn, xôn xao:
- Mô? Mô? Thằng Việt gian mô rồi?
Mừng nhận ra giọng nói quen thuộc của các bạn.
Gần đủ mặt các bạn trong đội tràn vô sân trạm gác. Thì ra anh Tánh trên đường chạy vô Xê-ca Một, báo cáo với ban Quân báo trung đoàn, gặp các em đang rầm rập chạy ra sông Ô Lâu rửa mặt. Anh liền gọi các em.
- Các em ơi! Thằng Mừng lại mò lên chiến khu!
- Anh nói giỡn chi rứa?
- Thì các anh đã tóm cổ hắn trói ngoài trạm gác tề?…
- Ui chao! Chuyện chi hiện nguỵ! Ta ra coi đi. - Các em xôn xao kêu lên và chạy luôn ra trạm gác.
Gặp lại các bạn Mừng thổn thức nói:
- Các cậu ơi anh Du, anh Đoàn, anh Châu… nói giúp cho tui với. Tui không phải là Việt gian… các anh ni nghi tui…
Có lẽ em tin rằng các bạn sẽ xúm lại bênh em, cởi trói cho em. Nhưng các bạn đứng túm tụm giữa sân, nhìn nó như chưa hề quen biết nó bao giờ. Nhiều em nhổ nước bọt, kêu lên, giọng ghê tởm, khinh bỉ:
- Nghi cứt chi nữa?
- Việt gian rành rành còn giả đò khóc?
- Mần Việt gian có khác? Bê-rê tề, áo quần kaki tề, xăng- đan tề?… Ngó mà gớm ghiếc!
- Trong người hắn lại giắt cả súng lục mới keng đây các chú nì! - Anh tổ trưởng đưa khẩu "côn mười hai" cho cả đội coi.
- Hắn mà gặp tụi mình giữa đường chắc hắn nổ cho tụi mình mỗi đứa một phát vô giữa đẩu!
- Nì! Mi ngửi cứt Tây có thơm không mi?
Hoà-đen hát rống lên bài "Mắng Việt gian": "Mi nghe chăng hỡi ai mê mùi phú quý quên non sông"
- Rứa mà thằng Quỳnh còn viết cả nhạc kịch để khen hắn nữa chớ? Thằng Quỳnh mà biết chuyện ni, chắc hắn phải chết thêm lần nữa?
- Đồ chó? - Châu-sém bước đến đứng sát trước mặt Mừng chửi với ánh nhìn tóe lửa. Rồi thuận tay, Châu-sém chụp cái mũ bê-rê trên đầu Mừng quăng xuống đấy, lấy chân chà lên. - Mi đi mần Việt gian cho sướng cái thân mi, mà để lây tiếng xấu cho cả đội! - Nó nhổ cả một bãi nước bọt to tướng trúng bẹt giữa khuôn mặt đầm đìa nước mắt của Mừng.
Bồng-da-rắn cũng bước đến đứng cạnh Châu-sém, nhìn Mừng chăm chăm. Ánh mắt em không giận dữ khinh bỉ như các bạn, mà lộ vẻ đau đớn, buồn bã đến xé lòng.
Trước những lời nguyền rủa của các bạn, gương mặt Mừng tái nhợt như xác chết. Em ngước nhìn Bồng, ánh mắt van lơn, cầu khẩn. Ánh mắt con chim non bị người ta vặn cổ, sắp chết.
- Anh Bồng, anh nói giúp cho tui với, - Mừng lắp bắp nói qua nước mắt. - Anh ngửi được mùi Việt gian, mùi Vệ Quốc Đoàn mà… Anh nói giúp cho tui với…
Bồng không nói gì, vẻ mặt lầm ìì, nhìn hai cánh tay Mừng bị trói chặt bằng dây điện thoại, hai bàn tay bị tụ máu đỏ lên.
Nó nói với anh tổ trưởng trạm gác:
- Anh trói hắn chặt quá. Nới bớt cho hắn một chút…
- Chú mi thương hắn à? Phải trói chặt hơn nữa tê? Trói lỏng để cho hắn chồm lên giật súng bắn chết anh ẻm mình, như cái thằng cha mua mây dạo nọ? - Anh tổ trưởng nhìn Bồng với cặp mắt chê trách nói tiếp. - Rứa mà trung đoàn lại thông báo tuyên dương chú mi là có tinh thần cảnh giác cách mạng cao?
Bồng không trả lời anh, lẳng lặng bỏ đi ra ngoài đường.
2
Mừng được cởi trói, ngồi trước cái bàn mặt nứa ở gian ngoài trạm gác.
Lê Hường, Trưởng ban Quân báo trung đoàn, ngồi bên kia bàn, đối diện với em. Cuốn sổ tay và cây bút máy Parke gác trên sổ, đặt trước mặt anh. Anh nói, giọng nghiêm khắc:
- Chú mày phải khai rõ ràng, khai hết, khai cho thật. Nếu khai thành thật, chú mày sẽ được hưởng lượng khoan hồng. Nếu đối trá, quanh co, phải trả giá đắt đó. Chú mày có biết kỷ luật thời chiến đối với bọn Việt gian gián điệp là thế nào không? Xử bắn? - Anh dằn giọng, đầy hăm doạ.
Rõ ràng, giọng của anh Trưởng ban Quân báo nói với Mừng không còn là giọng anh chỉ huy nói chuyện với chú em liên lạc, mà giọng một cán bộ nghiệp vụ đang lấy cung kẻ thù. Mừng lúc này đã hiểu rõ điều đó. Cả người em run rẩy đau đớn, gương mặt mệt lả, tuyệt vọng.
Thấy em vẫn ngồi lặng lẽ khóc, anh hỏi:
- Trước hết, chú mày phải nói cho tôi biết chú mày là người của cơ quan mật thám nào? Đơ-bê? Xuya-rơ-tê Phê-đe-ran? Hay Ty An ninh?
- D ạ… em là Vệ Quốc Đoàn… em không biết chi hết…
Mừng ngước gương mặt tắm nước mắt mà em chẳng buồn lau, nhìn lên Hường…
Cách đây chưa lâu, mỗi lần chạy liên lạc vô Xê-ca Một, qua lán của ban Quân báo, anh Lê Hường thường ngoắc gọi em vào hỏi em:
- Bữa ni em có việc chi phải vô Xê-ca Năm không?
Xê-ca Năm là đóng xưởng bào chế thuốc. Từ Xê-ca Một vô Xê-ca Năm phải trèo qua ba dốc núi. Mặc dầu không phải có việc chi vô đó nhưng em biết anh Hường cần gì, nên em vui vẻ nói: "Có em cũng có công văn chạy vô xưởng bào chế" - "Rứa thì nhờ em tiện thể đưa giúp cái nỉ cho chị Tịnh Nhơn". Anh móc túi áo lấy ra phong thư dán kỹ, trao cho Mừng. Anh cười, mặt hơi đỏ lên, dặn thêm: "Em nhớ đưa riêng cho chị Nhơn thôi nghe… Có mặt các chị khác thì đừng đưa…". "Em biết rồi! Em biết rồi!…". Mừng nhanh nhảu nói, cầm lấy phong thư dầy cộm, chạy đi.
Chị Tịnh Nhơn đẹp nhất xưởng bào chế. Hai má chị bầu bầu, lúc nào cũng đỏ hây hây như có bôi giấy hương. Mừng biết anh Hường và chị Nhơn thương nhau… Lần mô mang thư vô cho chị, chị cũng có thư gửi ra cho anh: "Nhờ em đưa giúp chị…". Em còn biết đưa loại thư này không giống như đưa giấy tờ công văn. Cầm công văn lỡ bị làm nhớp một chút cũng không can chi. Mà tay em lúc nào cũng kềnh càng đầy ghẻ; cầm không khéo, máu mủ ghẻ dính vô phong bì ngay. Bởi vậy, thư của hai người bao giờ em cũng cẩn thận bọc trong ngọn lá vả rừng hoặc ngọn lá nón, để giữ cho phong bì được sạch. Có lần chị Nhơn hỏi: "Tại răng lúc mô cũng thấy em gói thư vô ngọn lá như gói cái bánh rứa?" - "Em sợ tay em làm nhớp mất cái thư quý của chị" - Mừng chìa hai bàn tay chi chít những nốt ghẻ cái cương mủ xanh lè, và nhiều nất lở loét chảy máu.
Cặp mắt đen lay láy và trong vắt như nước suối của chị mở to nhìn em không chớp, và tự dưng láng láng nước mắt. Thấy chị khóc, em lúng túng, lo lắng, vội vã chạy xuơng dốc núi: "Em phải về không sợ đi lâu đội trưởng la".
Chừ thì anh Hường ngồi đó, hỏi em với cái giọng như chưa hề quen em khi mô. Anh không gọi em là em như mọi khi mà gọi là chú mày. "Chắc anh nghi mình là Việt gian anh mới gọi rứa. Chừ mà chị Nhơn gặp mình, chị cũng gọi mình là "chú mày" như anh Hường… Ai người ta còn thèm tử tế với cái đồ Việt gian?". Ý nghĩ đó làm em bật khóc to nức nở.
Anh Hường vỗ bàn làm cuốn sổ và cây bút nhảy lên như bị kiến nhéo:
- Chú mày khai đi! Không phải khóc, mất thì giờ!
- Dạ, em chẳng biết chuyện chi mà khai… Tại vì thằng Kim… em cứ tưởng hắn là Vệ Quốc Đoàn, có ngờ mô hắn là Việt gian. Bữa đó hắn kêu đau bụng. Đội trưởng xuống sông giặt áo quần, bao tải cho cả đội, giao em ở nhà coi nhà. Hắn nhờ em ra quán o Liên mua xôi chè. Em mà biết hắn là Việt gian đời mô em đi… có thèm xôi chè đến chết em cũng không đi. Rứa mà em dại quá, em lại bỏ nhà em đi, để hắn ở nhà một chắc. Em mua xôi về, chè chưa chín…
Lê Hường cau trán, anh vụt nhớ chi tiết này: trên sạp nứa nằm lăn lóc gói xôi đỗ đen khá to, anh Thắng đã cầm ném ra bụi rậm vì sợ trong xôi có bỏ thuốc độc.
-… Em thấy thằng Kim đang ở trong buồng, coi tấm bản đồ bố phòng chiến khu. Em tức quá, la hắn: "Răng anh dám lục bản đồ mật của đội trưởng ra coi?". Hắn nói: "Tau coi nhờ đường vô bệnh viện, để chiều tau xin đi chữa bệnh". Cơi chi mà biết hắn là Việt gian thì em đã chạy xuống sông báo cho đội trưởng… Em thấy trên bàn có cái hộp chi đen đen mà có mặt gương ở giữa, em cầm lên coi, hỏi hắn: "Hộp chi mà đẹp ri?" - Hắn giật lại, nói là hộp đựng tiền, rồi bỏ mau vô bọc cài nút lại. Hắn ôm bụng kêu đau bụng, nói em cứ ăn xôi trước, hắn vô ăn sau. Rồi hắn chạy ra nhà tiêu. Em ngồi chờ hắn vô, em nghĩ… Em nhớ có lần đội trưởng kể: Tụi Việt gian hay dùng máy chụp bóng nhỏ như cái bao diêm để chụp trộm tài liệu bí mật của kháng chiến… Rứa là em sợ quá, em nghĩ: "Hay cái hộp đựng tiền nớ là cái máy chụp bóng, hắn dùng chụp trộm bản đồ bố phóng chiến khu?". Em liền chạy ra cầu tiêu tìm hắn, nhưng hắn đã chạy mất rồi. Cơi chi em biết hắn là Việt gian thì em đã giữ chặt cái máy đó, không cho hắn giựt lại. Em chạy đuổi theo hắn để bắt giữ hắn lại. Em trèo lên ngọn cây bứa, ngó về phía dồn Sơn Quả, thấy bóng hắn chạy lúp xúp đằng xa. Em liền chạy vòng đường tắt qua rú Quao, đón đầu hắn. Em chặn được hắn lại. Em đòi lại cái máy chụp bóng bắt hắn quay lui. Hắn xông vô đập em. Em chụp hòn đá, nhè túi áo hắn có đựng máy chụp bóng, em xán thật mạnh. Cái máy bể tan. Hắn vật em xuống đất, xé áo em làm dây trói em lại rồi đập em tràn cả máu mũi, máu miệng. Hắn rút khẩu súng lục dắt trong lưng quần ra, chỉ vô mặt em, bắt em phải đi theo hắn về đồn Sơn Quả. Em nằm dài ra giữa đường, giả đò đau quá không đi được. Rứa là hắn cõng em một mạch chạy về đồn Sơn Quả. Em ở lại với hắn trong đồn một đêm, nằm chung lộn với mấy thằng Bảo vệ quân. Sáng hôm sau có chiếc xe Jeep thằng Tây đen cầm máy, chở em với hắn thẳng về Huế, đến một nhà có rất nhiều lính Tây. Hắn đi vô nhà đó tự nhiên như đi vô nhà hắn. Hắn nói tiếng Tây xì xồ với tụi Tây. Rồi hắn ở lại đó luôn, còn em tụi hắn đem giam vô lao Toà Khâm, nhốt em vô cái nhà nhỏ tối câm. Em ở đó được hai ngày thì cha em đến đón em. Cha em mặc đồ Tây, đeo lon quan hai, bên hông đeo khẩu súng lục ni. - Mừng chỉ khẩu súng "côn mười hai" để trên bàn. - Tay cầm roi cặc bò ngúc ngoắc, ngúc ngoắc. cha em dắt em ra ngồi trên xe Jeep, vặn lái chở em về nhà riêng Phú Cam. Trong nhà có dì ghẻ em. Dì ghẻ em theo đạo, trên cổ có đeo cái thập ác với dây chuyền vàng. Trên bàn thờ có ông Chúa đứng dang tay chéo chân, với người đàn bà bồng con nít. Cha em ăn cơm thịt bò, thịt gà, ra phố mua cho em mũ dép, mấy bộ quần áo, rồi chở đi nhà thương bôi thuốc cho lành ghẻ. Cha em nói: "Con đi theo Việt Minh làm chi cho khổ, ghẻ đầy người, chỉ còn da bọc xương. Ở đây với cha, với dì ít lâu, ăn uống tẩm bổ cho lại người, chữa cho lành bệnh, rồi cha xin việc cho mà làm". Em nói: "Con nhỏ ri biết làm việc chi?" - Cha em nói: "Rứa mà Tây họ đang cần con đó. Con mà biết nghe họ, làm việc cho họ thì con muốn chi được nấy". Em hỏi: "Cha có biết chừ mạ con ở mô không?" - Cha em nói: "Mạ con bị Tây bắn chết ngoài Phò Trạch rồi" - Mừng trở sống bàn tay quệt nước mắt, nức nở hồi lâu rồi kể tiếp: "Em ở nhà cha em được hơn mười ngày, cha em chở em đến chỗ cha em làm việc. Một cái nhà lầu ba tầng, có rất nhiều Tây, nhiều Việt gian đi đi lại lại. Cha em đưa em vô một gian buồng rất rộng trên vách có treo tấm bản đồ chiến khu mình, nhưng to bằng cả chiếc chiếu. Trong buồng có mấy thằng Tây, mấy thằng Việt gian xì xồ nói tiếng Tây, hút thuốc. Cha em cầm cái que gỗ tròn, dài hơn mét, chỉ lên bản đồ nói: "Con chỉ cho các quan Tây coi chỗ mô tụi Việt minh trên Hoà Mỹ đóng các cơ quan như trung đoàn bộ, tỉnh uỷ, uỷ ban tỉnh, công binh xưởng, kho đạn, kho lúa gạo, chỗ mô bố trí các ụ súng bắn máy bay, đường mô có gài mìn. Con mà chỉ trúng, các quan Tây sẽ thưởng cho con nhiều áơ quần đẹp, nhiều tiền tha hồ mà tiêu xài". Em ngó tấm bản đồ, giả đò như không biết, hỏi cha em: "Cái tờ giấy to đại chang ni là cái chi rứa cha?". Mấy thằng Tây, Việt gian kêu ồ ồ. Cha em quạu mặt nói: "Thằng Kim nói mi đọc bản đồ làu làu, mi đừng có làm bộ giả đui, giả điếc? Mi mà không chỉ thì các quan đây xách cổ mi đi bắn, cha cũng không xin được mô". Một thằng Việt gian đeo gương mát hỏi em: "Em đã nhìn thấy cái bản đồ giống như thế này bao giờ chưa?". Em nói: "Dạ có, em có nhìn thấy, cấp chỉ huy em cũng có một cái giống như ri, nhưng nhỏ chỉ bằng tờ báo, mà vẽ cũng không được khéo như ri. Hắn nói: "Theo lời thằng Kim thì chú mình đọc bản đồ giỏi như một sĩ quan tham mưu". Em nói: "Anh Kim nói chọc em chớ em ở trên chiến khu mới học i tờ tờ i ti, em làm răng đọc được cái bản đồ to mà chữ nhiều bắt loạn ri". Hắn xách tai em hỏi: "Rứa thì em ở trên đó Việt minh sai làm những việc chi?" - "Dạ, em chạy liên lạc, đưa công văn giấy má đến các cơ quan". - "Rứa chắc chú mi phải thuộc hết đường trong chiến khu?" - Em nói: "Dạ, đường thì tui thuộc, chạy liên lạc mà không thuộc đường, lạc bậy vô giữa rú, cọp hắn tha mất xác". Em cứ nói huyên thuyên rứa mà coi bộ cả tụi hắn cũng tin. Rứa là tụi hắn với cha em nói tiếng Tây xì xồ với nhau, rồi cha em nói với em: "Thôi đi về". Cha em vặn xe, chở em về nhà. Em ở nhà chơi không đến có hai tháng, nhiều lần em muốn trốn lên chiến khu, nhưng em không thuộc đường, sợ đi lạc bậy vô đồn Tây thì chết. Rứa rồi cách đây năm ngày, cha em với mấy thằng Việt gian chở em lên đồn Sơn Quả. Cha em nói: "Tây họ sắp sửa đánh lên chiến khu, bắt sống hết tụi Việt minh ẩn núp trên đó, đem về bắn cho dân Huế coi chơi. Con ở đây đợi lúc quân đội họ tấn công lên, thì họ gọi con đi dẫn đường. Con phải dắt chỉ cho họ những chỗ tụi Việt minh đầu sỏ ẩn núp, các chỗ để súng đạn, lúa gạo… Họ mà bắt trúng, họ sẽ thưởng cho con tiền ngàn, tiền vạn". Em giả đò mừng rỡ nói: "Dạ, tưởng việc chi, việc dắt đường thì con làm được. Con sẽ dắt họ đi khắp chiến khu để họ tha hồ mà bắt Việt minh". Ở đồn Sơn Quả, ngày mô em cũng đi ra đi vô cổng đồn cho tụi lính gác quen mặt em. Trưa hôm qua, cha em uống rượu với thằng đồn trưởng say mềm. Em chờ cho cha em ngủ say, em mở bao da lấy khẩu súng lục giắt vào lưng, rồi đi ra cổng đồn, thằng lính gác hỏi đi mô, em nói đi hái sim chín. Trước cống đồn có một vạt đồi sim chín rụng đầy đất, thằng gác nói: "Hái nhiều nhiều đem về cho anh ăn với nghe!". Em dạ. Em lũi vô giữa bãi sim, qua hết bãi sim đến đồi tranh. Em nhắm thẳng hướng chỉến khu em lũi. Em chạy gần thấu trạm gác thì trời đã tối được một lúc lâủ nhưng em không dám vô, em sợ các anh gác tưởng em là Việt gian, các anh bắn. Em chui vô giữa bụi lau rậm, ngồi núp ở đó cho tới sáng em mới vô. Đầu đuôi có rứa thôi anh nờ…
***
Gần ba mươi năm sau, tôi đến thăm đại tá về hưu Lê Hường, ở khu nhà tập thể bộ đội. Bên chén rượu hội ngộ, chúng tôi cùng nhắc lại những kỷ niệm một thời tráng lệ cách mạng. Tôi ngỏ ý muốn viết lại câu chuyện về Mừng, người đồng đội tuổi thơ của tôi. Lê Hường bỗng đứng dậy mở tủ, lục lọi một hồì lâu. Anh lôi ra cuốn sổ tay dầy khoảng trăm trang. Cuốn sổ đã long bìa, các trang giấy kẻ ca-rô ố vàng như những chiếc lá rụng, nhưng chữ viết còn khá rô vì được viết bằng thứ mực xanh đen Oa-téc-men. Từ những trang giấy ố vàng tôi ngửi thấy mùi cũ xưa, mùi kỷ niệm.
Anh chìa cuốn sổ ra trước mặt tôi, bàn tay cầm cuốn sổ run run: "Đây là bản ghi tốc ký lời cung khai của Mừng hôm đó. Mấy chục năm qua tôi đã đánh mất đi nhiều thứ quý giá, nhưng không hiểu sao cuốn sổ này tôi vẫn còn giữ được. Nghĩ cho cùng cũng có lý do của nó. Đã từ lâu tôi cũng mơ ước viết một cái gì đó về nhưng người đồng đội nhỏ tuổi, quá ngây thơ, quá trong sạch này. Và tôi cũng đã thử bắt tay viết một hai lần… nhưng lần nào tôi cũng bỏ dở. Bây giờ thì tôi hiểu rằng, tôi thiếu mất cái chủ yếu để thực hiện điều mơ ước. Tôi không có tài năng, nếu cậu định viết về Mừng, tôi xin tặng cậu bản ghi tốc ký này, làm tư liệu.". Đại tá Hường cẩn thận xé sáu trang sổ tay dày đặc những chữ tốc ký, trao cho tôi. Anh hỏi: "Cậu có đọc được chữ tốc ký không?" - "Tôi chưa biết đọc, nhưng tôi sẽ học. Tôi tin là cũng không khó lắm".
Và đoạn văn trên là tôi dịch lại gần như nguyên văn bản tốc ký của đại tá Lê Hường, lời cung khai của Mừng buổi sáng hôm đó.
***
Mừng kể lại một mạch, em chỉ dừng lại khi phải chùi nước mắt, và nuốt tiếng nấc nghẹn. Từ giọng kể, gương mặt và những giọt nước mắt ngắn dài chảy tràn trên hai gò má trẻ thơ của em có cái gì thật đến nỗi Lê Hường thoáng có ý nghĩ: "Hay đúng là nó bị nghi oan?". Nhưng anh đã vội gạt ngay ý nghĩ đó. Anh còn trẻ quá, mới tròn hai mươi bốn tuổi. Trong công tác chuyên môn của anh, anh đã phải nhiều lần chạm trán và phải thường trực đối phó với những âm mưu vô cùng xảo trá, lắt léo của một kẻ thù hiểm độc, già dặn. Những âm mưu đó thường được che bọc bằng lừa lọc, giả trá và hơn một lần đã cho anh những bài học bằng máu, như trường hợp cái tên đàn ông giả dạng đi mua mây. Anh là người phải chịu trách nhiệm chính trong vụ này. Do đó mà anh phải luôn luôn cảnh giác với chính tình cảm và suy đoán của anh. Anh lo lắng mình bị vấp phải sai lầm mới.
Sự chân thật của Mừng đã không chọc thủng nổi lớp áo giáp phòng ngự của anh, mà năm tháng, lớp áo giáp ấy được kinh nghiệm xương máu đan dệt dày mãi lên.
Mừng kể xong. Lê Hường còn lục vấn thêm nhiều chi tiết khác. Cuối cùng anh ngồi im lặng nhìn Mừng rất lâu. Ánh mắt sắc và sáng lạnh của anh như muốn xuyên suốt qua người em. Ánh nói, mắt không rời gương mặt Mừng:
- Tôi đã gặp không ít những điệp viên nhà nghề, có hạng. Nhưng chú mi mới là tên điệp viên sừng sỏ, tinh quái nhất. Những âm mưu hiểm độc nguy hại cho kháng chiến lại được giấu trong cái vỏ bọc ngây thơ, ngờ nghệch của con nít, thì tôi chưa gặp bao giờ. Tôi cho chú mi hai ngày để suy nghĩ, rồi chú mi phải trả lời thật rõ ràng: "Bọn Pháp giao cho chú mi nhiệm vụ gì trong việc mò lên chiến khu lần này?". Nếu chú mi ngoan cố, nhất định sẽ bị trừng phạt theo đúng kỷ luật của thời chiến.
Thật ra, về sau này, Lê Hường mới biết, ngay cả hai tiếng điệp viên Mừng không rõ nghĩa. Em chỉ đoán lờ mờ rằng đó là một tiếng xấu xa lắm, tương tự như tiếng Việt gian. Nên Mừng chỉ khóc. Và Lê Hường cho rằng đó là những giọt nước mắt giả dối của một điệp viên bẩm sinh, điệp viên thần đồng.
Lê Hường viết lệnh tống giam Mừng. Anh giao Mừng cho một chiến sĩ ở trạm gác tiền tiêu, cầm súng áp giải vào Xê-ca Sáu nơi có trại giam những binh sĩ phạm tội chờ ngày đưa ra toà án quân sự xét xử.
Ba ngày sau, đúng vào buổi sáng Lê Hường sửa soạn vào xê-ca Sáu để lấy khẩu cung Mừng lần thứ hai, bọn Pháp mở trận tấn công quy mô lên chiến khu Hoà Mỹ.
Giặc Pháp đã tính toán khá chính xác và xảo quyệt. Chúng tấn công Hoà Mỹ đúng vào trưa ngày chủ nhật.
Thường thường ngày chủ nhật vùng Tiền chiến khu Hoà Mỹ trở nên đông vui, tấp nập như ngày tết, ngày hội. Bộ đội, cáẩ bộ, công nhân, từ các lớp núi chiến khu, suốt cả tuần sống giữa rừng rậm, kéo ra Tiền chiến khu dạo chơi, ăn quà bánh, sưởi nắng, ngắm trời, ngắm sông.
Các chị ở xưởng bào chế thuốc, y tá, hộ lý, tuy không đông lắm nhưng cũng đủ làm sống động, tươi mát quang cảnh nghiệt ngã của núi rừng kháng chiến. Do có các chị nên cánh đàn ông đều cố gắng ăn mặc lành lặn hơn, chải chuốt hơn ngày thường.
Ngày chủ nhật, nhà Văn hoá đại chúng thường tổ chức các buổi sinh hoạt văn hoá, văn nghệ đó là mục hấp dẫn nhất, mà cả tuần làm việc, chiến dấu, mọi người đều háo hức chờ đợi…
Chủ nhật hôm đó chương trình sinh hoạt nhà Văn hoá khá phong phú, đã được thông báo trước đó ba ngày.
1. Chính uỷ trung đoàn Trần Quý Hai kể chuyện về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ.
2. Bác sĩ Lê Khắc Thiền, Giám đốc bệnh viện chiến khu nóỉ chuyện về bệnh sốt rét, những di hại của nó và cách phòng ngừa bệnh đơn giản.
2. Anh Hồ Vi nhà thơ quen biết của trung doàn, trình bày bài thơ mới nhất của anh: "Gửi người chín lăm" (Tên trung đoàn chủ lực tỉnh Quảng Trị).
4. Đội đồng ca của nhà Văn hoá đại chúng trình diễn bài hát: "Bình Trị Thiên khói lửa". Sáng tác của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương.
5. Công binh xưởng trình diễn vở kịch ngắn một màn: "Ông già và trái thuỷ lôi".
Bạn đọc khi đọc đến đoạn này chắc không khỏi nghi ngờ, đánh dấu hỏi: Một chương trình sinh hoạt văn hoá, văn nghệ bình thường làm sao sau hơn ba mươi lăm năm mà tác giả còn nhớ và kể lại khá rành mạch? Hay đó chỉ là chuyện bịa đặt, kiểu hư cấu tiểu thuyết? Người kể chuyện xin thưa: Sự nghi ngờ của bạn đọc hoàn toàn có lý. Nhưng đó là một chương trình sinh hoạt văn hoá văn nghệ gắn liền với một ngày chủ nhật khốc liệt, bi thảm, đầy máu, lửa, xác chết của đồng đội và đồng bào. Do vậy mà nó đã tạc khắc vào trí nhớ của nhiều người chứng kiến, tham dự, với một độ sâu bền mà thời gian không xoá nổi.
Cách đây không lâu, trong một buổi gặp gỡ chuyện trò với đồng chí Trần Quý Hai, lúc này là trung tướng, tôi đã nhắc lại chương trình sinh hoạt nhà Văn hoá đại chúng hôm đó. Với mục đích kiểm tra lại trí nhớ của mình, tôi đã quên mất mục thứ hai của chương trình và đồng chí Trần Quý Hai đã bổ sung: "Anh còn nhớ là sau khi anh lên kể chuyện về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ, anh Thiền lên nói về bệnh sốt rét… Và đúng lúc vở kịch "Ông già và trái thuỷ lôi" mở màn thì cả chiến khu vang rền tiếng động cơ máy bay và tiếng súng bắn máy bay".
Trong hai ngày thứ sáu và thứ bảy, tin tức của các tổ trinh sát bám đich dưới đồng bằng đưa về chiến khu dồn dập: Bọn địch ở các vị trí dọc đường quốc lộ đã tập trung quân và xe pháo rất đông. Một quân đội cơ động ứng chiến từ Quảng Trị kéo vào đóng ở đồn đầu cầu Phò Trạch. Dự đoán của trinh sát: Sáng ngày chủ nhật bọn giặc có thể tấn công chiến khu. Ban chỉ huy trung đoàn ra lệnh cho các cơ quan và đồng bào ở Tiền chiến khu phải rút hết vào núi trong đêm thứ bảy. Ở Tiền chiến khu chỉ còn lại những đơn vị bộ đội có nhỉệm vụ chiến đấu bảo vệ chiến khu.
***
Sáng chủ nhật. Cả vùng Tiền chiến khu không còn bóng một con lợn, con gà. Quán xá chỉ còn trơ lại mấy cái bàn tre. Bếp núc lạnh tanh. Những cánh cửa chống lên thông thống như muốn bảo với bọn giặc: "Chúng mày cứ việc mò vào, chẳng có xơ múi gì đâu!".
Mấy chú chồn, chú sóc chắc thấy cảnh vắng lặng khác thường, lấy làm lạ, từ trong các bụi rậm chạy ra đứng nghênh ngang ngay giữa các lối đi. Mắt chúng lơ láo, ngó ngược, ngó xuôi, đuôi xù ra cái phướn múa máy, đùa giỡn.
Tiếng rì rào của dòng sông Ô Lâu, tiếng kẽo kẹt các coọng nước quay nghe như rõ hơn, vang vọng hơn mọi ngày. Sương mù thưa loãng dần. Những tia nắng sớm màu vàng hoa chạc chìu, xuyên thủng lớp sương mù, trải dài trên những bãi chông lồ ô chống quân nhảy dù trên các công sự bố trí súng phòng không, lấp lánh trên các nòng thép mười ba ly hai, mười hai ly bảy trên các giao thông hào lố nhố bóng lính, mũ xanh rờn lá nguỵ trang…
Nắng sớm tắm vàng các tán cây đại thụ dựng cao vút trên sườn núi. Trong những vòm lá rậm chóp cây, thấp thoáng ẩn hiện những thân hình nhỏ bé, thoảng nhìn có thể tưởng lầm là những chú vượn, chú khỉ. Đó chính là cái đài quan sát do các tổ Thiếu niên trinh sát phụ trách.
Cũng giống như sương mù, không khí căng thẳng, hồi hộp, lo âu, phấp phỏng về một trận tấn công quy mô của giặc nghiền nát chiến khu, cứ thưa loãng dần cho đến lúc tan biến hẳn, khi mặt trời càng lên cao. Cả chiến khu tràn ngập màu nắng tuyệt đẹp của một ngày chủ nhật tuyệt đẹp.
Cả chiến khu bắt đầu động đậy, nhấp nhổm, vội vàng, muốn tranh thủ những giờ bị mất oan của một ngày chủ nhật hứa hẹn nhiều sinh hoạt vui chơi hấp dẫn. Có một quy luật mà đứa trẻ lên ba ở vùng giặc chiếm đóng cũng biết là bọn giặc chỉ tấn công càn quét vào lúc rạng sáng, muộn lắm là khoảng tám, chín giờ. Sau đó là coi như an toàn. Nên chẳng cần lệnh báo yên, người trong núi bắt đầu đổ ra Tiền chiến khu. Dẫn đầu là các o, các chú, chủ các quán hàng. Tốp năm, tốp ba gồng gánh, tay xách nách mang, cười nói ầm ĩ, dọc các lối mòn giữa rừng cây thấp chạy men theo bìa núi.
Hai chị quần xắn quá gối, gánh một con heo to tướng, cười nói bô bô:
- Tui biết ngay mà? Các ông cứ đoán già đoán non rứa, chớ tụi Tây động mả động mồ chi mà đi tấn công chiến khu vào ngày chủ nhật? Rứa thì ai đi nhảy đầm, đi nhà thờ cầu Chúa cho tụi hắn?
- Không nhảy đầm, không đi cầu Chúa, tụi hắn tiếc đứt ruột khác chi chị em mình mất buôn, mất bán!
Người từ trong các lớp núi kéo ra Hoà Mỹ mỗi lúc một đông.
Dọc bờ sông, các giao thông hào, các ụ súng phòng không, các chiến sĩ trực chiến cũng bắt đầu nhấp nhổm. Người nhảy lên bờ công sự ngồi, người vấn thuốc hút, người nghếch mặt, mắt hấp háy ngó theo mấy o bào chế, y tá, cười nói yểu điệu kéo về nhà Văn hoá đại chúng. Vừa lúc đó, Lê Thắng - đội trưởng trinh sát đi ngang qua. Bộ áo quần vải sợi đôi rách và bê bết bùn đất, cái mũ nan bọc vải dù bẹp dúm dó cắm mấy cành lá nguỵ trang, mắt thâm quầng vì mất ngủ. Suốt đêm qua, anh đôn đáo suốt dọc chiến khu, kiểm tra lại mạng lưới trinh sát.
Theo sát gót anh là Bồng-da-rắn. Trông em cũng lấm lem mệt mỏi không kém đội trưởng. Mấy chiến sĩ ở đại đội liên pháo đang ngồi trên bờ công sự hút thuốc, nhìn thấy hai anh em, liền nói kháy:
- Ông trùm trinh sát ơi! Tây lên thấu mô rồi để anh em còn chuẩn bị nghênh chiến?
- Tin trinh trinh sát thì có ngày đổ thóc giống mà ăn.
Anh Thắng cứ im lặng bước, nhưng Bồng đốp chát lại ngay:
- Tin lính bắn máy bay thì có ngày ăn bom Tây no bụng! - và Bồng sẵn sàng co giò chạy nếu các anh rượt đuổi.
"Ôi ta buồn ta đi lang thang bởi vì đâu.… ". Một giọng hát cao vút bỗng cất lên giữa những vồng sắn cao lút đầu người.
Tất cả chưa kịp cãi lộn nhau cùng quay lại nhìn. Một cô gái khoảng mười chín, hai mươi tuổi, áo quần lành lặn nhưng xộc xệch, đầu đội vành hoa mua, hoa sim, tay cầm một nhành hoa bãi hoãi màu nắng sớm, vừa đi vừa quay nhành hoa, vừa hát. Gương mặt cô xanh xao, cặp mắt mở to, lóe sáng ánh ngây dại.
"Dừng chân ta ngắm cảnh bao la sầu". Cô ngoảnh mặt về phía núi xanh, cười lên khanh khách: "Ha ha ha! Núi rừng bao la sầu đẹp quá! Đẹp quá! Ha ha ha…".
Bồng-da-rắn chạy đến bên cô gái, nói giọng dịu dàng, van vỉ:
- Chị Hoài Trinh ơi, chị đi vào núi nghỉ ngơi cho khỏe. Chị hát chi hát hoài rứa, làm em đứt ruột…
- Ha ha ha! Hoàng tử của ta! Hoàng tử của ta! Ta ban cho chàng bông hoa thần làm ra hạnh phúc…! - Chị cầm nhành hoa bãi hoãi quệt quệt hai bên má Bồng, rồi cắm vào túi áo Bồng. Bồng đỏ mặt, quay lại, lầm lũi bỏ đi.
Cô Hoài Trinh ở xưởng bào chế thuốc trước đây được coi là hoa khôi của chiến khu, sốt rét nhiều quá đã phát điên từ mấy tháng nay. Cô cứ đi lang thang khắp chiến khu mà hát như vậy.
Nhà Văn hoá đại chúng đã chật ních người. Anh Hinh tỉnh đội phó, trưởng ban nhà Văn hoá lên tuyên bố buổi sinh hoạt thường kỳ tuy hôm nay bắt đầu hơi muộn nhưng hứa hẹn sẽ rất thú vị, hấp dẫn. Chính uỷ Trần Quý Hai lên kể chuyện về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ với giọng Quảng Ngãi quen thuộc, đậm đà mộc mạc.
Cách nhà Văn hoá đại chúng mấy nương sắn là dãy quán hàng. Lửa bếp quán nào cũng cháy rừng rực. Gió bay mùi xào bò, cháo bánh canh, nước lèo, đến tận đây. Khán giả đang chăm chú nghe bác sĩ Lê Khắc Thiền giảng giải về con muỗi Anôphen. Hiệu Coiffeur de luxe của anh Đỡm kẻ vào người ra tấp nập. Anh Đỡm tay lược, tay tông-đơ ngự trên cái ghế cành cây như Bảo Đại ngự trên ngai vàng, hai cẳng chân xỏ trong bao bố chống ruồi và con bu mắt.
Bên kia đường mụ Táo bán hàng vừa ngắm nguýt đôi câu đối trên cột bương hiệu Coiffeur de luxe.
- Rứa mà cũng đòi đối đáp! Nghe cục súc như đá quăng!
Mười một giờ mười sáu phút.
Trên đài quan sát phíaTây Nam chiến khu do một tổ Thiếu niên trinh sát phụ trách, tiếng kẻng báo động máy bay bỗng dồn dập vang lên. Tiếng kẻng chỉ một loáng đã lan rộng cả Tiền chiến khu. Bầu trời chiến khu vang ầm tiếng động cơ máy bay. Sáu chiếc khu trục thành đội hình chữ V, từ phía sân bay Phú Bài vèo vèo lao đến. Các cỡ đạn đại liên, trọng liên, rạch trời đón chúng. Chỉ mấy phút sau, cả vùng trời Hoà Mỹ chìm ngập trong tiếng bom, tiếng súng.
Tiếng bom, súng vừa lặn được vài phút, thì từ phía biển, mười chiếc máy bay vận tải Đa-cô-ta thành một hàng ngang, lùi lũi bay đến chiếm lĩnh vùng trời chiến khu. Vượt qua khỏi sông Ô Lâu, từ bụng máy bay bung ra hàng trăm chiếc dù trắng, xanh, vàng, đỏ, như những tai nấm độc khổng lồ, ngả nghiêng giữa bầu trời. Chúng lớn dần lớn dần cho đến lúc nhìn rõ những tên giặc đen, trắng đeo lủng lẳng dưới những chiếc dù.
- Tây nhảy dù! Tây nhảy dù!
Tiếng gào thét, hô hoán dậy lên khắp nơi.
Buổi sáng thanh bình của chiến khu Hoà Mỹ đã kết thúc trong lửa và máu, với hàng trăm xác chết của đồng bào, cán bộ, bộ đội bị bom, quân nhảy dù và quân bộ tràn qua sông Ô Lâu, tàn sát man rợ chưa từng thấy. Và những người chứng kiến cảnh tàn sát ấy rõ ràng hơn hết là các em trong đội Thiếu niên trinh sát trên các đài quan sát của chiến khu.
***
Suốt một tuần, báo chí của địch ở Huế đưa tin dồn dập, rầm rộ về trận đại thắng của quân đội Pháp tại chiến khu Hoà Mỹ.
Với những dòng chữ tít lớn chạy dài trên các trang nhất:
"Chiến khu Hoà Mỹ của Việt minh Thừa Thiên bị dìm trong một biển lửa và khói".
"Dinh luỹ đầu não của Việt minh Thừa Thiên đã bị nghiền nát và xoá sạch khỏi vùng núi Hoà Mỹ".
"Trung đoàn trưởng Hà Văn Lâu, Chính uỷ Trần Quý Hai đã chết trong đám loạn quân".
"Xác chết của binh sĩ trung đoàn 101 lấp kín dòng sông Ô Lâu v.v…"
Hàng ngày, cả chục chiếc ô tô chở đầy những người áo quần rách rưới, hai tay bị trói, cùng với súng đạn, chạy vòng quanh thành phố. Dẫn đầu đoàn ô tô là chiếc xe Jeep trống kèn inh ỏi, loa phóng thanh oang oang thành phố.
"Đây là quân lính Việt minh bị bắt tại chiến khu Hoà Mỹ và một phần rất nhỏ số súng đạn thu được của chúng".
Nhân dân Huế chẳng còn lạ gì, miệng lưỡi láo thiên láo địa của bọn giặc. Nhưng chúng cứ ra rả suốt ngày bên tai như vậy, làm đồng bào không khỏi hoang mang, lo lắng.
Sự thật, sau một tuần đánh phá, bọn giặc cũng chỉ lởn vởn được bên ngoài làng Hoà Mỹ. Mỗi ngày chúng mở cả chục đợt tấn công, có máy bay, đại bác yểm trợ, vẫn không vượt nổi dải rừng cây thấp trước thềm núi chiến khu.
Ban đêm chúng co cụm lại trong các công sự đào đắp vội vàng hai bên bờ sông Ô Lâu. Chúng đặt đại bác trên các đỉnh đồi bên kia sông, bắn suốt ngày đêm vào các lớp núi xanh. Bầu trời chiến khu như cái bể rèn khổng lồ với hàng ngàn thanh sắt nung đỏ nhúng vào nước kêu xèo xèo. Đó là tiếng rít của đạn moóc-chê, đại bác và hàng trăm quả bom lớn nhỏ dội xuống các sườn núi, khe suối.
Đêm, quân ta từ trong núi tổ chức các đợt phản kích đánh vào các toán giặc co cụm dọc bờ sông, mặt khác, tổ chức thu lượm thi hài chiến sĩ, đồng bào bị giặt giết trong hôm chúng nhảy dù, đưa vào núi chôn cất.
Trong số này, có xác chết đã in vào trí nhớ các đội viên thiếu niên trinh sát như sắt nung đỏ. Đó là anh Đỡm thợ cắt tóc anh chết nửa nằm nửa ngồi, bị đạn tiểu liên bắn nát mặt.
Hai cẳng chân đầy mụn lở loét vẫn xỏ trong cái bao tải, một tay anh níu sợi dây da đóng vào cột anh vẫn dùng để liếc dao.
Hình như anh định chạy nhưng bị vướng lùng bùng trong cái bao tải nên ngã xuống. Anh níu sợi dây da gượng đứng dậy thì bọn giặc nhảy dù xông vào bắn chết.
Hoài Trinh cô nhân viên bào chế, điên, bị bọn giặc lột trần truồng, hãm hiếp, rồi dùng lưỡi lê xăm nát mình. Đầu cô vẫn đội cái vòng hoa kết bằng những bông hoa sim, hoa mua.
Trong túi áo của Bồng vẫn còn nguyên nhành hoa chạc chìu cô tặng em trước lúc bị giặc giết chỉ mấy tiếng đồng hồ. Đã một tuần nay rồi, mỗi lần bất chợt ngửi thấy mùi hoa rừng úa héo dâng lên từ ngực áo, hai mắt em trở nên đỏ ngầu, giàn giụa nước mắt.
3
Trung đoàn trưởng đi về phía đài quan sát cây quao ở lưng chừng dốc núi Xê-ca Bảy. Chính cây quao mà Mừng đã chỉ vào bản đồ của ông, và đề nghị đặt đài quan sát ở đây. Bộ quần áo kaki màu xanh lá cây và cái mũ cối của ông cũng lấm láp bùn đất không khác gì các chiến sĩ của ông đang bố trí dọc các chiến hào. Theo sau ông là em Nghi liên lạc trung đoàn bộ, mặc quần dài xắn quá gối, đầu trần, tóc đỏ quạch đất bụi, ấo sơ mi rách tả tơi. Vai em khoác khẩu các-bin.
Dọc lối đi, cây cối bị bom, đạn đại bác, đạn súng cầu vồng phạt đổ ngả nghiêng. Hố đạn bom như những vết mụn lở loét lỗ chỗ khắp sườn núi. Tiếng đạn rít xèo xèo ngang qua đầu hai anh em. Chốc chốc Trung đoàn trưởng và Nghi lại nằm rạp xuống sau các gốc cây lớn tránh đạn. Dứt đợt nổ, hai người lại đứng dậy, phủi đất bùn, lá cây, vỏ cây mà đạn ném phủ!ên người và tiếp tục đi.
Đài quan sát cây quao do các em Hoà-đen, Hiền, Châu-sém và Ba phụ trách. Châu-sém làm tổ trưởng. Đây là đài quan sát độc nhất trong năm đài quan sát của chiến khu, được trang bị máy điện thoại. Điện thoại nối liền đài quan sát với hầm chỉ huy của Trung đoàn trưởng, đặt cách đó gần một cây số.
Trung đoàn trưởng đến nơi đúng vào phiên trực của Hoà-đen. Em ngồi trên chạc ba ngọn cây, tay cầm ống nhòm chăm chú theo dõi bọn giặc đang lúc nhúc đi trên vùng đất Tiền chiến khu. Bên em là máy điện thoại và hộp đựng pin máy, được buộc chắc chắn vào một cành cây, ngang tầm tay với của em.
Châu, Hiền và Ba ngồi dưới gốc cây, trước mắt là mấy hốcá nhân mới đào, đất rừng đắp quanh miệng hố còn tươi nguyên.
Cách gốc cây chừng dăm chục thước, có ba, bốn hố đại bác sâu hoắm, có một hố sâu lút đầu người - chắc là do một trái pháo hạng nặng đào khoét.
Châu-sém nhìn mấy hố đạn với cặp mắt tiếc rẻ:
- Cơi chi tụi hắn bắn xích gần vô đây chút nữa thì tụi mình đỡ mệt, khỏi phải đào công sự. Đồ bắn dở ẹc!
Ba em đang ngồi ăn sắn luộc. Các em nhai một cách uể oải, mặc dầu bụng đói cồn cào. Đã ba ngày nay cả chiến khu phải ăn sắn trừ cơm, mà sắn lại thiếu muối. Các em thay muối bằng ớt, thứ ớt rừng bằng hạt thóc mà cay xé lưỡi. Hiền vừa ăn vừa nghêu ngao hát: "Sống ăn sắn mà không thèm ăn phơ ở ở… Chết huy hoàng mà không khuất phục ai!"
Thấy trung đoàn trưởng đi đến, các em đứng dậy:
- Anh ạ! Anh ạ! Mời các anh ăn sắn cho vui!
Trung đoàn trưởng cười, hỏi:
- Nuốt ngó bộ gay go hí? - Ông rút trong túi quần ra một khúc sắn dài cỡ gang tay - Anh cũng được mấy o cấp dưỡng phát cho hai khúc như ri. Từ sáng tới giờ anh cũng gắng gỏi lắm mới nuốt hết một khúc. Các em chịu khó, trong vài ngày tới răng cũng có gạo dưới đồng bằng tiếp lên.
Ba nói:
- Dạ ăn sắn cả tuần em cũng ăn được, chỉ khiếp là không có muối.
- Dạ, không biết nhịn muối độ mười ngày, có chết không anh hè? - Hiền hỏi.
- Hồi anh chiến đấu ở mặt trận An Khê, nghe mấy cụ già người Thượng từng tham gia nghĩa quân Ma Trang Lơn, kể là họ đã từng phải nhịn muối cả năm liền.
Châu-sém nói:
- Rứa thì Vệ Quốc Đoàn mình so với các cụ, khổ đã thấm béo chi anh hè?
- Ừ đã thấm béo chi! Tình hình địch có chi mới không? Anh Thắng đi mô rồi?
- Dạ anh vừa ở đây xong. Anh xuống đôn đốc mấy đài quan sát ở phía Nam, chắc đến trưa mới quay về.
Châu-sém báo cáo:
- Dạ, cả ngày hôm qua với sáng ni tụi hắn rậm rịch đào công sự dọc bờ sông. - E tụi hắn định ở lại chơi với ta lâu dài anh hè?
Trung đoàn trưởng chỉ cái thang tre cao vòi vọi bắt dựa vào thân cây để trèo lên đài quan sát, hỏi:
- Có chắc không các em? Anh muốn trèo lên ngó qua một chút.
- Dạ, cũng hơi chắc… Anh trèo không quen sợ bổ. - Châu-sém nhìn cái thang rồi nhìn Trung đoàn trưởng với ánh mắt lo lắng. - Mà tụi hắn hay bắn bất tử vô đây lắm… lỡ…
Ba nói:
- Bốn giờ chiều hôm qua hai thằng Xít-pi-phai bay qua đây, là là gần sát ngọn cây. Em tưởng tụi hắn cào em đi mất.
Trung đoàn trưởng cười:
- Ý là các chú không muốn cho anh trèo chớ chi? Hồi nhỏ anh cũng là tay trèo cây chúa lắm chứ các chú đừng tưởng.
Trung đoàn trưởng vịn thang tre trèo lên thoăn thoắt. Hoà-đen cúi lom khom, một tay vòng ôm chặt cành cây, một tay níu khuỷu tay Trung đoàn trưởng, giúp ông trèo lên chỗ em đang ngồi. Em nép sát vào cành cây nhường chỗ và trao ống nhòm cho ông.
Đại bác giặc lại dồn dập bắn vào núi. Nhiều trái rít ngang qua ngọn cây. Mỗi lần như vậy Hoà-đen đều rùng mình, cả người em căng như sợ dây đàn lên hết mức, trong tư thế sẵn sàng lấy thân mình che đạn cho người chỉ huy cao nhất của trung đoàn. Trung đoàn trưởng vẫn điềm tĩnh lia ống nhòm quan sát địa hình và bọn giặc đang đào công sự dọc bờ sông Ô Lâu. Mỗi lần có tiếng đại bác rít bay qua, ông cũng chẳng buồn cúi đầu.
Đêm qua có cuộc họp giữa Ban chỉ huy trung đoàn các đồng chí lãnh đạo Tỉnh uỷ, tại Xê-ca Bốn để quyết định những vấn đề cấp thiết của chiến khu Hoà Mỹ lúc này. Cuộc tấn công bao vây chiến khu của giặc đã bước sang ngày thứ mười hai. Trong mười hai ngày qua, cường độ các đợt tấn công của giặc vào núi càng dữ dội. Tất cả các đợt tấn công đều bị quân ta đánh bật ra. Quân ta vũ khí ít, quân số không đông, nhưng được rừng cây che phủ, và bọn giặc lại không thông thuộc địa hình, nên Ban chỉ huy trung đoàn tin chắc dù chúng tấn công với lực lượng gấp đôi cũng không thể vào được trong núi. Nhưng gay go nhất vẫn là lương thực. Ba ngày qua cả chiến khu đều ăn sắn. Những lon gạo cuối cùng được vét dồn cho bệnh viện với mấy chục thương binh.
Tỉnh uỷ và Uỷ ban tỉnh đã liên tiếp cử nhiều đoàn cán bộ, đêm bí mật bò qua phòng tuyến địch, vượt sông Ô Lâu, về đồng bằng hai huyện Phong, Quảng huy động lương thực tiếp tế cho chiến khu đang bị bao vây. Nhưng bọn giặc bao vây chiến khu rất chặt. Không tấn công được vào núi, chúng xoay đổi chiến thuật, vây hãm chiến khu dài ngày, cắt đứt mọi đường tiếp tế từ đồng bằng lên. Chiến khu sẽ kiệt lương thực. Việt minh tất phải ra hàng, nếu không hàng thì chết đói.
Trong mười hai ngày qua, hàng chục đoàn dân công tiếp tế của các xã đồng bằng, gánh gạo, muối lên chiến khu, đã bị bọn địch phục kích tiêu diệt. Gạo, muối lẫn với máu và xác người nằm lăn lóc trên đường từ đồng bằng lên núi. Nhưng nhân dân các huyện đồng bằng vẫn gan góc, quyết liều thân với giặc để cứu chiến khu. Đoàn tiếp tế này vừa ngã xuống, xác vừa được mang về chưa kịp chôn cất, đoàn tiếp tế khác đã hăm hở lên đướng. Nhiều đoàn đã phải đi một quãng đường dài gấp năm, gấp bảy đường chính, với hy vọng lọt được qua vòng vây giặc. Họ băng qua Quảng Trị, vòng lên núi xanh, rồi từ núi xanh quặt trở lại Hoà Mỹ.
Cuộc họp của Ban lãnh đạo chiến khu Hoà Mỹ đã đi đến quyết định: Rời bỏ chiến khu Hoà Mỹ. Dời toàn bộ chiến khu vào Dương Hoà, một vùng làng mạc nằm ven thượng nguồn sông Hương - phía nam tỉnh. Từ Hoà Mỹ vào Dương Hoà phải đi xuyên núi mất từ ba đến năm ngày.
Các bộ phận cồng kềnh như bệnh viện, kho tàng công binh xưởng… phải đi ít nhất là mười ngày.
Ngay đêm đó, một đoàn tiền trạm đã lên đường vào chiến khu mới.
Tin của các chiến sĩ trinh sát từ Tiền chiến khu đưa về là bọn giặc đang sửa soạn một trận tấn công quyết định vào các Xê-ca. Báo chí, đài phát thanh giặc đưa tin quân Việt minh bắt đầu chết đói, một số không cầm nổi vũ khí, đang hẩp hối. Chúng tin chắc với trận tấn công quyết định này, chúng sẽ nghiền nát toàn bộ chiến khu. Trinh sát dự đoán mũi tấn công chính của bọn. giặc là hướng Xê-ca Bảy, nơi đóng bệnh viện.
Ban chỉ huy trung đoàn quyết định tổ chức một trận phục kích bằng địa lôi lớn nhất, dữ dội nhất từ trước đến nay, với toàn bộ số mìn hiện có của chiến khu, tại bãi trống trên đường vào Xê-ca Bảy. Bãi trống này ôm vòng chân núỉ có dựng đài quan sát cây Quao.
Trung đoàn trưởng đến đài quan sát để nghiên cứu lại địa hình lần cuối cùng, chuẩn bị cho trận địa lôi chiến quyết định.
4
Đợt đại bác câu sâu vào trong các lớp núi xanh vừa đứt, gần một chục đội viên Thiếu niên trinh sát nằm nép mình bên bờ suối tránh đạn, đã vùng ngay dậy. Các em phủi tóc tai, áo quần, và sờ quanh người xem có mảnh đạn nào găm vào người.
Trên triền dốc bên kia suối, một đoàn người khiêng vác cồng kềnh, tay chống gậy, những ngón chân trần bấm sâu xuống đất, nặng nhọc bước đi.
Những bộ phận máy móc tháo rời, những bánh xe răng cưa, những cái đe, búa tạ, đạn lép, mìn, những thùng đồ đạc… lúc lắc trên đòn khiêng, nghiến miết vai họ, làm chân người nào cũng bước đi chệnh choạng.
Cuộc rút lui khỏi chiến khu bắt đầu từ tờ mờ sáng, khi đường rừng còn chưa nhìn rõ, đẫm ướt sương đêm. Tư-dát thích dùng chữ nghĩa sang trọng, gọi cuộc rút lui này là "Thiên đô về phía Nam".
Những cơ quan, những đơn vị cồng kềnh được rút lui trước.
Họ im lặng một cách kỳ cục. Tiếng đạn đại bác xèo xèo rít qua đầu, họ cũng chẳng thèm núp cũng chẳng buồn cất tiếng chửi rủa như mọi khi. Một vài người quạu cọ, làu bàu: "Điếc đít".
Họ lầm lũi, nặng nhọc tiến mãi vào rừng sâu…
Một nừa quân số đội Thiếu niên trinh sát gồm các em: Du, Đồng, Kỳ, Bé, Nuôi, Phát, Do, Tuyên, Bồng-da-rắn, được lệnh đi theo đoàn cán bộ tham mưu vào chiến khu mới để làm quen trước với địa hình, chuẩn bị cho những trận chiến đầu mới.
Tư-dát, Nguyện, Trà, Lô ở hai đài quan sát cạnh đường rút lui. Các em thay mặt nửa đội còn ở lại, sẽ rút lui sau cùng, đến gặp gỡ, chia tay với các bạn rút trước.
Các em chuẩn bị một bữa tiệc liên hoan chia tay khá thịnh soạn. Hơn một chục vắt cơm nhỏ xíu, mỗi vắt nửa lon gạo, đặt trên hai tàu lá chuối rừng, trên tảng đá phẳng phiu như một bàn nằm trên bờ suối.
Gọi một bữa liên hoan chỉ có chục vắt cơm nhỏ xíu là thịnh soạn, người kể chuyện không hề có tí hài hước. Nếu biết được cái giá của mỗi vắt cơm đó, người ta sẽ phải nhận rằng, trên thế gian này không có thứ cao lương mỹ vị nào đắt hơn. Giá của mỗi vắt cơm là giá máu. Đảng bộ và chính quyền hai huyện Phong, Quảng đã phải tổ chức những đoàn "Vũ trang tiếp tế" để đưa bằng được gạo, muối lên chiến khu… Mỗi đoàn dân công gánh gạo, muối có một tiểu đội du kích vũ trang đầy đủ, đi mở đường và hộ tống. Họ phải đánh nhau với bọn giặc phục kích trên các nẻo đường để chọc thủng vòng vây giặc.
Nhiều tiểu đội lên đến chiến khu đã hy sinh chỉ còn ba, bốn người. Nửa đêm hôm kia, một đoàn dân công huyện Quảng Điền chuyển được mấy tạ gạo lên đến chiến khu, phải mất sáu người chết và bốn người bị thương nặng. Trong số những người bị thương có một chị tổ trưởng dân công nghe đâu người làng Thệ Chí, bị đạn và mảnh lựu đạn xuyên qua đùi, bụng. Nhưng chị không chịu rời gùi gạo nặng trĩu trên vai và đồng thời chị chỉ huy tổ mình mang gạo lọt qua vòng vây giặc. Hiện tại đang nằm tại bệnh viện Xê-ca Bảy, trong tình trạng hết sức nguy kịch. Các chiến sĩ, cán bộ trên đường rút lui đều tạt vào bệnh viện thăm chị. Hôm qua Tư-dát ghé vào thăm, nhìn chị nằm thiêm thiếp hôn mê và tấm chăn đơn chị đắp ngang người đầm đìa máu, em mếu máo khóc và một ý vụt đến trong đầu: "Ôi những hạt cơm em ăn, nặng trĩu máu nhân dân!". Gương dũng cảm tiếp tế cứu chiến khu của chị chỉ hôm sau đã lan truyền khắp chiến khu.
- Thôi ăn đi, rồi đi vô thấu trong đó cho được mạnh giỏi anh em hí. - Lô khai mạc bữa tiệc liên hoan vẻn vẹn một câu ngắn ngủi như vậy.
- Khoan! Khoan! - Tư-dát vừa kêu vừa trịnh trọng mở gói lá chuối từ nãy tới giờ vẫn cầm lăm lăm trong tay.
- Úi chao! Muối! Muối! Hoan hô Tư-dát! Hoan hô Tư-dát!
Các em vỗ tay hoan hô, reo hò vang dội dốc núi.
Tư-dát trang trọng đặt gói muối giữa những vắt cơm. Cả chục cặp mắt như bị hút chặt vào đó. Một đốm nắng rực rỡ lọt qua tán cây, rọi thẳng vào giữa gói muối. Những hạt muối bắt nắng, sáng lên lấp lánh như đang cười, nháy mắt với các em.
Tất cả đều nuốt nước bọt.
- Nằm xuống! - Võ Trà bỗng hét to thất thanh.
Chưa hiểu chuyện gì nhưng tất cả đều nằm rạp xuống đất.
Trên đầu các em rợn lên tiếng xèo xèo như sắt đỏ nhúng vào nước lạnh. Một tiếng nổ chói tai. Đất đá quăng rào rào lên mình bọn trẻ. Trái đạn đại bác nổ cách các em chưa đầy ba chục thước.
Tất cả đứng bật ngay dậy, không kịp phủi tóc tai, mặt mũi, đã ngó ngay vào mâm tiệc liên hoan. Những vắt cơm còn nguyên, nhưng gói muối bay đâu mất? Các em tái mặt, nháo nhác ngó quanh tìm kiếm. Đoàn phát hiện ra gói muốn nằm lọt giữa khe hở hai tảng đá. Hơi đạn nổ đã hất gói muối xuống đó. Nhìn xuống khe hở, các em thấy ngọn lá nằm nghiêng trút hết muối xuống đáy khe hở. Khe hở vừa hẹp lại vừa sâu.
- Để tớ! Để tớ! - Các em tranh nhau nằm ẹp xuống, thọc tay vào khe hở để nhặt muối. Nhưng vô ích. Em nào thọc được sâu nhất cũng chỉ đến khuỷu tay. Đồng cố thọc khuỷu tay bị kẹt, không rút ra được. Các em phải xúm lại giúp Đồng rút ra.
Đồng kêu oai oái, nước mắt, nước mũi giàn giụa vì đau. Rút ra được khuỷu tay em bị xây xát, rướm máu.
Tất cả mặt ỉu xìu, tiếc xót, mắt không rời khe đá bên dưới có chứa cả kho châu ngọc.
- Có lẽ mô ta lại chịu thua? - Lô dõng dạc lên tiếng - Cạy đá ra mà lượm!
Thế là tất cả xúm lại hì hục đào, khoét đất dưới chân tảng đá, làm cho tảng đá hỏng chân để cạy.
Ba, bốn em nhảy xuống suối, bụm tay tát nước suối vào chân tảng đá cho đất mềm ra, dễ đào. Mấy em dùng dao găm, cành cây đào, mấy em khác dùng tay bới đất.
Tất cả mồ hôi vã ra như tắm. Những manh áo rách như xơ mướp dán vào những tấm lưng gầy nhom. Tảng đá không chịu nhúc nhích mặc cho các em hò hét xô đẩy. Võ Trà nổi cáu, đạp vào tảng đá chửi um:
- Tổ cha mi, mi định ăn tươi, nuốt sống gói muối của tụi tau à?
Tất cả đứng lên, quệt mồ hôi trán, nhăn nhó thiểu não:
- Có lẽ chịu bỏ thôi! Ăn được hột muối mà xâm xoàng mặt mũi ri thì nhịn quách cho rồi?
Tư-dát tác giả gói muối, vẫn hậm hực:
- Chịu đầu hàng à? Đầu hàng một lần rồi sẽ quen mùi đầu hàng mãi!
Sáng kiến chợt lóe trong óc em. Em đưa mắt nhìn quanh kêu to:
- Tê rồi! - Em chỉ một cái đòn khiêng ai vứt lăn lóc bên sườn núl.
Tư-dát nhảy tới chụp cái đòn tre nặng chịch, vác chạy đến, miệng liến láu một câu danh ngôn: "Hãy cho ta một điểm tựa, ta sẽ bẩy cả quả đất!".
Tư-dát thọc một đầu cái đòn tre vào cái hố sâu vừa đào dưới chân tảng đá. Hơn chục đôi vai tí hon ghé sát vào nhau, gánh cái đòn tre: Tư-dát la to: "Hai… ba này!". Tất cả choãi chân, rườn căng mình, gánh bật cái đòn tre lên. Hòn đá rung rinh rùng mình dưới lực của đòn bẩy, cuối cùng nặng nề đổ nghiêng về một bên.
Các em xúm lại lượm từng hạt muối bỏ vào ngọn lá, mặc cho tiếng đạn đại bác gầm rú ngang đầu.
Khi đã lượm hết, Tư-dát nói:
- Rút kinh nghiệm ta chia cho chắc chuyện. Tớ đếm rồi, Chia đều mỗi đứa được bảy hạt, hạt nhỏ bù hạt to. Nào ngửa tay ra để tớ phân phối. - Tư-dát đếm cẩn thận từng hạt muối một bỏ phần muối vào lòng bàn tay của mỗi bạn:
- Phần muối của mình, Tư-dát bỏ hết vào lòng bàn tay Đồng, cười nói:
- Phần của tau, tau đền cho mi cái chỗ khuỷu tay bị tươm máu.
5
Chiến khu Hoà Mỹ bị giặc tấn công, vây hãm đã bước sang ngày thứ mười lăm. Đó là một ngày căng thẳng quyết liệt nhất.
Mới tờ mờ sáng, các đỉnh núi còn chìm khuất trong sương, bọn giặc đã bắn đại bác vào các lớp núi dồn dập gần như không phút nào nghỉ. Đất đá bay rào rào, cây cối đổ rầm rầm.
Tám giờ sáng, máy bay phóng pháo ào ào kéo đến hết tốp này đến tốp khác, vòng lượn, gầm rú, trút bom đạn xuống các sườn núi, khe suối mà chúng nghi có quân ẩn náu. Tin tức từ các đài quan sát dồn dập báo về hầm chỉ huy sở: Nhiều toán từ đồi Đồng Nhện, đồi Hai Lăm, vượt sông Ô Lâu sang Hoà Mỹ. Phía bắc Tiền chiến khu, giặc tập trung qưân đông đặc.
Trung đoàn trưởng Hà Văn Lâu ngồi trong hầm chỉ huy đào cạnh gốc một cây kiền kiền đại thụ. Máy điện thoại đặt trong cái hốc khoét sâu vào vách hầm đổ chuông liên hồi. Anh chiến sĩ thông tin trực điện thoại chốc chốc lại đưa ống nghe cho ông: "Báo cáo? Đài quan sát cây Quao báo cáo với anh!".
Qua những báo cáo của cảc đơn vị Trinh sát, Trung đoàn trưởng dự đoán bọn giặc sẽ mở trận tấn công quyết định vào núi trong ngày hôm nay. Giờ tấn công muộn nhất là haỉ giờ chiều. Và ông đã sẵn sàng đón tiếp chúng. Trận địa mìn được bố trí xong vào lúc một giờ sáng. Ba giờ hai mươi phút sáng, ông và một cán bộ tham mưu đến kiểm tra lại bãi mìn lần cuối cùng.
Đài quan sát cây Quao là một trong những đơn vị quyết định sự thành bại của trận địa lôi chiến. Ông ra lệnh bổ sung thêm cho tổ Trinh sát cây Quao hai chiến sĩ nổi tiếng gan dạ của trung đoàn…
Theo kế hoạch của ông, khi bọn giặc vào đến địa điểm quy định, một bãi trống lớn gần dải rừng cây thưa và thấp dưới chân núi Xê-ca Bảy, Đài quan sát cây Quao sẽ gọi điện thoại về hầm chỉ huy. Ông sẽ đích thân ra lệnh nổ mìn.
Quả địa lôi phát lệnh nặng một trăm cân, do công binh xưởng chế tạo bằng một quả bom lép của địch ném xuống Xê-ca Bốn. Quả bom phát lệnh và toàn bộ bãi mìn sẽ được nổ bằng pin điện. Hầm của hai chiến sĩ công binh phụ trách nổ mìn ở cách hầm chỉ huy một tầm gọi.
6
Em Nghi áo đứt hết cúc mở phanh ngực, quần đùi xắn đến bẹn, đầu trần lấm lem đất bùn, tay xách khẩu các-bin, vừa đi vừa chạy về phía Xê-ca Bảy. Em nhảy như một con sơn dương non qua những thân cây đổ ngổn ngang, những hố đạn, hố bom chi chít dọc theo lối đi. Thỉnh thoảng em dừng lại, co chân lên, rút một cái gai dưới bàn chân, vất ra xa với vẻ mặt khinh bỉ.
Em đang có nhiệm vụ khẩn cấp: Mang thư của Trung đoàn trưởng gửi bác sĩ bệnh viện trưởng, yêu cầu cho rút gấp những bộ phận cuối cùng ra khỏi Xê-ca Bảy.
Trận tấn công của giặc vào Xê-ca Bảy trong ngày hôm nay sắp bắt đầu.
Khu vực bệnh viện vắng lặng khác thường. Các lán đều trống không. Nhiều lán đổ sụp, hai mái lán nằm tùm hum trên mặt đất, cột kèo được rút hết làm đòn khiêng cáng bệnh nhân, thương binh.
Phần lớn bệnh nhân, thương binh, y tá, hộ lý đã rút khỏi Xê-ca Bảy, chuyển về chiến khu mới từ hai hôm trước. Lúc này bệnh nhân chỉ còn lại sáu thương binh vừa được chuyển đến đêm qua và sáng nay.
Bác sĩ Thiền, một anh và một chị y tá, một chị hộ lý còn ở lại chăm sóc thương binh. Tất cả được chuẩn bị sẵn sàng để di chuyển. Thương binh được đặt nằm sẵn trên cáng làm bằng đòn tre và vải bạt, chờ người đến cáng đi.
Chỉ riêng trường hợp chị tổ trưởng dân công làm bác sĩ Thiền rất đỗi lo lắng, băn khoăn. Các vết thương quá nặng, chị mất quá nhiều máu, nên không hy vọng gì có thể qua khỏi ngày hôm nay. Nếu cáng đi, chị sẽ chết dọc đường, và có khả năng chết sớm hơn vì các vết thương đang chảy máu bị chấn động. Nhưng nếu để chị ở lại thì phải cử người ở lại săn sóc…
Lúc Nghi bước vào lán đưa thư của trung đoàn trưởng, bác sĩ Thiền vừa tiêm cho chị một mũi thuốc trợ tim.
Trong lúc ông đứng trước cửa lán đọc thư, Nghi đi về phía cuối lán thăm chị tổ trưởng dân công mà hai hôm nay em được nghe cả chiến khu nhắc nhở, bàn tán về tinh thần gan dạ vô song của chị, về cái gùi gạo chị mang trên lưng găm đầy đầu đạn, gạo trộn với máu…
Chị nằm trên cáng, đắp tấm chăn đơn cũ kỹ, đầu gối cái bao tải gấp làm tám, tóc buông loà xoà phủ kín cái tải gối đầu.
Nhờ mũi thuốc trợ tim vừa chích, chị dứt cơn mê sảng, bắt đầu tỉnh lại. Chị mở to mắt nhìn quanh như chưa hiểu mình đang nằm ở đâu.
Khi còn cách chị vài bước, Nghi bỗng đứng sững lại, kinh ngạc kêu lên:
- Ui! Thím?
Nghi nhận ra, chị tổ trưởng dân công lừng danh của chiến khu, chính là mẹ của Mừng. Em đã được gặp chị trong cái đêm chở Mừng về làng Phò thăm mẹ.
Hôm đó, tuy dưới ánh đèn dầu nhập nhoạng, và chỉ nói chuyện với chị có dăm phút, nhưng gương mặt chị có vẻ gì rất khác thường, in sâu vào trí nhớ của em. Nên thoạt nhìn em đã nhận ra ngay.
- Thím không nhận ra cháu à? - Nghi bước đến hỏỉ. - Cái đêm ở làng Phò, cháu đi ngựa đem tin thằng Mừng về cho thím…
Người đàn bà cặp mắt trân trân nhìn Nghi một lúc lâu.
Gương mặt thất thần của chị vụt sống động linh hoạt hẳn lên. Chị làm một cử động như muốn cất đầu dậy, nhưng không sao cất nổi. Chị bất lực, yếu ớt khẽ kêu:
- Cháu là Nghi. Thím nhớ rồi… Rứa em Mừng ở mô, có ở trên chiến khu ni không.
- Dạ có! - Nghi không kịp nghĩ ngợi, buột miệng trả lời.
Ánh mừng rớ tràn ngập gương mặt mất máu của chị:
- Ui chao, rứa thì phúc cho thím quá! Em Mừng có ở gần đây không? Cháu làm ơn làm phước gọi Mừng lại đây cho thím chộ mặt một chút… Thím biết, thím yếu lăm rồi, thím e chẳng còn sống được bao lâu…
Nước mẳt chị bỗng bật trào ra như xuối. Nghi nhìn chị, càng bối rối, em nói tuột luôn:
- Nhưng… chừ hắn không còn là Vệ Quốc Đoàn nữa. Hắn trốn về Huế theo cha hắn làm Việt gian, rồi lại mò lên chiến khu làm gián điệp cho Tây. Chừ hắn đang bị giam ở trại tù chờ ngày đưa ra toà án binh xét xử.
Bác sĩ Thiền kêu to.
- Nghi! - Ông muốn bắt em ngừng lại nhưng không kịp. Ông không lường sự thể đến như thế.
Người đàn bà rùng mình. Ánh mắt chị trở nên_ ngơ ngác, thảng thốt.
- Răng? Cháu nói răng? Thằng con chị đi theo cha hắn làm Việt gian? Chừ đang bị Chính phủ giam tù? Ui chao? Ui chao? Răng mà con dại rứa con ơi!
Giọng chị như trong cơn mê sảng, nghe muốn đứt ruột. Nghi biết mình đã lỡ lời, không còn cách gì chữa lại được nữa.
Em đứng ngây người nhìn chằm chặp gương mặt mẹ Mửng, vừa mới tươi rạng đó, chừ đã nhăn nhúm, tái nhợt vì đau khổ, đầm đìa nước mắt, em cũng muốn oà khóc theo luôn. Môi em run, ấp úng mãi không nói được điều gì.
Chị Niệm thò tay ra ngoài chăn, bíu chặt lấy vạt áo của Nghi, như chỉ sợ em bỏ chạy mất. Chị nói qua nước mắt:
- Cháu đừng giáu thím mà tội thím lăm cháu nờ. Em Mừng có đúng nhừ rứa thì cứ nói cho thím biết… Mà chắc đúng thiệt rồi. Ui chao, hắn tưởng cha hắn là cái thằng Năm Ngựa… Thằng Năm Ngựa cô hồn chuyên giết người ở Huế… Ai còn lạ chi… mà cũng lỗi tại mạ hết, con ơi… - Chị bắt đầu nói lảm nhảm như đang rơi dần vào cơn mê sảng. Cả gương mặt chị vùi trong nước mắt…
Bác sĩ Thiền vội vã sai chị y tá tiêm cho chị một mũi thuốc trợ tim. Chị bất chợt như vừa bừng dậy sau cơn ác mộng. Chị nói với Bác sĩ Thiền, ánh mắt van nài cầu khẩn:
- Xin ông cho tui được gặp thằng con tui… Con tui hắn dại dột quá… ông thương tui, cho tui được chộ mặt thằng con tui trước khi tui nhắm mắt, xuôi tay…
Bác sĩ Thiền hỏi Nghi:
- Cái chú Mừng ấy chừ ở mô rồi!
- Dạ ở trại giam Xê-ca Năm. Sáng ni em cũng và chạy công văn vô đó. Trại giam cũng đang sừa soạn rút khỏi chiến khu.
- Chừ làm răng hè? - Bác sĩ Thiền bối rối tự hỏi.
Nghi như vụt tỉnh trí lại. Em hấp tấp nói:
- Chừ ri anh nì. Anh viết mấy chữ gửi anh Lanh phụ trách trại giam, xin cho Mừng được đến Xê-ca Bảy gặp mạ hắn. Em cũng thân với anh Lanh lắm, em nói thêm vô, chắc rằng anh ấy cũng cho hắn đi.
Bác sĩ Thiền lấy giấy bút viết bức thư ngắn gửi trại trưởng trại giam, trao cho Nghi. Nghi gấp tư lá thư bỏ vào túi khoác khẩu các-bin lên vai, hấp tấp nói:
- Em cố chạy thật mau, may ra còn kịp.
Và em lao ra khỏi khu lán bệnh viện.
Nghi cắm đầu chạy thục mạng về phía Xê-ca Năm, miệng lẩm bẩm: "Lạy trời may ra còn kịp!". Đại bác nổ ầm ầm quanh mình, em cũng không kịp nằm xuống núp. Hơn nửa giờ sau, Nghi đã bước vào cổng trại giam. Khoảng hai chục tù nhân toàn những Việt gian, gián điệp, những binh sĩ phạm pháp, tập họp thành một hàng dài trước sân trại giam. Tất cả đều bị trói, hai tay chắp trước bụng, mặt cúi gằm nhìn đất. Mấy anh lính gác trại giam tay xách súng, ba lô trên vai, chuẩn bị áp giải toán tù rời khỏi chiến khu.
Vừa thoáng nhìn, Nghi đã nhận ngay ra Mừng đứng ở quãng giữa hàng, hai tay bị trói bằng dây điện thoại, chắp trước bụng. Mừng cũng nhận ra Nghi, em khẽ gọi:
- Nghi!
Nghi nghe gọi, nhưng giả bộ làm ngơ, không quay lại.
Nghi đi thẳng đến lán trưởng trại, vừa thở vừa móc túi lấy bức thư đưa cho anh.
Trưởng trại Lanh trạc bốn mươi tuổi, vóc dáng cao lớn, xương xẩu, gồ ghề. Anh đọc bức thư của bác sĩ Thiền trán cau lại, nói:
- Nhưng làm răng được chừ!
Nghi vội đứng thẳng người lên, nói không kịp thở.
- Anh gắng giúp cho thím ấy. Thím ấy bị thương nặng lắm, sắp chết rồi, thím ấy chỉ ao ước chộ mặt con trước khi nhắm mắt. Anh thương thím ấy đã liều chết cứu chiến khu, chớ hắn thì ai mà thương được?
Giọng van nài khẩn thiết của Nghi làm cho người trưởng trại giam vốn có tiếng là lòng sắt dạ lim, cũng phải động lòng.
Anh Lanh nói, mặt vẫn không thôi cau có:
- Anh chẳng tiếc chi, nghĩa tử là nghĩa tận. Nhưng khổ cái là chừ không có người áp giải hắn. Số anh em canh trại còn ít quá chỉ đủ để áp giải cả bọn…
- Hay anh giao hắn cho em. Em sẽ áp giải hắn đến cho mạ hắn gặp, chỉ một lúc em giải hắn về trả các anh.
- Liệu em có áp giải nổi hắn không? Lỡ hắn bỏ chạy ra Hoà Mỹ với tụi giặc thì em làm răng?
- Thì khẩu các-bin đây em để làm chi? - Nghi đưa khẩu các- bin ra trước mắt anh, bấm chốc rút băng đạn ra. - Đây anh coi, băng đạn còn đủ cả chín viên. Hắn mà chạy là em bắn ngay. Mà em bắn chẳng tồi đâu. - Nghi lên đạn khẩu các-bin, chỉ một chùm trái chôm chôm rừng cao vút trên ngọn cây ở góc trái sân trại, nói.
Nghi đặt khẩu súng lên vai, ngắm và bóp cò. Chùm chôm chôm rơi bịch xuống đất, trái văng tung tóe.
- Rứa em phải bảo đảm nghe?
- Hắn mà chạy mất thì em xin thế ngay vô chỗ hắn.
Anh Trưởng trại bước ra giữa sân gọi:
- Tên Mừng đâu?
- Dạ, em đây ạ.
- Mi đi theo đồng chí này lên Xê-ca Bảy có việc gấp. Anh nhìn Mừng với cặp mắt đe doạ, nói tiếp. - Dọc đường mà mi có ý bỏ trốn thì liệu hồn, như chùm trái chôm chôm tê - Anh chỉ chùm trái chôm chôm lăn lóc trên sân.
Chỉ sau hơn mười này sống ở trại giam mà Mừng đổi khác đến không ngờ. Gương mặt em hốc hác, ánh mắt buồn bã, đờ đẫn, cặp môi run run mím chặt. Bộ áo quần kaki ga-bạc-đin nhem nhuốc, lấm lem không còn ra màu sắc gì. Cả con người em toát lên nỗi cam chịu, nhẫn nhục của người biết rằng mình oan uống mà không còn cách gì minh oan được.
Em ngẩng nhìn trưởng trại rồi nhìn người bạn cũ, ánb mắt thảng thốt, dò hỏi. Em cúi vội nhìn xuống đất. Em lặng lẽ, ủ rũ bước ra khỏi hàng. Hai cổ tay bị trói bàn tay chắp trước bụng. Nghi nhìn người bạn cũ với cặp mắt vừa ghê tởm, vừa thương xót.
"Rốp!" Nghi lên đạn khẩu cac-bin, khoá chốt an toàn, cầm ngang khẩu súng chĩa vào sau lưng Mừng. Em ra lệnh, giọng cộc cằn:
- Đi lên Xê-ca Bảy!
Mừng cúi gằm mặt lặng lẽ bước đi, lưng hơi gù xuống, dáng đi quen. thuộc của kẻ tù tội. Nhìn một em bé với đáng đi đó, người rắn lòng nhất cũng thấy mủi lòng. Nghi vụt nhớ lại cái đêm ngồi chung với Mừng trên lưng. ngựa phi về làng Phò thăm mạ. "Bữa ni mình cũng đưa hắn đi thăm mạ mà hắn thì phải trói tay, còn mình cầm súng chĩa vô lưng hắn". Em nghĩ vậy và nỗi giận, thương trào lên nghẹn cổ, làm em cũng trở nên lặng lẽ, lầm lì.
Đi qua khỏi dốc núi, Mừng hỏi không ngoái đầu lại.
- Cậu. Anh - (Quen miệng, Mừng buột gọi Cậu, nhưng em chợt nhớ ra mình bây giờ không được phép gọi người bạn cũ là cậu, nên vội chữa là Anh) dắt tui lên Xê-ca Bảy có việc chi?
- Cho mạ mi gặp mi!-
Mừng sững sờ quay lại, lắp bắp hỏi:
- Mạ tui? Mạ tui?… Anh đừng nôi dối mà tội tui. - Hai mắt Mừng tự đưng nhòe ướt.
- Thì đúng là mạ mi… Tau thèm nói láo làm chi?
- Nhưng làm răng mạ tui ở trên chiến khu được?
- Mạ mi làm tổ trưởng tổ dân quân gánh gạo tiếp tế cho chiến khu. Cơn mi ăn bữa ni là gạo mạ mi đưa lên đó. Tây hắn bắn mạ mi bị thương nặng lắm. Rứa mà mi theo Tây làm Việt gian.
- Ui chao, mạ ơi! Mạ! - Mừng bật kêu to rồi quay đầu vùng chạy, Nghi hớt hải lao đuổi theo.
Hai tay Mừng bị trói nên chạy được một quãng, vấp phải rễ cây nằm. gồ lên mặt đát, em mất đà ngã vập mặt xuống đất.
Mũí em trúng phải hòn đá, máu cam chảy loà lện. Em muốn đứng dậy chạy tiếp, nhưng không chống tay được để lấy dà đứng dậy. Nghi phải cúi xốc vai gỉúp Mừng đứng lên. Mừng đưa lưỡi liếm máu chảy tràn xuống môi, vừa khóc vừa nói:
- Anh cởi trói cho tui với, tui mới chạy mau được. Anh ơi, tui sợ không tới kịp…
- Nhưng lỡ mi chạy trốn thì răng?
Tui còn biết chạy trốn đi mô?
- Trốn xuống Hoà Mỹ theo Tây. Chừ Tây đang ở đầy dưới đó!
- Tui đời mô theo Tây. Anh cũng nghi tui là Việt gian thiệt?
- Cả chiến khu ni ai chẳng biết mi là Việt gian.
- Ui chao, răng mà tui khổ ri trời ơi? - Mừng kêu to, loạng choạng ngồi sụp xuống đất như bị ai phang một gậy trúng giữa đỉnh đầu - Rứa thì chừ tui còn biết kêu ai! - Mừng nức nở, nước mắt đầm đìa hai má.
Nghi cởi trói cho Mừng. Hai tay được tự do, Mừng đứng bật dậy, vừa quệt nước mắt vừa nói:
- Chạy mau anh! Chạy mau cho tui được gặp mạ tui.
Hai em chạy đến một ngã ba. Cả hai đường đều đến được Xê-ca Bầy. Đường rẽ trái gần hơn, nhưng phải vòng qua đài quan sát cây Quao. Cả lối mòn phơi mình dưới mưa đạn đại bác và súng cầu vồng, và các loại đạn bắn thẳng của giặc. Con đường rẽ trái lấp bên kia sườn núi, xa hơn nhiều nhưng an toàn hơn. Cả hai lối Mừng đều thuộc lòng, em rẽ lối trái. Nghi chạy sau, quát to:
- Không đi đường đó? Quay lại!
Mừng quay lại, ngạc nhiên hỏi:
- Đường ni gần hơn mà anh?
- Nhưng chạy xuống Hoà Mỹ cũng gần!
Cặp mắt Mừng vụt lóe ánh giận dữ. Nhưng em không cãi lại. Em nhẫn nhục quay lui, rẽ sang lối phải. Em cắm đầu chạy, chân không bén đất, Nghi theo được Mừng gần đứt hơi, nhưng em không gọi Mừng chạy chậm lại, cứ ráng sức đuổi theo.
"Chừ hắn là thằng Việt gian, đời mô chịu để cho hắn biết mình chạy thua hắn!". Em nghĩ vậy.
7
- Mạ ơi! Mạ! Mạ! Con đây mạ! - Từ ngoài cửa lớn, Mừng chạy ào vào, kêu to thất thanh.
Tiếng gọi mạ của người chiến sĩ thiếu niên không may gặp phải chuyện oan khuất, có một âm sắc xé lòng, đến nỗi ba mươi năm sau, bác sĩ Lê Khắc Thiền còn nói: "Mỗi lần tôi bất chợt nhớ lại tiếng gọi mạ của em người tôi cứ nổi hết gai ốc!".
Từ lúc Nghi xách súng chạy ra khỏi lán, chị tổ trưởng dân công mắt cứ mở trân trân nhìn ra phía cửa lán, người chị gần như bất động. Cả gương mặt chị, từ ánh mắt, từ làn da ngả dần sang màu sáp trong, từ vầng trán xâm xấp mồ hôi, cặp môi héo hắt, ngầm ngập nỗi chờ khắc khoải đến kinh khiếp.
Và như kiệt sức vì đợi chờ, chị bắt đầu rơi vào tình trạng hôn mê. Có lẽ lúc này thần chết đang níu kéo chị, và chị tuyệt vọng, bất lực, cố sức trụ lại. Bàn tay chị bíu chặt thành cáng, như người sắp chết đuối bíu chặt mảnh ván thuyền.
Mừng ngồi thụp xuống bên cáng, ôm chùm lấy đầu mẹ, lay lay gọi chuyển động cả gian lán.
- Mạ! Mạ! Mạ tỉnh lại đi! Con đây mà mạ!
Mặt em cúi gần chạm mặt mạ, vừa gọi vừa khóc như mưa như gió. Nước mắt em nóng hổi, lã chã rơi xuống mặt mạ. Có lẽ tiếng lay gọi và những giọt nước mắt nóng bỏng của con trai đã giúp người mẹ vùng ra khỏi cáng tay siết chặt, níu kéo của thần chết. Chị vụt mở bừng mắt, nhìn con trân trân. Chưa bao giờ chị nhìn mặt con sát gần đến như thế. Hình như chị vẫn chưa dứt khỏi cơn mê sảng, có thể chị tưởng là nhìn thấy con trong mơ. Và trí nhớ chị như vụt hồi phục. Cặp mắt chị sống động hẳn lên. Chị đưa hai tay ôm mặt con, kéo sát gần hơn nữa, rồi đẩy ra xa một chút để nhìn cho được rõ. Miệng chị nửa như cười, nửa như mếu. Chị nói, giọng tỉnh táo khác thường:
- Con đó à Mừng? Rứa là mạ đã được chộ mặt con…
- Ui chao, đời mạ răng mà rủi ro đau đớn đến nước ni, con ơi! Mạ nghe nói con đi theo thằng Năm-ngựa làm Việt gian… Con dại dột quá con ơi… Nhưng cũng do lỗi tại mạ hết… Con hư tại mạ… Chừ mạ sắp nhắm mắt, xuôi tay, mạ phải nói rõ đầu đuôi đời mạ, đời con, cho con biết. Thằng Năm-ngựa không phải cha con mô. Quê mạ con mình tận ngoài Quảng Trị tê. Cha con rủi chết từ lúc mạ có mang con được ba tháng. Cha, mạ thương nhau hung… lỡ ăn nằm với nhau mà chưa kịp cưới xin. Cha con bệnh nặng, nghèo quá không có tiền thuốc thang nên phải chết. Mạ đành mang tiếng gái chửa hoang. Xấu hổ ê chề, mạ bỏ trốn khỏi làng, lần mò vô thấu Huế, tìm đường sinh sống, chờ ngày sanh con. Mạ tứ cố vô thân, khờ dại quá, không biết làm chi ngoài việc hàng xéo, hàng xay. Mạ đi ăn mày ăn xin thì mạ không quen. Nhiều lúc mạ đã định nhảy xuống sông trầm mình cho xong một đời, nhưng nghĩ đến giọt máu cha con để lại trong bụng mạ, nên mạ phải gẳng gỏi sống mà đợi ngày… Rồi đến bước cùng quẫn quá, mạ đành phải bán thân nuôi miệng, làm gái đĩ trên sông… Bởi rứa mà có lần con chạy chơi mô vể, con kêu: "Con đĩ! Con đĩ ". Mạ thất sắc hết hồn: Mạ sinh con, đem gửi con cho mệ Lạp dưới làng Phò, thuê mệ trông nom nuôi nấng con. Tháng tháng được đồng mô mạ gom góp đưa hết cho mệ trả tiền công nuôi dưỡng con… Mệ Lạp mà con tưởng là mệ ngoại con đó. Năm con hơn một tuổi, chập chững tập đi, thì mạ gặp thằng Năm-ngựa là đứa du côn chuyên nghề đâm thuê chém mướn. Hắn lăn lóc say mê chút nhan sắc thừa của mạ, xin bỏ tiền chuộc ra khỏi tay mụ trùm, cưới mạ làm vợ. Mạ giao hẹn với hắn: Nếu anh chịu nhận thằng con tui là con đẻ của anh, thì tui xin theo không anh, chẳng cần cưới hỏi làm chi. Để con tui được có cha. Tôi xin suốt đời hầu hạ anh như đứa ở, anh muốn hành hạ chi tui cũng xin chịu… Mạ sợ con lớn lên, biết mình không có cha, con tủi hổ với bạn bè. Hắn lấy mạ, rồi đánh đập hành hạ mạ, như răng thì con biết rồi… Hắn là đứa giết người không gớm tay, là đồ bạc ác bất nhơn. Róc xương róc tuỷ mạ. Hắn đòi chi mà mạ không kịp cho thì hắn doạ: "Tao sẽ nói cho thằng con mi biết tao không phải là cha hắn, mà mi là đồ con đĩ. Con mi hắn sẽ khinh mi như con chó!".
Kể đến đó, môi chị bỗng run rẩy, láp bắp cái gì đó không thành tiếng, và nước mắt bật trào chảy như xối. Chị cầm lên một. mớ tóc chùi nước mắt, rồí níu mặt con sát gần mặt mình, kể tiếp:
"… Rồi hắn bỏ đi lấy vợ khác, mà vẫn không thôi quay về hành hạ mạ, róc xương róc tuỷ mạ. Mạ phải mang nợ hắn suốt đời con ơi. Hắn cướp cả đôi bông tai vàng một chỉ mà mạ để dành để dụm, để sau ni cưới vợ cho con… Rồi mặt trận Huế bùng nổ, con trốn nhà đi Vệ Quốc Đoàn. Mạ cứ tưởng con chết sông chết hói, mạ đã định ra sông trầm mình mà chết theo con. Mạ sống là vì con. Mạ phải chịu trăm cay nghìn đắng, nhục nhã ê chề, lút mày lút mặt cũng vì con. Con mà chết rồi thì mạ còn biết sống làm chi. Rồi mạ hay tin con đi Vệ Quốc Đoàn, mạ mừng biết mấy. Con theo chánh phủ, theo kháng chiến, đời con rứa là được nên người. Mạ trông ngày trông đêm cho mau đến ngày nước nhà độc lập, cho mạ con mình được gặp nhau. Rồi bể mặt trận… Vệ Quốc Đoàn ta chạy tứ tán, mạ không biết con còn sống hay chết, con còn theo Vệ Quốc Đoàn hay thất lạc đi mô… Mạ gánh gánh bún trên vai, bán mua đắp đổi qua ngày, đi. hết làng này qua làng khác từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh, cốt để dò la tin tức con. Mạ đến làng mô, họ cũng nói: "Chị muốn tìm Vệ Quốc Đoàn thì phải lên côi xanh(1) mà tìm". Rứa là mạ xin đi tiếp tế các chiến khu - Tỉnh Thừa Thiên mình có bao nhiêu chiến khu mạ đều có đến hết. Nhưng mạ chẳng thấy tăm dạng con mô. Mạ đang ở dưới Thệ Chí thì nghe tin chiến khu Hoà Mỹ giặc nhẩy dù, bao vây chiến khu, Vệ Quốc Đoàn ta cạn lương sắp chết đói. Mạ liền đôn đáo chạy tới xin các anh du kích, cho mạ đi tiếp tế gạo, muối. Bom rơi đạn nổ mạ cũng liều… chỉ có chiến khu Hoà Mỹ là mạ chưa tới, chưa chừng con mình hắn đang theo Vệ Quốc Đoàn, đánh giặc trên đó… Mạ nghĩ rứa mà mạ bị Tây bắn nát chân, thủng bụng; mạ cũng gắng gùi gạo bò lết cho thấu chiến khu, con ơi". Rứa mà chừ mạ được gặp con thì té ra con đi làm Việt gian, bị Chánh phủ giam tù. Ôi chao, đau lòng mạ quá con ơi! Biết nông nỗi ni thì mạ đừng gặp con còn hơn!…
Giọng chị vụt nghẹn tắc. Một nỗi đau đớn khủng khiếp chẹn ngang cổ chị. Cả người chị bỗng rung lên lẩy bẩy như con cá nằm trên thớt bị một lát sống dao giữa đỉnh đầu. Mấy vết thương ở bụng chị máu lại ộc ra rịn thấm qua tấm chăn đắp. Chị co giật liên tiếp rồi tay chân duỗi thẳng, đầu ngật sang một bên, bất động.
Bác sĩ Thiền và mấy chị y tá, hộ lý xúm lại quanh chị, định tiêm thuốc cấp cứu. Bác sĩ Thiền vạch mi mắt chị, nhìn rồi lắc đầu:
- Muộn mất rồi!…
Chị đã trút hơi thở cuối cùng.
Mừng hai tay ôm chặt lấy đầu mạ, mắt nhìn trân trân không chớp. Cả người em như chết lặng, nét mặt ngơ ngác, hoảng loạn. Rồi em như vụt hiểu ra: Nỗi khủng khiếp nhất đời em đã điểm?
Miệng há to, đôi mắt sưng vù vì khóc, cặp môi run bần bật, em bỗng thét to đến bất ngờ:
- Mạ! Mạ. Không phải! Không phải! Con không phải Việt gian! Con là Vệ Quốc Đoàn! Mạ ơi!
Tiếng kêu thét của Mừng có một âm hưởng xé ruột, làm mọi người rởn hết gai ốc.
Em sà vào ngực mạ, ôm đầu mạ nâng khỏi cái gối bao tải. Em vừa lay lay đầu mạ vừa ngó mặt mạ với ánh mắt đau đớn đến điên dại. Em vừa khóc vừa kêu la tuyệt vọng, lặp đi lặp lại một câu:
- Con không phải Việt gian! Con là Vệ Quốc Đoàn!
Những người đứng chung quanh đều nước mắt ngắn dài.
Nỗi đau đớn đến điên dại và tiếng kêu la tuyệt vọng của Mừng, làm cho mọi người trong khoảnh khắc vụt có ý nghĩ: "Hay là nó bị nghi oan thật? Có lẽ nào sự giả trá lại biểu hiện được một nỗi đau đớn kinh khiếp đến như vậy?. Nhưng mọi người không kịp nghĩ thêm gì nữa, vì đạn đại bác giặc đã bắn chuyển làn. Đạn mỗi lúc rơi một dồn dập xuống khu vực quanh bệnh viện. Tiếng gầm rít của phi cơ phóng pháo giặc, xé ngang cắt dọc bầu trời chiến khu. Không thể nấn ná thêm được nữa, phải rút ngay khỏi khu vực bệnh viện như chỉ thị của trung đoàn trưởng.
Các anh chị y tá, hộ lý, bác sĩ Thiền, cả em Nghi cùng xúm lại đào huyệt để mai táng mẹ của Mừng. Huyệt đào dưới gốc cây vả rừng lưng dốc núi, kề bên ngôi lán cuối cùng. Chính cây vả rừng này em Quỳnh vẫn thường ra hái lá để viết vở nhạc kịch kể chuyện Mừng đi tìm thuốc cho mạ.
Xác chị tổ trưởng đân công anh hùng được bọc trong chiếc chăn đơn cũ kỹ loang lổ chính máu chị. Mừng như đã hoá điên, cứ ôm chặt lấy xác mẹ, không cho mang đi chôn. Mọi người phải gỡ em ra, ôm chặt lấy em, mới đưa được xác chị.
Xác chị vừa được đặt xuống đáy huyệt, Mừng đã vùng vẫy thoát ra khỏi tay người ôm giữ. Anh y tá phải kêu lên: "Nó khỏe cách chi trời ơi!".
Mừng nhào xuống đáy huyệt, ôm chặt xác mạ, nức nở kêu gào:
- Con không phải Việt gian! Con là Vệ Quốc Đoàn mạ ơi!
Mọi người phải khó nhọc mới kéo được em lên để lấp đất.
Nghi vừa quệt nước mắt, vừa nói với Mừng:
- Chừ mi phải về, không các anh chờ.
Nghi khoác súng vào vai, cầm tay Mừng lôi kéo mếu máo, van vỉ:
- Đi! Đi! Mi đi cho tau nhờ với! Tau đã xin cho mi đi gặp mạ, chừ mi phải biết thương tau…
Mừng như người mất hồn, lảo đảo bước theo bạn.
Đại bác nổ rất gần, em cũng chẳng buồn cúi núp.
Mỗi lần nghe tiếng đạn rít xèo xèo, Nghi phải chụp tay Mừng, kéo nằm rạp xuống tránh đạn.
Nghi nổi xung, gắt um:
- Mi phải núp chứ, lỡ trúng đạn thì làm răng?
Mừng khóc hu hu:
- Chừ tui núp mà làm chi! Cho hắn bắn chết quách tui đi cho rồi!
Máy bay giặc bắt đầu bắn và dội bom xuống cánh rừng hai em đang băng qua. Khắp bốn phía núi ùn ùn dựng lên các cột khói còn cao hơn cả ngọn cây rừng cao nhất. Núi lay, cây đổ, đất đá từng tảng lớn quăng ngược lên trời. Mửng vẫn cứ bước đi lừng lững như không hề nghe thấy gì. Em nói như trong cơn mê sảng:
- Con mang phải tiếng xấu Vìệt gian. Chừ mạ cùng chẳng tin con… Mạ ghét con… Mạ nói thà mạ đừng gặp con còn hơn… Con làm răng nói cho mạ biết được chừ…
Đi đến chỗ ngã ba, một quả bom đen chũi lao xuống ngay sườn núi trước mặt. Nghi hoảng hồn, nhào xuống một cái hố đại bác cạnh lối đi. Núi rung lên, lở ào. Một thân cây bằng người ôm bị mảnh bom phạt đứt đổ nằm ngang trên miệng hố.
Em không núp nhanh chắc đã bị thân cây đè chết. Em chưa kịp ngẩng đầu lên, một loạt đạn đại bác đã nổ rầm rầm xung quanh.
Dứt đợt nổ, Nghi nhảy lên miệng hố thì Mừng đã biến mất.
Chú thích:
(1) Trên núi
8
Trong lúc Nghi còn năm dưới hố đạn tránh bom Mừng như vụt bừng tỉnh cơn mê sảng, cắm đầu chạy lộn lại phía Xê-ca Bảy, theo con đường vòng qua đài quan sát cây Quao. Em chạy như trong cơn mê, không chú ý đến tiếng bom đạn gào rú quanh mình. Con đường lúc này bị bom đạn cày nát, ngổn ngang những cây đổ, những đất đá sụt từ đỉnh núi xuống chắn ngang lối đi. Em vọt qua, chui qua, trèo qua, không một chút ngập ngừng, ngạc nhiên, tưởng như em đã từng qua lại trên con đường như thế cả trăm lần rồi.
Nhưng khi chạy đến chân đài quan sát cây Quao, em phải đứng sững lại. Quang cảnh bày ra trước mắt em kinh hoàng, dữ dội đến nỗi em phải đứng chết lặng, miệng há hốc như con cá bị lôi lên khỏi mặt nước. Quanh gốc cây chân đài quan sát, đất đá rễ cây, bị cày nát, xé tướt, lá tươi rụng rào rào như mưa. Nằm quanh gốc cây là năm xác người. Ba xác các bạn Châu, Hiền, Hoà-đen, và hai anh lớn. Các anh, các bạn nằm lẫn lộn với lá tươi rụng, cành cây gãy, rễ cây bị xé nát.
Tất cả áo quần của năm người đều ướt sũng máu. Châu-sém bị trúng đạn đum đum, bụng mở phanh. Hiền bị đạn vào ngực. Hoà-đen bị mảnh bom phạt cụt một chân. Bạn nào cũng nằm chết trong tư thế co quắp, đầu và thân hình bị dập nát vì ngã nhào từ trên ngọn cây chót vót xuống đất. Em nhìn trật sang cái thang tre, thấy đội trưởng nằm dựa đầu vào nấc thang cuối cùng, và chỉ còn một cánh tay. Hình như anh vừa đặt chân trèo lên thang thì bị trúng đạn.
Tít trên cao, chỗ đặt đài quan sát, chuông điện thoại đổ dồn leng keng không ngớt.
Mừng chạy xô lại, áp tai vào ngực đội trưởng thấy tim anh vẫn còn thoi thóp đập. Em túm tóc mai anh giật giật, lay gọi anh. Anh hồi tỉnh, mở bừng mắt nhìn em đăm đăm.
- Mừng đó à, răng em lại ở đây?
- Mẹ em chết rồi. - Mừng nức nở cố nén không khóc. - Mẹ em cũng nghi em là Việt gian. Chừ em phải đến chỗ mẹ em… Em phải nói răng cho mẹ em đừng nghi em nữa…
Tiếng chuông điện thoại từ trên ngọn cây vẫn leng keng dội xuống từng hồi, hối thúc, cấp bách… Cặp mắt đội trưởng vụt sáng lên mừng rỡ. Anh nói như reo:
- Đã nối được đường dây rồi! Mừng. - Đội trưởng gọi và giọng anh trở lại giọng người chỉ huy lúc ra lệnh chiến đấu. - Em trèo mau lên ngọn cây cầm ống nghe báo cáo với Trung đoàn trưởng: Cách đây hai mươi phút đài quan sát bị địch phát hiện. Chúng tập trung hoả lực tiêu diệt đài quan sát. Đường dây bị đứt. Anh chạy đi nối lại được đường dây, về đến chân thang thì bị trúng đạn đại bác… Em chú ý quan sát, lúc thấy toán địch đi sau cùng, qua khỏi bãi trống thì báo ngay cho trung đoàn trưởng biết. Em nhớ rõ chưa?
Đội trưởng chưa kịp nghe Mừng trả lời thì đã ngất đi, mê man… Mừng vùng đứng ngay dậy. Tất cả vẻ ủ rũ, đau đớn, tuyệt vọng trên toàn bộ con người em, thoắt biến mất. Em lúc này đã trở lại tư thế quyết liệt của người chiến sĩ quyết tử lúc nghe vang lên tiếng kèn xung phong trận.
Tiếng máy bay gầm rú trên ngọn cây. Đạn đại bác và các loại súng cầu vồng nổ chát chúa quanh chân đài quan sát.
Súng bắn thẳng bẻ, xé các cành cây trên đỉnh đài, tuốt lá tươi ném tới tấp xuống đầu cổ em, xuống xác các đồng đội đang nằm ngổn ngang quanh em. Mảnh đạn, đạn cháy, đạn đum đum, mảnh bom, bay rít quanh em như ong vỡ tổ. Và nổi bật lên tất cả là tiếng chuông điện thoại từ trên đỉnh đài quan sát đổ hồi leng keng không ngớt.
Tất cả những cái đó, cùng một lúc đã làm cho khí phách chiến sĩ lúc xung trận trong em bừng sống dậy, với tất cả sức mạnh tinh thần của nó: Nó chiếm lĩnh toàn bộ con người em, từ mỗi thớ thịt, mỗi nhịp tim đập.
Em thoăn thoắt trèo ngược các bậc thang tre cao ngất nghểu, cố chiếm lấy đỉnh đài quan sát trước khi bị địch bắn hạ. Khi chỉ còn cách chỗ cành cây đặt máy điện thoại mấy nấc thang cuối cùng, em bỗng lạng người, suýt ngã lộn nhào xuống đất. Một bên hông em buốt nhói ghê gớm. Em cúi nhìn thấy vạt áo bên hông trái đầm đìa máu. Nhưng em gắng hết sức để không ngã. Trèo nốt những nấc thang cuối cùng lên đến chạc ba cây, và chụp lấy cái ống nghe điện thoại.
9
Trong hầm chỉ huy, trung đoàn trưởng đã gần như tuyệt vọng. Ông nghe điện thoại áp sát tai, ông đã gọi suốt hai mươi phút liền vẫn không nghe tiếng đài quan sát cây Quao trả lời, chỉ có tiếng nổ lục bục liên hồi vang dội trong ống nghe.
Tiếng đạn nổ. Ông chắc bọn địch đã đánh vào đài quan sát và các chiến sĩ trinh sát phụ trách đài đã bị giết. Hai cán bộ tham mưu ngồi cùng hầm với ông, đã được ông cử đến tăng viện cho đài quan sát mười lăm phút trước đây. Nhưng ông không hy vọng lắm họ có thể đến nơi. Ông biết con đường đến đài quan sát đang bị bọn địch tập trung đánh phá dữ dội.
Trong hầm lúc này chỉ còn một mình ông. Ở hầm bên cạnh, anh chiến sĩ công binh phụ trách nổ mìn, vài phút lại hỏi vọng sang:
- Đã sắp chưa anh?
Ông càng thêm cháy ruột cháy gan. Mất liên lạc với đài quan sát, trận địa mìn sẽ như người khổng lồ mù mắt, nó có thể dồn tất cả sức mạnh khủng khiếp của nó đánh vào chỗ trống không.
Vừa lúc đó, trong ống ghe bỗng vang lên giọng trẻ con:
- A lô! A lô Trung đoàn trưởng, trung đoàn trưởng!
Ông mừng đến nghẹn thở:
- Làm sao hai mươi phút qua im bặt thế?
- Dạ, đài quan sát bị đánh. Cả tổ quan sát hy sinh rớt hết xuống chân đài.
- Đội trưởng đâu?
- Dạ, đội trưởng cũng hy sinh rồi, nằm dưới chân thang.
- Thế em là ai?
- Dạ em là thằng Mừng…
- Mừng?… Có phải chú Mừng…
- Dạ, em bị cả chiến khu nghi là Việt gian… Em bị bắt giam ở Xê-ca Năm… Bất thình lình em chạy qua đây. Đội trưởng giao nhiệm vụ cho em.
- Hiện lúc này em có làm sao không?
- Dạ, tụi địch đang bắn vô đàỉ quan sát dữ lắm. Em bị thương ở hông, ở chân. Nhưng em vẫn quan sát được.
- Bọn địch đã vào đến bãi trống chưa?
- Dạ, tụi đi đầu mới bắt đầu vô. Đi trước có toán người rất đông không mang súng, chỉ mang vác các hòm đạn…
- Dạ toán tiếp theo toàn Tây đen, Tây trắng, đi hàng bốn.
- Dạ toán đi giữa đang đi thì đứng lại, chỉ chỏ cái chi đó…
- Tụi hắn không đi mà nằm lại hai bên đường chĩa súng vô núi bắn rầm rầm.
- Dạ, toán cuốì cùng rất đông… - Giọng báo cáo bỗng tắt lại có đến nửa phút. - Dạ, tụi hắn đã vô hết bãi trống…
Trung đoàn trưởng đứng dậy trong hầm chỉ huy hô to:
- Nổ mìn.
Một tiếng nổ làm rung cả ngọn núi ông đang ngồi và tiếp liền đó là hàng trăm tiếng nổ tlếp theo như sấm sét, trùm lấp cả tiếng máy bay, tiếng đại bác giặc. Trung đoàn trưởng thét lên trong ống nghe:
- A lô! A lô! Em Mừng! Em Mừng!
Không có tiếng trả lời.
Ông gọi lại:
- Mừng! Mừng! Em còn trên đó không?
Tiếng người chiến sĩ thiếu niên trinh sát bỗng đột ngột vang lên bên tai ông, yếu ớt nhưng rành rọt lắm:
- Dạ em đây. Tụi Tây chết nhiều lắm. Em bị thương nặng.
- Mừng! Mừng!
- Anh ơi, anh đứng nghi em là Việt gian nữa anh hí!
Lời cầu xin khẩn thiết cuối cùng của người chiến sĩ thiếu niên vừa tròn mười ba tuổi đời, yếu ớt và nhỏ gần như một hơi thở, nhưng trong khoảnh khắc ấy đã trùm lấp cả tiếng bom đạn giặc, và cả tỉếng sấm rền của trận địa mìn đã làm tanh bành hơn hai đại đội giặc.
***
Cuộc tấn công tổng lực của giặc vào chiến khu Hoà Mỹ đả hoàn toàn bị bẻ gẫy. Nỗi kinh khiếp trận địa lôi chiến làm bọn giặc ngày đêm hôm đó dạt sang bên kia bờ sông Ô Lâu.
Cũng đêm hôm đó. toàn bộ chiến khu đã rút khỏi vùng rừng núi Hoà Mỹ, dời thẳng về Dương Hoà một vùng đất đai núi non nằm dọc bên tả ngạn thượng nguồn sông Hương. Và làng Dương Hoà trở thành chiến khu Dương Hoà, chiến khu đầu não của tỉnh Thừa Thiên.
Trước giờ lên đường vể chiến khu mới, những đơn vị rút lui cuối cùng đã làm lễ mai táng cho các chiến sĩ trinh sát phụ trách đài quan sát cây Quao. Họ đào huyệt chôn các em, các anh, gần chân đài quan sát.
Riêng em Mừng, trung đoàn trưởng cho đưa thi hài em chôn bên cạnh mẹ em dưới bóng cây vả rừng cổ thụ. Cây vả rừng mà Quỳnh-sơn-ca thường hái những ngọn lá ngả màu vàng chanh làm giấy chép nhạc, viết vở nhạc kịch mộng tưởng của đời mình, kể chuyện bạn Mừng đã trèo tuốt tất cả những đmh cây cao của thành phố quê hương để tìm thuốc về chũa bệnh cho mẹ.
Ngọn núi có cây vả rừng cổ thụ từ trước đến nay không có tên. Trong bản đồ tham mưu được ghi là đỉnh Chín Sáu. Sau đêm hôm đó, ngọn núi đã được có tên:
Núi-Mẹ-Con-Em-Mừng.
Hết Khởi thảo bên bờ Hồ Tây năm 1968
Hoàn thành trong lều cỏ giữa hồ Tịnh Tâm năm 1986.
PHÙNG QUÁN
Nguồn: Nhà xuất bản Văn Học -2003
Chịu trách nhiệm bản thảo: Nguyễn Cừ