Nhắc lại Lục-phỉ-Thanh và Lý-mộng-Ngọc núp bên trong cửa sổ xem trận giao phong giữa Dư-Ngư-Đồng cùng với bọn Ngô-Quốc-Đống từ đầu cho đến lúc Đổng-Triệu-Hòa bày kế cho Phùng-Huy dùng tên bắn thì nhận thấy Dư-Ngư-Đồng mười phần nguy ngập. Lục-Phỉ-Thanh bèn dùng Phù-Dung kim châm phóng trúng cườm tay của Trương-Thiên-Thọ khiến cho hắn phải buông rơi thanh quỷ đầu đao đang định nhắm vào đầu Dư-Ngư-Đồng bổ xuống. Cùng lúc đó, phi đao của Lạc-Băng cũng bay tới kết liễu luôn tánh mạng của tên bổ khoái phủ Lan-Châu trong nháy mắt. Ngô-Quốc-Đống biết trước đánh nữa thì có mòi chết hết nên ra sức ráng cõng Hàn-Xuân-Lâm mà tẩu thoát.
Lục-Phỉ-Thanh trong lòng mừng thầm vì thấy Dư-Ngư-Đồng, đứa học trò của sư-huynh Mã-Chân, và Lạc-Băng, đứa con gái của bạn cố-tri Lạc-Nguyên-Thông, tất cả đều thoát được đại nạn.
Tưởng mọi việc êm, ai ngờ đâu Trương-Siêu-Trọng từ đâu xăm xăm từ ngoài ngõ đi vào. Lý-Mộng-Ngọc vừa trông thấy y liền lập tức gọi Lục-Phỉ-Thanh chỉ và nói:
-Thầy à! Chính người này tối hôm qua giựt lại cái bao màu hồng con định cướp lại trả cho Tiêu-Thanh-Đồng đó! Thầy có nhận được là ai không?
Lục-Phỉ-Thanh ‘á’ một tiếng vì kinh hãi, nhưng lại nghĩ ngay được một diệu kế liền rỉ tai Lý-Mộng-Ngọc một hồi rồi mới căn dặn:
-Con dùng cách này mà dụ hắn ra khỏi nơi đây, càng xa càng tốt! Lúc con trở về mà không thấy thầy thì sáng ra con cứ theo đoàn xa kiệu mà hộ tống gia-quyến lên đường chứ đừng lo gì cho thầy cả. Đương nhiên thầy sẽ ngầm theo sau mà đề phòng những biến cố. Mau lên!
Lý-Mộng-Ngọc định hỏi nữa thì Lục-Phỉ-Thanh thúc-giục:
-Hắn vào tới sân rồi, con mau lên đi, chậm trễ thì không kịp nữa đâu!
Lý-Mộng-Ngọc còn đang phân vân chưa biết dụ Trương-Siêu-Trọng bằng cách nào bỗng sực nhớ ra mình có một cái khăn màu hồng ở trong mình giống như cái túi màu hồng đựng Khả-Lan-Kinh nên vội vàng lấy ra. Đồng thời, nàng lại nhìn thấy hai cuốn sổ của khách-sạn An-Viễn nằm trên bàn của biên bút toán, Lý-Mộng-Ngọc liền quơ lấy gói vào trong chiếc khăn hồng của nàng gói lại mang lên vai chạy vụt ra khỏi cửa. Nhờ thông-minh, lanh lợi, lại có bản-lãnh vừa đủ, Lý-Mộng-Ngọc đã dẫn dụ được Trương-Siêu-Trọng đuổi theo nàng cho đến lúc y biết mình bị gạt bẽn lẽn trở về.
Sở dĩ Lục-Phỉ-Thanh sai Lý-Mộng-Ngọc làm công việc này là vì đã lâu ngày làm thầy bên cạnh nàng, nên biết rõ đứa nữ đệ-tử của mình thông-minh có thừa, sẽ nghĩ được nhiều ngụy kế, biết tùy cơ ứng biến khi gặp lúc lâm nguy. Như vậy, dù cho sư-đệ của ông ta là Trương-Siêu-Trọng võ-nghệ có cao cường đi chăng nữa cũng khó làm gì được Lý-Mộng-Ngọc. Hơn nữa, Trương-Siêu-Trọng lại biết Lý-Mộng-Ngọc là sư-điệt của mình dù lầm tưởng nàng là đệ-tử của đại sư-huynh Mã-Chân
(#1), vì vậy, cho dù có bắt được Lý-Mộng-Ngọc, y chắc cũng vị tình đồng môn mà chỉ sửa trị qua loa thôi chứ không đến nội làm hại đến tánh mạng của nàng.
Thêm vào đó, cho dù không nể mặt sư-huynh đồng môn đi chăng nữa, nhưng một khi biết Lý-Mộng-Ngọc là ái-nữ của Lý-Khả-Tú tướng-quân, một tướng lãnh được vua Càn-Long sủng ái tin dùng thì chắc chắn Trương-Siêu-Trọng cũng không dám đụng đến một cọng lông chân của nàng. Căn cứ vào quan chức triều đình, Lý-Khả-Tú còn trên Trương-Siêu-Trọng đến hai bậc, lẽ tất nhiên y buộc lòng phải nể sợ chứ không dám gây thù oán.
Và Lục-Phỉ-Thanh còn biết rõ cả tính khí của Trương-Siêu-Trọng nữa. Dù gì thì bình sinh y cũng rất cao ngạo, chẳng bao giờ đụng chạm đến đàn bà con gái cả vì nghĩ rằng thắng được họ cũng không lấy gì làm vinh, nhưng rủi mà bại thì tên tuổi chỉ có nước mà chôn vùi mà thôi. Do đó, ông tính trước được nước hạ sách là Trương-Siêu-Trọng có thể sẽ bắt được Lý-Mộng-Ngọc, nhưng khi khám phá ra nàng là nữ thì sẽ cười xòa rồi bỏ qua để tránh cái tiếng là đi uy hiếp một con bé vào hàng con cháu mình.
Hiểu rõ được cả tâm-lý của Lý-Mộng-Ngọc và Trương-Siêu-Trọng, ông mới quyết định nhờ đứa nữ đệ-tử của mình thi hành mưu kế này mà không sợ nguy hiểm đến tánh mạng của nàng. Nhưng có một điều mà Lục-Phỉ-Thanh vẫn còn sơ sót là giả sử như Trương-Siêu-Trọng mà dùng ám khí thì còn gì là tánh mạng của Lý-Mộng-Ngọc!
May thay, Trương-Siêu-Trọng vẫn còn vị nể chút tình đồng môn nên, vẫn tự coi mình là sư thúc của Lý-Mộng-Ngọc nên giận thì có giận, nhưng hạ độc thủ thì không nỡ ra tay. Nhờ vậy mà Lý-Mộng-Ngọc mới không nguy hiểm đến tánh mạng. Và nhờ vậy mà mưu kế mới được thành công.
Thấy Trương-Siêu-Trọng rượt theo Lý-Mộng-Ngọc ra ngoài khách-sạn rồi, Lục-Phỉ-Thanh bèn tức tốc chạy đến phòng của Văn-Thái-Lai gõ cửa. Bên trong có tiếng phụ nữ hỏi:
-Ai đó?
Lục-Phỉ-Thanh đáp:
-Ta là cố tri giao của Lạc-Nguyên-Thông. Ta gọi Lạc-Nguyên-Thông là ngũ đệ vì ta là vai anh. Mau mở cửa vì ta có việc phải bàn gấp với mấy cháu.
Chờ mãi không nghe tiếng trả lời mà cũng không thấy cửa mở. Dường như bên trong hai người đang bàn tán gì với nhau.
Lục-Phỉ-Thanh lại thấy bọn Ngô-Quốc-Đống cứ đi qua đi lại đàng trước cửa mãi như canh phòng, gìn giữ không cho mấy người trong phòng ấy thoát ra để chờ Trương-Siêu-Trọng đến.
Bọn Ngô-Quốc-Đống thấy Lục-Phỉ-Thanh đứng chờ ở ngoài cửa phòng Văn-Thái-Lai thì tỏ vẻ nghi ngờ, e ngại. Thình lình cánh cửa phòng mở hé ra, Dư-Ngư-Đồng đứng áng ngăn lối vào. Chàng lễ phép cúi đầu chào Lục-Phỉ-Thanh chậm rãi nói:
-Tôi được hân hạnh chào mừng một vị tiền bối có lòng tìm đến chỉ bảo.
Lục-Phỉ-Thanh nói bằng giọng ôn tồn rất nhỏ, dường như sợ bọn Ngô-Quốc-Đống để ý nghe lọt vào tai:
-Ta là Miên-Lý-Châm Lục-Phỉ-Thanh, tức sư-thúc của cháu đây.
Dư-Ngư-Đồng nhìn Lục-Phỉ-Thanh từ đầu đến chân, nhưng cũng chưa tin lắm nên vẫn trù trừ không quyết. Chàng có nghe sư-phụ Mã-Chân nhắc đến một vị sư-thúc mà ông ta tỏ lòng quý mến và cảm phục vô cùng, nhưng từ trước đến nay chàng vẫn chưa được gặp lần nào. Đột nhiên nay người ấy lại tự đến tìm trong lúc chung quanh chàng đều có cạm bẫy của kẻ thù bao giăng thì không thể nhẹ dạ mà tin bậy được, đồng thời còn phải phòng thủ thật là chu đáo nữa. Vả lại, cả Lạc-Băng lẫn Văn-Thái-Lai đều bị trọng thương, nếu rủi ro kẻ thù vào được trong phòng thì thật là nguy hiểm đến tánh mạng cho cả ba người.
Lục-Phỉ-Thanh như đoán được ý nghĩ của Dư-Ngư-Đồng nên ông ta lại phải nói thật rõ và thật nhỏ cho Dư-Ngư-Đồng biết thêm rằng:
-Cháu đừng nghi ngờ sư-thúc mà chậm trễ hết cả việc lớn mà nguy hiểm đến tánh mạng cả ba người không chừng! Đã từng hành hiệp giang-hồ, không lẽ cháu lại không có cặp mắt tinh đời mà phân biệt được chân giả, bạn thù sao? Chẳng lẽ cả diện mạo lẫn thái độ của sư-thúc không đáng cho cháu tin à?
Dư-Ngư-Đồng sực tỉnh, toan dùng lễ sư-điệt để bái kiến thì Lục-Phỉ-Thanh lại ra dấu và nói khẽ:
-Cháu đừng có một hành động hay ngôn ngữ nào để cho bọn kia nhìn thấy mà sinh ra nghi ngờ rằng chúng ta thân mật với nhau cả. Cháu làm bộ đóng mạnh cánh cửa lại, đi thẳng vào trong phòng như không nhận biết sư-thúc là ai. Sư-thúc sẽ có diệu kế giúp cháu.
Dư-Ngư-Đồng tuân lời. Nhưng chàng lại bỗng nghi ngờ Lục-Phỉ-Thanh là đồng bọn với Ngô-Quốc-Đống nên đóng ầm cánh cửa lại thật mạnh toan đi vào trong phòng.
Lục-Phỉ-Thanh thình lình tay trái kéo dội Dư-Ngư-Đồng trở lại. Dư-Ngư-Đồng bị kéo một cái quá mạnh bất thình lình không vào trong phòng được. Lục-Phỉ-Thanh muốn đánh tan hết sự nghi ngờ của Dư-Ngư-Đồng nên mới dùng nóng ‘Lại Thác Y’ này.
Dư-Ngư-Đồng thấy Lục-Phỉ-Thanh vén áo lên thì tự nhiên không dám xông vào đồng thời nhận ra được ngón đòn ấy phải là người cùng môn phái, và tin chắc đây là sư-thúc Lục-Phỉ-Thanh rồi chứ không còn nghi ngờ vào đâu được nữa.
Bị dội lại mấy bước, Dư-Ngư-Đồng hết cả vía vì ngón ‘Lại Thác Y’ của Lục-Phỉ-Thanh có uy lực phi thường, ngoài sư phụ là Mã-Chân ra, chàng chưa thấy ai sử dụng ngón này ghê gớm đến thế, có thể nói là không kém gì sư-phụ chàng nếu không muốn nói là hơn.
Thấy Dư-Ngư-Đồng bị một quyền đến phải lảo đảo dội ngược vào trong phòng, Lạc-Băng toan múa cặp Uyên-Ương-Đao để trợ chiến thì Dư-Ngư-Đồng đưa tay ra hiệu, miệng nói cho nàng vừa đủ nghe:
-Đừng!...
Lục-Phỉ-Thanh hai tay cung lại như sắp tung ra một ngón quyền hiểm ác mà sự thậy là ra dấu bảo hai người chạy hoảng vào trong phòng không kịp đóng cửa lại. Lục-Phỉ-Thanh phóng quyền rượt theo vào, miệng thì gọi Ngô-Quốc-Đống thật to:
-Này, bọn hung phạm đều trống trong này cả! Anh em mau vào hợp sức với tôi mà bắt sống chúng nó hết, đừng để thoát mạng nào! Mau vào đây! Còn chờ gì nũa?
Ngô-Quốc-Đống nãy giờ chứng kiến Lục-Phỉ-Thanh giao đấu với Dư-Ngư-Đồng quyết liệt, võ nghệ siêu việt, không thua gì Trương-Siêu-Trọng nên vẫn đinh ninh rằng là người của Trương-Siêu-Trọng đến đây hợp sức với chúng vây bắt người của Hồng Hoa Hội. Lại thấy Dư-Ngư-Đồng và Lạc-Băng thua, chạy trối chết vào trong phòng quên cả đóng cửa lại bị người ấy rượt theo nên trong lòng hắn mừng vô hạn. Bỗng lại nghe Lục-Phỉ-Thanh gọi bọn hắn trợ lực với ông ta bắt cho hết khâm-phạm đang trốn trong phòng, bọn chúng lại càng mừng hơn nữa vì vừa có cơ hội lập công lại vừa trả được thù.
Ngô-Quốc-Đống tuốt bảo kiếm cầm tay, gọi Phùng-Huy và Hàn-Xuân-Lâm cùng đi theo, rồi cả ba tên ba chân bốn cẳng chạy vào phòng. Chờ cho ba ba vào hết đâu đó xong xuôi, Lục-Phỉ-Thanh bèn thuận tay đóng chặt cánh cửa vào. Thấy Dư-Ngư-Đồng, Lạc-Băng và Văn-Thái-Lai chễm chệ ngồi trên giường, Ngô-Quốc-Đống biết bị trúng kế, hồn phi phách tán, kêu lớn lên:
-Anh em! Mau lui ra hết!
Hàn-Xuân-Lâm và Phùng-Huy ở sau lưng Ngô-Quốc-Đống vừa xoay mình trở lại định tung cửa thoát thân ra ngoài thì mỗi người trúng phải một đường chỉ lực của Lục-Phỉ-Thanh ngay sau lưng. Cả hai không kịp kêu lên tiếng nào đã trút hơi thở cuối cùng mà ngã xuống, xương sườn bị gãy tiện, không có một giọt máu chảy ra. Ngô-Quốc-Đống kinh hãi đến tột độ vì hắn chưa từng bao giờ được thấy cao-thủ nào võ-công ghê gớm đến thế, giết người một cách hết sức tinh vi và mau lẹ khiến cho kẻ bị giết trở tay không kịp, không la được tiếng nào hay có một phản ứng gì, thậm chí có khi còn không hay là mình bị giết nữa!
Ngô-Quốc-Đống dù sao cũng là một cao-thủ võ-lâm, từng làm Bổ-đầu bao nhiêu năm ở Bắc-Kinh tiếng tăm lẫy lừng chứ không phải hạng tầm thường nên đứng trước tình thế như vậy hắn vẫn còn sáng suốt mà giữ được bình tĩnh chứ không đến nỗi hoang mang. Thấy cánh cửa bị Lục-Phỉ-Thanh đóng chặt và đứng thủ ở đấy ắt hiểu ngay mình không thể thoát ra bằng ngã ấy được nên chỉ còn cách liều mạng tìm một giải pháp nào khác còn hơn là đứng bó tay chịu trận thì chỉ có chết chắc.
Ngô-Quốc-Đống bỗng tung mình lên bàn đứng thủ các chỗ nhược trên thân rồi bất thình lình phóng mình như cây lao, đầu đập vào cửa sổ gần giường Văn-Thái-Lai đang nằm, có Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng đứng hai bên chăm nom và bảo vệ. Đầu của hắn cứng như đá nên chỉ nghe ‘rột rột’ mấy tiếng, mấy cây song cửa bằng gỗ bị gãy nát ra. Không chậm trễ một giây nào, Ngô-Quốc-Đống liền lao ra ngoài bằng lỗ hổng cửa sổ do hắn tạo ra.
Mọi việc thật xảy ra quá mau lẹ, ngoài sự tiên liệu của tất cả mọi người. Lục-Phỉ-Thanh đứng canh cửa nhìn thấy sự kiện xảy ra như thế không thể nhảy theo hắn được mà cũng không kịp phóng ám khí giết hắn nữa.
Chẳng ngờ Văn-Thái-Lai bỗng nhiên ngồi phắt dậy tung ra một quyền trúng ngay bả vai bên mặt của Ngô-Quốc-Đống. Chỉ nghe ‘rắc’, một tiếng, Ngô-Quốc-Đống nhăn nhó, biết là xương bả vai hắn đã bị quyền của Văn-Thái-Lai đánh gãy. Quyền của Bôn-Lôi-Thủ quả là kinh hồn. Đó là chàng còn đang mang trọng thương trên mình!
Mặc dầu bị thương, Ngô-Quốc-Đống không vì thế mà rối loạn tinh thần. Hắn cắn răng, dùng toàn lực vận đề khí lao mạnh ra ngoài cửa sổ, đầu chổng xuống đất. Lúc đầu gần chạm đất, Ngô-Quốc-Đống búng ngược hai chân ra phía trước như cái lò xo và đứng được vững vàng.
Lạc-Băng rút ngọn phi đao chạy ra cánh cửa nhìn ra ngoài nhắm Ngô-Quốc-Đống phóng một cái. Phi đao của nàng sớt một đường ngay vai trái của Ngô-Quốc-Đống làm máu tuôn xuống xối xả.
Thì ra lúc hắn búng mình, hai chân vừa chạm đất thì vội nép mình dọc theo bờ tường bên ngoài, nhờ vậy mà che được chỗ hiểm nên chỉ bị trúng phi đao vào vai bị thương thôi chứ không đến nỗi mất mạng. Đó cũng là nhờ kinh nghiệm bao nhiêu năm bôn ba ngược xuôi của hắn nên dù thoát được ra ngoài vẫn biết phải đề phòng ám khí. Ngô-Quốc-Đống quả không hổ danh là một bổ-đầu Bắc-Kinh một thời ngang dọc khắp chốn. Trong cái chết hắn vẫn tìm được đường sống nhờ khôn ngoan lanh lợi chứ không phải chỉ trông cậy suông vào bản-lãnh múa kiếm với đánh quyền.
Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng không nghi ngờ gì nữa, cả hai đến trước mặt Lục-Phỉ-Thanh làm lễ ra mắt của kẻ hậu sinh đối với bậc trưởng bối. Văn-Thái-Lai vì bị trọng thương nên không thể xuống hành lễ được, đành nằm im trên giường lễ phép thưa:
-Thưa lão tiền bối, vì không thể nào xuống tham kiến được, xin lão tiền bối xét giùm mà rộng lòng tha thứ cho.
Lục-Phỉ-Thanh xua tay, cười nói:
-Không sao! Không sao! Cứ nằm yên mà tĩnh dưỡng cho khỏe. Cho lão phu hỏi thăm một điều. Hai người với Lạc-Nguyên-Thông, bạn thân của lão có liên hệ bà con thân thuộc như thế nào?
Chưa ai kịp trả lời thì Lục-Phỉ-Thanh quay qua Lạc-Băng nói luôn:
-Nếu lão đoán không lầm thì cô nương đây là ái-nữ
(#2) của Lạc lão đệ!
Lạc-Băng đáp:
-Thưa lão tiền bối, chính là thân-phụ của điệt-nữ. Còn Văn-Thái-Lai đây chính là trượng-phu
(#3) của điệt nữ.
Lục-Phỉ-Thanh vui mừng quá đỗi. Giọng ông ta run run:
-Thật là may mắn biết bao nhiêu! Có lẽ lòng trời không nỡ phụ người lành cho nên giữa đường không hẹn mà lại xui khiến cho ta gặp lại người thân trong hoàn cảnh nguy ngập này.
Nói xong, ông ta không dấu được cảm xúc, lệ từ đâu bỗng rướm lên đôi mi rồi trào ra hai hàng rồi nghẹn ngào nói tiếp:
-Lão phu với Lạc-Nguyên-Thống là bạn chí thân. Không ngờ xa cách nhau mười mấy năm mà lão đệ đã ra người thiên cổ! Lòng lão thật bi thảm, khó nói sao cho hết lời! Thấy cháu đây chẳng khác nào thấy lại bạn già!
Lục-Phỉ-Thanh kéo vạt áo lên lau nước mắt. Lạc-Băng cũng cảm động đến rơi lệ. Ai nấy đều ngậm ngùi cảm khái. Trong một phút tất cả đều im lặng không ai nói với ai được lời nào.
Lát sau, Lục-Phỉ-Thanh ngước mắt lên nhìn Dư-Ngư-Đồng mà hỏi:
-Điệt-nhi là đồ đệ của Mã sư-huynh. Vậy không biết gần đây Mã sư-huynh mạnh giỏi thế nào?
Dư-Ngư-Đồng đáp:
-Xin thưa với sư-thúc, sư-phụ con vẫn bình an. Con vẫn thường được nghe sư-phụ nhắc đến sư-thúc hoài. Sư-phụ vẫn than thở là đã hơn mười năm nay không gặp được sư-thúc mà cũng không rõ tin tức ra sao nên lòng của sư-phụ không được yên ổn.
Lục-Phỉ-Thanh liền nói:
-Sư phụ của con là người rất mực trung-hậu, sư-thúc luôn luôn vẫn nghĩ thế. Nhưng chỉ vì quá trung hậu mà sư-phụ của con lại đâm ra quá tin người. Ông ta giàu tình cảm, rất rộng lượng luôn tha thứ nên không còn thấy được ai là kẻ điêu ngoa gian trá nữa, luôn luôn nghĩ rằng thiên-hạ đều như ông ấy cả. Con có biết con còn một vị sư-thúc nữa hiện nay đang liệt con vào hàng những kẻ đối đầu với mình không?
Dư-Ngư-Đồng nghe Lục-Phỉ-Thanh hỏi bỗng nhiên kinh sợ giật nẩy cả mình. Chàng hỏi lớn:
-Có phải là Trương-Siêu-Trọng sư-thúc đó không?
Lục-Phỉ-Thanh gật đầu luôn mấy lượt. Văn-Thái-Lai đang nằm trên giường bỗng nghe nhắc đến tên Trương-Siêu-Trọng thì bỗng cựa mình thốt lên một tiếng thật lớn:
-Á!
Lạc-Băng vội vàng chạy đến ôm sát Văn-Thái-lai vào ngực trấn tĩnh vì nhìn thấy những nét lo sợ hiện ra trên gương mặt nhăn nhó của chàng.
Dư-Ngư-Đồng thấy vậy cũng biến sắc, thầm nghĩ:
-“Ta từng nghe Trương-Siêu-Trọng là một trong những bậc tiền-bối có võ-công trác tuyệt siêu phàm trong giới quan lại của triều-đình hiện thời nhưng chưa biết bản lãnh ông ta cao thâm đến bậc nào. Giờ đây nghe Lục sư-thúc vừa nhắc đến tên Văn tứ ca đang nằm dưỡng thương mà bỗng kêu lên thất sắc thì đủ biết con người ấy quả là đáng sợ! Văn tứ ca cũng là một cao-thủ trong giới giang-hồ mà phải hốt hoảng như thế thì chẳng cần nói cũng dư biết Trương-Siêu-Trọng lợi hại đến bậc nào rồi!
Dư-Ngư-Đồng lại liếc mắt thấy Lạc-Băng âu yếm ôm Văn-Thái-Lai vào lòng, tình thâm ý thiết như như đôi chim uyên ương ríu rít trên cành, một phút không rời, chết sống không bỏ thì bụng lại nghĩ:
-Văn tứ ca thật là có phúc. Dù mình đầy thương tích mà được sự nâng niu săn sóc của vợ một bên như thế, thì sự đau đớn kia mười phần cũng nhẹ đi chín rồi. Ta thật vô duyên không có được một người như thế để cùng hưởng lạc thú ái tình trên đời. Con người sinh ra không có được tình yêu thì có khác nào thân cây thiếu đi nhựa sống!
Đang lúc suy nghĩ miên man, Dư-Ngư-Đồng bỗng nghe Lục-Phỉ-Thanh nói:
-Ta xem sư-đệ của ta vì bả vinh-hoa mà cam tâm làm ‘chó săn’ cho quân xâm lược, dù có đem lời ngay, ý chánh đến đâu rót vào tai hắn cũng như không mà thôi! Con người khi đã tán tận lương tâm rồi thì hóa ra cầm thú! Ta lấy làm xấu hổ cho phái Võ-Đang có một cao-thủ đê hèn làm mất cả thanh danh của môn phái, lại xấu hổ có một người sư-đệ tồi tệ, là cái nhục chung cho cả Mã sư-huynh và ta. Trương-Siêu-Trọng lại là người có võ công tuyệt thế nên càng khó cho các phe đối lập đối phó. Trong giới lục lâm chưa chắc đã có mấy người đương cự nổi với hắn. Mã sư-huynh của ta đi vân du đây đó, lấy gió mát trăng trăng làm bạn, nai rừng cá suối làm vui, không còn thiết gì đến cuộc đời ô trọc. Còn ta thì tuổi cũng đã già, sức đã giảm, trên mười năm trau chuốt văn-chương bỏ phế võ-nghệ nên chưa chắc đã chiếm được ưu thế đối với hắn. Vả lại mình ta còn mang một cái án nặng, chưa phải lúc ra mặt công khai nên còn kiên nhẫn mai danh ẩn tích chờ cơ hội thuận tiện mới đường đường chính chính tham gia gánh vác việc lớn cho quốc gia. Nếu vì việc của mấy cháu mà ta xuất đầu lộ diện thì chẳng những nguy hiểm đến tánh mạng mà còn làm lỡ hết việc lớn sau này nên đành phải trốn tránh chứ không phải vì tiếc gì tấm thân này! Huống chi lần này Trương-Siêu-Trọng từ Bắc-Kinh đội mưa lướt gió xông pha từ biên cương ngàn dặm để thi hành công tác do vua Càn-Long ký thác cho thì đương nhiên hắn phải có những hậu viện mạnh mẽ đông đủ chứ không phải là chỉ có một mình đơn thân độc mã đâu. Các cháu phải hết sức đề phòng hắn mới được chứ đừng xem thường hắn như những đối thủ mà mấy cháu vừa rồi giao tay qua đấy nhé! Hơn nữa hiện tại Văn lão đệ hiện nay mình còn mang đầy thương tích. Tinh-thần dù còn mạnh nhưng sức lực giảm đi đến chín phần. Còn Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng, hai cháu cũng chưa bình-phục lại hoàn toàn, chưa thể đối phó với Trương-Trọng-Siêu nổi. Quân-tử phục thù, mười năm chưa muộn. Nhưng tạm thời, lão phu thành thật khuyên tất cả nên lánh mặt hắn đi, cố mà nhẫn nhịn một thời gian, sau này thiếu gì cơ hội tranh hùng với hắn. Còn lão phu đây chẳng phải sợ gì Trương-Siêu-Trọng mà không vì mấy cháu ra sức giúp đỡ trong lúc hiểm nghèo như hiện tại. Chẳng qua cái thân già này phải dành cho đại cuộc, cho những gì to tát hơn sau này. Lão đã từng thề độc là nếu không diệt trừ được bọn xâm lăng tàn bạo và không thanh toán được bọn ‘chó săn chim mồi’ cho triều-đình Mãn-Thanh thì quyết không thèm làm người đứng trên thế gian này nữa! Cả phường gian ác lão phu còn không sợ, há lại đi sợ một tên phản bội Trương-Trọng-Siêu hay sao? Đó là những lời tâm huyết của lão phu, mong Văn lão đệ và hai cháu xét và suy ngẫm cho kỹ xem có đúng hay không.
Lục-Phỉ-Thanh nói bằng một giọng quả quyết thật hùng hồn, tiếng nói như chuông ngân, gương mặt hiện lên đầy những nét cương nghị khiến cho cả ba người đều im lặng, lắng tai nghe, mà lòng sinh ra đầy cảm phục.
Lạc-Băng nói:
-Chúng cháu xin vâng theo lời chỉ giáo của Lục lão bá.
Nói dứt lời, nàng xoay qua nhìn Văn-Thái-Lai để ý xem sắc khí thế nào, tán thành hay phản đối thì thấy chàng gật đầu, tỏ vẻ đồng ý.
Lục-Phỉ-Thanh liền rút trong túi ra một phong thư đã viết sẵn trao cho Lạc-Băng. Nàng thấy ngoài phong bì đề rằng:
“Thiết-Đảm Trang Châu-Trọng-Anh lão huynh cẩn kính”
Lạc-Băng rất đỗi vui mừng hỏi Lục-Phỉ-Thanh:
-Thưa Lục lão bá, bác và Châu lão anh-hùng có giao tình thân thiết hả?
Lục-Phỉ-Thanh chưa kịp trả lời thì Văn-Thái-Lai đã hỏi:
-Em nói đến vị anh-hùng nào đó vậy?
Lạc-Băng đáp:
-Châu-Trọng-Anh!
Văn-Thái-Lai lại hỏi:
-Thiết-Đảm-Trang của Châu lão anh-hùng ở đâu vậy?
Lần này Lục-Phỉ-Thanh lại đỡ lời cho Lạc-Băng:
-Lão chưa có hân hạnh giáp mặt với Châu lão anh-hùng lần nào, nhưng có giao-thiệp với nhau bằng tinh-thần đã lâu rồi và rất kính nể nhau, mến mộ danh nhau xem nhau như bạn sinh tử! Lão biết rõ Châu lão anh-hùng là một người nghĩa-hiệp can đảm, gặp việc phải sẽ làm ngay mà không bao giờ sợ liên lụy đến cả tài-sản lẫn tánh mạng. Đây thật là một trang nam-tử gan sắt dạ đầy, trượng nghĩa khinh tài. Họ Châu dựng nghiệp đã mấy đời ở Thiết-Đảm-Trang, được dân chúng thương yêu kính mến như thân thích ruột thịt và được tứ hải anh-hùng mộ danh trọng đức. Thiết-Đảm-Trang chỉ cách đây có vài mươi dặm đường thôi. Ý lão muốn Văn lão đệ đến đó tạm nương náu môt thời gian để điều trị vết thương mà không phải lo bọn ‘chó trâu’ làm phiền như khi ở khách-sạn hay lữ-quán là những nơi kẻ qua người lại rất nhiều, sẽ gặp nhiều điều bất tiện. Một khi Văn lão đệ tạm an trú tại Thiết-Đảm-Trang rồi, lão sẽ sai một người tâm phúc về thông báo tin tức cho quý hội
(#4) cho các anh em bang chúng hay, và lúc bấy giờ sẽ đưa Văn lão đệ về dưỡng bệnh cho đến lúc bình-phục mà không còn phải e ngại điều gì nữa cả. Việc của chúng ta là việc chung cho tất cả chứ không phải của riêng ai hết. Ai đóng góp được phần nào tức là gánh vác bớt đi một phần trách-nhiệm đó. Lời lão phu bày tỏ chẳng hay ý kiến của Văn lão đệ thế nào?
Lục-Phỉ-Thanh nhìn sắc diện của Văn-Thái-Lai, thấy chàng ta như trù trừ chưa quyết, ông ta bèn nói tiếp:
-Phải nhẫn nhịn việc nhỏ mới không hại đến việc lớn
(#5). Văn lão đệ là người chu đáo, đừng nên câu nệ tiểu tiết!
Văn-Thái-Lai nói:
-Lời tiền-bối dạy thật chí lý, vãn bối dám nào chẳng tuân theo. Nhưng bởi trong lòng vãn bối có một điều không được an lòng nên chưa dám quyết định.
Lục-Phỉ-Thanh nói:
-Có điểm nào thắc mắc Văn lão đệ cứ nói cho lão phu nghe thử?
-Vãn bối có một nỗi rất khó khăn xin thưa với tiền bối để suy nghĩ đắn đo cho kỹ đặng vãn bối không phải lầm lỡ mà hối tiếc không kịp sau này.
-Văn lão đệ thận trọng như vậy là phải lắm. Vậy điểm ấy như thế nào?
Văn-Thái-Lai nói:
-Thưa lão tiền bối! Hiện nay vãn bối đang mang một bản án rất nặng. Công việc của vãn bối sẽ gây ra cái nạn ‘máu sông xương núi’ chứ chẳng phải tầm thường. Vãn bối đây là khâm-phạm số một của triều-đình vì mang trong người một bí mật khiến cho Càn-Long ăn khôn ngon, ngủ không yên. Nếu vãn bối có chết đi thì ngai vàng của Càn-Long mới bền vững và cuộc đô-hộ của nhà Mãn-Thanh mới bền vững được. Chính Trương-Siêu-Trọng lần này ra biên ải cũng chỉ mang một sứ mạng duy nhất là bắt sống hoặc giết được vãn bối mang đầu về cho Càn-Long mà thôi. Những khâm-phạm khác hiện tại chỉ là việc phụ với triều-đình, bắt được ngay thì tốt, còn không thì để thủng thẳng cũng không sao. Vẵn bối lâu nay rất ngưỡng mộ đại danh của Châu lão anh-hùng vì ông ta là một nhân vật rất có uy-tín và thế lực, được xem như là lãnh tụ của các môn phái võ lâm khắp vùng Tây-Bắc này. Sự giao du với bằng hữu của Châu lão anh-hùng sâu rộng vô biên, chẳng khác gì Mạnh-Thường-Quân thời Chiến-Quốc, thiết tưởng đời nay chưa thấy được người thứ hai. Châu lão anh-hùng với vãn bối đây mặc dù không phải thân mật cố giao, nhưng chắc chắn khi trao lá thư của tiền bối giới thiệu thì Châu lão anh-hùng chắc chắn sẽ nể mặt lão tiền bối mà đón tiếp vãn bối và tiện-nội
(#6) một cách nồng nàn chân thật. Lúc đó thì việc của vãn bối được giải quyết một cách ổn thỏa, nhưng sau này rủi mà bại lộ ra tai-họa sẽ đến với Châu lão anh-hùng không biết thế nào mà lường được. Cái tội chứa chấp khâm-phạm triều-đình không những làm cho Châu lão anh-hùng tan gia bại sản mà không chừng còn mang đến họa diệt tộc nữa là khác! Thiết-Đảm Trang lập lên đã mấy đời, nay vì nể mặt tiền bối mà chứa chấp vãn bối thì vạ lây đến cả cho vợ con, quyến thuộc chứ không riêng gì cho Châu lão anh-hùng không thôi. Đó là điều áy náy duy nhất của vãn bối đó thôi!
Lục-Phỉ-Thanh thầm khen ngợi chí khí của Văn-Thái-Lai. Chàng quả là một nam nhi đại trượng-phu quanh minh chính đại, thà chết chứ không muốn liên lụy đến người khác. Ông khuyên rằng:
-Văn lão đệ đừng nên nghĩ đến điều nhỏ nhen ấy mà đánh giá Châu lão anh-hùng quá thấp! Chúng ta đây có thể bỏ nhà bỏ cửa thậm chí cả bản thân nữa để hành hiệp giang-hồ ắt luôn luôn lấy nghĩa-khí làm đầu. Nếu không được như vậy thì không xứng đáng làm một đại trượng-phu đứng trong vũ-trụ này! Bọn ta đây, trong Ngũ-Thường xem cái đạo bằng-hữu là trên hết. Dẫu phải liều mình vì bạn cho trọn đạo, bọn ta vẫn coi cái chết nhẹ tựa lông hồng mà vui vẻ làm. Lão phu biết rõ tính tình Châu lão anh-hùng lắm. Người ấy nghĩa khí như Quan-Vũ
(#7), đâu phải những hạng tầm thường chỉ biết có sự nghiệp gia sản, sẵn sàng bán bạn cầu vinh để giữ lấy tính mạng cá nhân và thân tộc. Dẫu có phải diệt tộc vì hai chữ ‘nghĩa khí’, Châu lão anh-hùng vẫn khảng khái hiên ngang, quyết không ăn năn hối hận. Trái lại, sau này nếu biết chúng ta ở đây gặp nguy cấp mà không chịu tìm đến thì chắc chắc Châu lão anh-hùng sẽ trách cứ. Lúc đó chúng ta làm sao ăn nói đây? Lão phu cũng sẽ không còn mặt mũi nào để nhìn mặt lão anh-hùng nữa vì đã trót lấy bụng dạ hẹp hòi của mình mà đánh giá đức độ mênh mông của người.
Văn-Thái-Lai nói:
-Thưa lão tiền bối, vãn bối đây quyết đem tánh mạng mình ra để hy-sinh cho việc lớn nên đối với bọn ‘chó săn chim mồi’ kia thật chẳng xem vào đâu cả. Nếu bọn ấy mà trở lại đây thì vãn bối quyết một mất một còn với chúng chứ quyết không để cho chúng uy hiếp hay lăng nhục! Có một điều hơi khó nghĩ mà vãn bối chưa thể hy-sinh tánh mạng mình được, từ trước chưa nói với ai giờ xin nói thật với lão tiền bối là sứ mạng của vãn bối lãnh từ Bắc-Kinh về đây chưa trình bày lại cho Thiếu-Đà-Chủ được. Sứ mạng ấy có thể nói là tối hệ trọng chỉ có thể diện kiến Thiếu-Đà-Chủ mà trình bày chứ không thể nhờ bất cứ một ai chuyển đạt lại được. Chính vì điểm ấy mà Càn-Long phải huy động toàn lực các cao-thủ đuổi theo bắt vãn bối cho kỳ được mà giải về Bắc-Kinh, hoặc nếu cần thì giết chết vãn bối ngay đi cũng được, chứ nhất quyết không để cho vãn bối cơ hội về trình bày cho Thiếu-Đà-Chủ nghe! Do đó mà vãn bối liều mình tử chiến đến nỗ phải mang thương tích đầy mình. Và cũng do đó mà Càn-Long phải đặc phái tới một đại cao-thủ Trương-Siêu-Trọng để ngăn chặn vãn bối với bất cứ giá nào. Sứ mạng tối mật này không có giấy tờ hay bút tích chi cả nên triều-đình phải nhắm vào vãn bối. Lão tiền bối nghĩ xem? Thà là vãn bối liều chết giữ bí mật còn hơn để liên lụy đến nhiều người khác phải không?
Lục-Phỉ-Thanh khẽ gật đầu nói:
-Thật Văn lão đệ quá tin tưởng lão phu nên mới dám đem cái sứ mạng tối hệ trọng ấy mà nói ra phần nào. Lão phu thật hết sức cảm động. Vì vậy, lão phu cảm thấy có bổn phận phải bảo vệ tánh mạng an toàn cho Văn lão đệ mà tái hội với Thiếu-Đà-Chủ để có thể hoàn thành được sứ mạng kia. Văn lão đệ cứ nghe lão phu đi. Hãy đến Thiết-Đảm-Trang mà tạm thời nương náu rồi phái người về báo cho Thiếu-Đà-Chủ biết để huy-động lực lượng Hồng Hoa Hội đến hộ tống lão đệ về đến nơi bình an. Còn nếu như lão đệ cứ vì sĩ khí mà tỵ hiềm này nọ thì sự mạng khó mà tròn được, mà việc lớn thì hỏng hết! Văn lão đệ phải suy nghĩ kỹ càng, đừng để phụ lòng khát vọng, tin cậy của mọi người!
Văn-Thái-Lai gật đầu, nằm suy nghĩ một hồi khá lâu. Lục-Phỉ-Thanh lại nói:
-Lão muốn hỏi thăm một người mà chắc hẳn là Văn lão đệ biết. Đó là Triệu-Bán-Sơn một cao-thủ của Thái-Cực võ phái. Chẳng hay Văn lão đệ xưng hô với Triệu-Bán-Sơn như thế nào?
Văn-Thái-Lai đáp:
-Đó là tam ca của vãn bối, một trong số thủ-lãnh tối cao của hội, đứng thứ ba, được gọi là Tam đương-gia hoặc là Triệu tam đương.
Lục-Phỉ-Thanh mừng rỡ reo lên:
-Trời ơi! Lão phu thật tệ quá! Thật là đáng hổ thẹn biết chừng nào! Công việc lớn lao của Hồng Hoa Hội ra sức gánh vác mà từ bấy lâu nay lão phu có được biết một tí nào đâu! Mười mấy năm trời mang bản án nặng trong người, lão phu chỉ biết mai danh ẩn tích mà quên cả nghĩa-vụ đối với tổ-quốc và dân-tộc của mình đi! Có ngờ đâu biết bao nhiêu bạn cũ yêu nước thương nòi đang hợp cùng các thanh-niên nặng bầu nhiệt-huyết tiếp tục công cuộc chiến đấu giải phóng ách xâm lăng mà lão phu đang ơ thờ như người đi đường xa lạ vậy! Triệu-Bán-Sơn là bạn chí thân của lão phu trong Đồ-Long-Hội, thề sống chết có nhau, cùng nhau vào sanh ra tử không biết bao nhiêu lần, dẫu là anh em ruột thịt cũng không bằng được. Triệu-Bán-Sơn là nhân vật trọng yếu trong bang hội cùng chung với Văn lão đệ thì lão chắc chắn rằng việc làm của Hồng Hoa Hội phải là quang minh chính đại. Chỉ nhìn xuyên qua Triệu-Bán-Sơn, lão phu thật đã đánh giá không lầm về quý hội. Văn lão đệ bảo là khâm-phạm tối trọng của triều-đình thì chẳng hay phạm vào tội chi? Bất quá cũng chỉ là giết hại bọn quan quân âm mưu phản quốc là cùng! Vừa rồi lão phu cũng đã sát hại hai tên công-sai của Càn-Long là gì!
Văn-Thái-Lai nói:
-Nếu giết hại quan quân âm mưu phản quốc không thì cũng chẳng có chi đáng gọi là khâm-phạm trọng yếu. Câu chuyện của vãn bối rất dài dòng không thể kể thuật hết lại ở đây cho tiền bối nghe được. Hơn nữa việc này cần phải bí mật tuyệt đối ‘sống để dạ, chết mang theo’ nên không thể nào nói cho ai nghe được ngoài Thiếu-Đà-Chủ. Vãn bối chỉ có thể nói rằng bí mật này đã làm khổ tâm, mệt trí Càn-Long không ít. Càn-Long rất sợ Thiếu-Đà-Chủ biết rõ bí mật này, vì điều này có thể làm hại đến ngai vàng của y. Nếu bắt sống được vãn bối, y có thể dụ dỗ đến cùng, sẽ ban cho của cải vật chất, cũng như danh vọng tột đỉnh miễn sao vãn bối chịu mất tích đi mà đừng nói cho Thiếu-Đà-Chủ biết. Nếu không được thế, tất nhiên Càn-Long phải tìm cách giết vãn bối mà thôi chứ không còn đường chọn lựa. Chỉ nói sơ bấy nhiêu thôi chắc lão tiền bối cũng đã nhận định rõ được cái sứ mạng này có quan-hệ đến vận-mệnh của Hán-tộc đến thế nào rồi! Ngay cài đêm sau khi Tổng-Đà-Chủ quy tiên, Càn-Long đặc biệt sai tám tên thị-vệ võ nghệ cao cường bí mật theo dõi để bắt cho được hai vợ chồng vãn bối giải về. Vợ chồng vãn bối phải nhiều phen liều mạng chiến đấu. Nhưng rồi trong trận đại chiến với tám tên thị-vệ đó ở Tửu-Tuyền, vãn bối bị thương khắp mình, đổ máu rất nhiều nhưng quyết không để cho chúng bắt được. Trong trận huyết chiến ấy, Lạc-Băng, vợ của vãn bối đã sử dụng phi đao phóng chết được hai tên ‘chó săn’ khiến sáu tên còn lại phải ‘kinh tâm tán đởm’ lần lượt bị vợ chồng vãn bối đánh cho bị thương tất cả phải rút về xin viện binh vì biết không thể bắt được hai vợ chồng vãn bối. Lạc-Băng phải khó khăn cực khổn lắm mới đưa được vãn bối đến được khách-sạn này.
Sau đó, Càn-Long ban kiếm ấn cho Trương-Siêu-Trọng rượt theo để giết vợ chồng vãn bối nếu không bắt sống được. Nếu đừng bị trọng thương thì vãn bối cũng chẳng sợ gì Trương-Siêu-Trọng. Dù bản-lãnh cao siêu, chưa chắ gì hắn đã làm gì được vãn bối. Nhưng với tình-trạng hiện tại thì nếu giao chiến với hắn tức là đem mang tánh mạng mà dâng cho hắn rồi! Vãn bối đã liệu được cái chết trong tay. Tuy nhiên, nếu phải chết vì nghĩa thì có gì là đáng tiếc? Vì vậy mà vãn bối định liều mình chứ không muốn để liên lụy đến Châu lão anh-hùng. Lại còn thêm được điều lợi nữa là sau khi vãn bối chết, Càn-Long se tưởng là chuyện bí mật đã mãi mãi chôn vùi theo vãn bối nơi chín suối, ắt sẽ không còn lo đến chuyện tiêu diệt Hồng Hoa Hội gấp rút nữa. Khi ấy, hội sẽ dễ dàng mà âm thầm hoạt động hơn. Mà dẫu cho vãn bối có chết đi, Thiếu-Đà-Chủ trước sau cũng sẽ biết những điều bí mật kia, chỉ có chậm với mau thôi vì vãn bối tin chắc rằng Tổng-Đà-Chủ trước khi sang chơi thế-giới bên kia đã sắp đặt chu đáo đâu vào đó, sẽ đưa những bí mật tới đầy đủ cho Thiếu-Đà-Chủ không bằng cách này thì cách khác. Chắc lão tiền bối đã có dịp chứng kiến nghi-lễ ‘thiên lý tiếp long đầu’ mấy ngày trước đây rồi phải không?
Lục-Phỉ-Thanh sực nhớ ra chuyện gặp từng cặp hảo hán đi song song trên quãng đường ra biên ải hôm nào liền gật đầu mà đáp:
-Có, nhưng lão phu chỉ được chứng kiến có sáu cặp mà thôi. Chờ mãi mà không thấy một cặp nữa nên lấy làm lạ không hiểu tại sao!
Văn-Thái-Lai ngẫm nghĩ giây lát rồi nói:
-Có lẽ nghi-lễ ấy còn tạm hoãn lại để chờ tin-tức từ Bắc-Kinh đưa về. Chờ mãi không thấy vợ chồng vãn bối nên tạm thời chưa tiến hành đó thôi. Một khi thực hiện xong nghi-lễ ‘thiên lý tiếp long đầu’ xong xuôi cố hiên sẽ phát động ngay đại cuộc ‘tổng tấn công’ vì hội đã công cử vị tân Tổng-Đà-Chủ thay cho vị tiền-nhiệm Vu Tổng đà-chủ.
Lục-Phỉ-Thanh lắng tai thật kỹ nghe Văn-Thái-Lai thuật lại tự sự mới thấu rõ được phần nào cái sứ mạng tối quan-trọng kia; quan-trọng đến nỗi Thanh-Đế Càn-Long phải ba lần bảy lượt phái toàn những tay võ-nghệ siêu quần bạt tụy theo từng bước chân chàng quyết tâm giết cho được để bảo toàn điều bí mật lớn lao ly kỳ đó. Văn-Thái-Lai đang phải gánh một trách-nhiệm hết sức nặng nề, và cho dù có hiểm trở nguy nan đến thế nào chàng cũng thà chịu chết một mình chứ không vì mình mà làm liên lụy đến người khác. Lục-Phỉ-Thanh càng nghĩ mà càng thấy kính phục Văn-Thái-Lai vô cùng. Thật đúng là đại trượng-phu khi làm việc lớn luôn luôn quên mình để nghĩ đến kẻ khác. Cái bản sắc anh-hùng đó đã bộc lộ trong ngôn ngữ, đã được chứng minh trong hành động của Văn-Thái-Lai. Lục-Phỉ-Thanh lại nghĩ rằng:
-Con người của Văn-Thái-Lai thật đáng kính, thật là một bậc quân-tử. Nhưng công việc của y lại đáng được lưu ý nhiều hơn. Công việc ấy có quan-hệ đến vận mạng của quốc gia chứ chẳng phải riêng cho một cá-nhân hay một đảng phái nào. Nếu để cho Văn-Thái-Lai làm tròn cái khí tiết trượng phu thì không những lở dở đại-sự của Hồng Hoa Hội mà còn ảnh hưởng đến đại cuộc của quốc gia nữa.
Cân nhắc điều lợi hại xong, Lục-Phỉ-Thanh thấy không thể cho Văn-Thái-Lai chết cho tròn tâm nguyện của chàng được. Bởi vì chính mạng sống của chàng mới thật sự là cần thiết. Biết Văn-Thái-lai là trang nghĩa-hiệp, Lục-Phỉ-Thanh nghĩ rằng mình cần phải nói khích may ra còn có chút hiệu lực chứ nói suông khó mà thành công được. Nghĩ vậy, ông ta liền nói:
-Văn lão đệ! Lão rất khâm phục tiết khí của em không vì mình mà để liên lụy đến người khác. Đó là hành động quang minh lỗi lạc của một tay hảo hán, thật đáng khen. Nhưng lão phu chỉ tiếc một diều...
Văn-Thái-Lai vội vàng hỏi:
-Lão tiền bối tiếc việc gì vậy?
Lục-Phỉ-Thanh đáp:
-Văn lão đệ không chịu đi lánh nạn. Lão đệ mình đầy thương tích thế này mà ba người đây không cách nào giải cứu lão đệ được! Giờ ngồi với nhau tại đây chờ cho bọn ‘chó săn chim mồi’ đến bắt thật là đau đớn! Lão phu nói như vậy chẳng phải là nâng cái uy-phong của bọn chúng lên mà tự dìm đi cái chí khí của mình. Nhưng lão phu chỉ vọn vẹn được có hai thầy trò mà bọn chúng, theo lão phu biết thì đông lắm. Dầu cho con cọp mạnh cũng cũng khó chống nổi với bầy cáo đông
(#8) cho nên chưa giao phong mà lão đã đoán trước được sự thắng bại. Với ai thì chẳn nói chi, chứ với Trương-Siêu-Trọng thì lão dám quả quyết trong chúng ta đây, không ai xứn là đối thủ của hắn. Còn như bên lão đệ cũng chỉ có hai người, một là vợ lão đệ, hai là sư đệ đồng chí, mà cả hai cũng đang bị thương ít nhiều. Đem cái yếu chống cái mạnh, cái mệt chống cái khỏe, và cái ít chống cái đông, lẽ tất nhiên khó mà chiếm được ưu thế. Lão phu dư hiểu là trong tình bằng-hữu thường hay lấy nghĩa khí làm trọng. Nếu có phải chết đi chăng nữa há vì thế mà tiếc cái thân hay sao? Nhưng chỉ lo một điều là trong hai người nếu rủi một mạng có bề gì thì những người còn lại ắt phải thất điên bát đảo, lấy ai bảo vệ cho lão đệ tẩu thoát đây? Lão đệ cần phải sống vì trách-nhiệm của lão đệ có liên quan đến sực tồn vong của dân tộc! Chúng ta không thể để cho lão đệ hy-sinh được! Lão phu có chết đi cũng chẳng có gì hối tiếc cho cái thân già mục nát này. Nhưng lão tiếc cho đứa cháu gái của lão tuổi còn thanh xuân còn làm được nhiều việc hữu ích cho quốc gia dân tộc, chỉ vì người chồng quá chấp nê, muốn làm anh hùng hảo hán mà phải cùng hy-sinh. Việc lớn chưa thành mà bao nhiêu người hữu dụng đã phải chết đi! Đó, lão tiếc là tiếc thế đó!
Văn-Thái-Lai nghe Lục-Phỉ-Thanh nói đến đây thì mồ hôi xuất ra ướt đẫm, vẻ mặt trông rất bi thương, đau xót. Bị Lục-Phỉ-Thanh dùng những lời hợp tình hợp lý mà nói khích, người anh-hùng thứ tư trong Hồng Hoa Hội bỗng thấy mềm lòng, không còn giữ vững được cái ý chí cứng rắn như sắt đá được nữa. Chàng ta đã bắt đầu xiêu lòng, rồi bỗng dưng quá xúc động trở nên hôn mê bất tỉnh. Lạc-Băng đang đứng một bên, thấy thế thì lo sợ, gục đầu vào ngực chồng mà khóc nức nở.
Lục-Phỉ-Thanh cũng hết sức hoang mang. Ông hoảng hốt kêu gọi một hồi, Văn-Thái-Lai mới tỉn lại, ngơ ngác như vừa trải qua một giấc mộng. Thấy chồng hồi tỉnh, Lạc-Băng vui sướng quá đỗi, ôm lấy chàng, lấy khăn lau khô những giọt mồ hôi đầm đề trên trán.
Văn-Thái-Lai biệt danh là Bôn-Lôi-Thủ, khét tiếng trong giới giang hồ là một cao-thủ có bản-lãn cao siêu, võ công trác tuyệt. Mới 15 tuổi, Văn-Thái-Lai đã dấn bước trong phong trần, đi khắp bốn bể, nổi danh là hiệp khách. Hai tay quyền của chàng đã đánh chết không biết bao nhiêu là tham quan ô lại của triều-đình. Ý hợp tâm đầu, Văn-Thái-Lai chung sức vì dân trừ hại nên thường đi hành hiệp một cặp như đôi chim uyên ương. Cũng không ít cường hào ác bá đền tội ác dưới đôi tay vừa mềm vừa cứng của Lạc-Băng...
Nghe mấy lời chính trực của Lục-Phỉ-Thanh, lòng gan dạ của Văn-Thái-Lai như đã héo lại. Thế mới biết con người cho dù có cứng rắn đến đâu, cũng có lúc vẫn phải ‘anh hùng khí đoản, nhi nữ thường tình’. Nằm suy nghĩ một hồi lâu, Văn-Thái-Lai nghiêng đầu, quay qua nói với Lục-Phỉ-Thanh:
-Những lời phân giải của tiền bối thật là chí lý. Phải, vãn bối chỉ vì cái sĩ khí cá nhân hão mà tí nữa quên mất đại nghĩa! Giờ đã hiểu rõ các điều lợi hại, xin hoàn toàn nghe theo lời tiền bối chỉ dạy.
Lục-Phỉ-Thanh lại lấy bức thư viết cho Châu-Trọng-Anh đưa Văn-Thái-Lai xem. Trong thư đại-khái nói đến lòng ngưỡng mộ của ông ta đối với trang-chủ, kế đến nói rõ việc mấy người bạn thân của Hồng Hoa Hội đang gặp nạn nên ngỏ ý nhờ ông ta giúp đỡ. Trong thư tuyệt đối không đề cập đến tên họ Văn-Thái-Lai, tuyệt đối giữ bí mật cho chàng mặc dù Châu-Trọng-Anh là một người nghĩa khí đáng tin cậy.
Xem thư xong, Văn-Thái-Lai nói mấy lời cảm tạ , thở ra một hơi nói:
-Khi đến Thiết-Đảm-Trang, Hồng Hoa Hội lại có thêm một ân-nhân nữa.
Trong nội-quy của Hồng Hoa Hội có ghi rõ rằng: ‘ân phải đền, oán phải trả’. Do đó mà từ trước đến nay bất luận người nào có chút ân mọn với Hồng Hoa Hội thì bằng cách nào họ cũng phải đền đáp lại cho xứng đáng mới nghe. Ngược lại, kẻ nào làm việc gì tổn hại cho hội sẽ bị coi là kẻ thù, họ cũng quyết phải trả oán cho kỳ được mới chịu. Thù nhẹ thì trả nhẹ, thù nặng thì sẽ trả nặng chứ chẳng bao giờ bỏ qua.
Sở dĩ Trấn-Viễn tiêu-cục vừa nghe đến danh Hồng Hoa Hội là hồn phi phách tán cũng vì biết rõ điều nội quy ân oán phân minh ấy. Nếu lỡ mà chuốc lấy oán rồi thì đừng mong Hồng Hoa Hội bỏ qua.
Lục-Phỉ-Thanh lại hỏi Dư-Ngư-Đồng phải đi đâu để báo tin cho bang chúng Hồng Hoa Hội gửi người tiếp viện đến đón rước và hộ tống Văn-Thái-Lai về thì Dư-Ngư-Đồng đáp rằng:
-Hồng Hoa Hội có nhà trong ba gian, nhà ngoài ba gian gồm chánh phó hương-chủ là 12 vị. Hiện tại trừ Văn tứ đương-gia và Lạc thập nhất đương-gia đang mắc nạn ở đây, tất cả người còn lại đều tập trung ở Tây-An. Ai nấy đang chờ Thiếu-Đà-Chủ về bàn việc trọng-đại của hội nhưng Thiếu-Đà-Chủ nhất định không nghe, cứ vịn lẽ còn nhỏ tuổi không dám đảm đang trọng trách của hội, thành thử cứ thoái thác mãi nên công việ chưa xúc tiến được. Thiếu-Đà-Chủ cứ một hai bảo rằng chỉ có Vô-Trần đạo-trưởng nhị đương-gia là người có đủ tài đức và năng lực để gánh vác công việc của hội mà thôi. Mà Vô-Trần đạo-trưởng nhị đương-gia đời nào chịu nên cứ thác qua thác lại với nhau mãi. Vì vậy phải chờ Tứ đương-gia và thập-nhất đương-gia về đến nơi để chính-thức bầu lên một tân Tổng-Đà-Chù cho Hồng Hoa Hội. Ngờ đâu hai vị đương-gia lại gặp nạn ở đây cho nên ai nấy vẫn nóng lòng còn đợi mãi ở Tây-An. Để tiểu-điệt lên đường về thẳng đấy mà báo tin là tiện nhất.
Nói với Lục-Phỉ-Thanh xong, Dư-Ngư-Đồng lại xoay qua nói với Văn-Thái-Lai:
-Thiếu-Đà-Chủ sai đệ đến Lạc-Dương tìm vị chưởng môn nhà họ Hàn để giải bày một việc ngộ nhận cho rõ ràng. Bây giờ đệ phải kẹt ở đây rồi nên không có ai về Tây-An báo tin cho Thiếu-Đà-Chủ biết. Theo ý Văn tứ ca thì phải làm sao đây?
Địa vị trong Hồng Hoa Hội của Dư-Ngư-Đồng ở dưới Văn-Thái-Lai nên chiếu theo quy-tắc của hội thì khi gặp việc khó khăn nan giải thì người dưới phải hỏi ý kiến người trên chứ không được tự chuyên.
Văn-Thái-Lai nghe hỏi thì trầm ngâm suy nghĩ chứ không đáp. Lục-Phỉ-Thanh biết nỗi khổ của Văn-Thái-Lai nên vội đỡ lời hộ:
-Theo ngu-kiến của lão phu thì cả ba người nên gấp rút dùng ngựa mà đi thẳng đến Thiết-Đảm-Trang thì hơn. Sau khi mọi việc xong xuôi đâu đó thì hiền điệt lập tức khởi hành đi Lạc-Dương mà tiếp tục nhiệm vụ của Thiếu-Đà-Chủ giao phó. Còn như việc về An-Tây báo tin thì cứ để mặc đó cho lão phu. Hiện tại tình thế thật là hết sức nghiêm-trọng, không nên trì hoãn nữa. Chúng ta cần phải ra khỏi nơi đây sớm chừng nào hay chừng nấy!
Những trang anh-hùng mưu-lược đều có khí-phách cả, việc nào thấy đáng làm thì làm chứ chẳng cần phải cảm tạ khách sáo. Thấy ý kiến của Lục-Phỉ-Thanh thích hợp với hoàn cảnh nên Văn-Thái-Lai cho là phải, thuận theo ngay mà không cần phải nói đi nói lại nhiều lời. Liền sau đó, Văn-Thái-Lai rút cái túi nhỏ mang trước bụng ra, lấy một cành hoa đỏ bên trong trao cho Lục-Phỉ-Thanh dặn rằng:
-Khi lão tiền bối đến An-Tây thì lấy cành hoa này mà dát lên mão đội, tự động sẽ có người của hội đến đón lão tiền bối ngay mà không cần phải hỏi thăm ai cả!
Lạc-Băng liền đỡ Văn-Thái-Lai ngồi dậy. Dư-Ngư-Đồng ôm hai cái tử thi dưới đất đặt lên giường, để nằm đối diện nhau và lấy chăn đắp lên từ chân đến ngực rồi buông mùng xuống. Lục-Phỉ-Thanh mở rộng cánh cho mọi người ra hết rồi mới từ từ khép lại như cũ.
Lục-Phỉ-Thanh phóng lên ngựa vọt nhanh như gió. Không đầy một khắc sau, Dư-Ngư-Đồng tay cầm ống sáo vàng dẫn đường đi trước, Lạc-Băng một tay chống gậy, một tay dìu Văn-Thái-Lai đi sau. Đám người trong khách-sạn đều biết ba người này không phải là phường trộm cướp hung ác mà là người của đảng phái cách mạng ‘phản Thanh phục Minh’. Họ đều là những người có tài năng phi thường, võ nghệ tuyệt luân, đảm lược quán chúng, đã từng đụng độ với quan quân triều-đình trong nhiều trận ác chiến chứ không phải là những kẻ tầm thường làm hành động ám muội gì. Vì vậy, hầu hết mọi người đem lòng kính phục, thầm biểu lộ đồng tình tuy ngoài mặt không nói năng hay tỏ ra một cử chỉ nào cả, chỉ nhìn ba người trân trân thôi mà không ai hỏi điều gì hay lên tiếng ngăn cản. Dư-Ngư-Đồng thấy vậy liền gọi đám tửu-bảo, lấy một đỉnh bạc độ năm lượng quăng xuống đất nói:
-Đó là tiền phòng và tiền ăn của bọn ta mấy ngày nay. Đồ đạc gì trong phòng chúng ta cứ để y nguyên chứ đừng đụng tới, vì sau này chúng ta sẽ còn lui tới nữa. Nếu có ai sinh sự điều gì với các ngươi, chúng ta sẽ có cách làm cho kẻ ấy phải biết tay. Cứ an tâm sống mà làm ăn, chẳng có gì phảo lo sợ cả.
Đám tửu-bảo chỉ biết vâng dạ luôn miệng chứ nào dám rục rịch gì. Nhưng ít nhiều chúng cũng sinh hảo cảm với ba người vì thấy họ thanh toán tiền bạc sòng phẳng đâu ra đó chứ không hề có ý cướp giựt hay ăn quịt.
Dư-Ngư-Đồng dắt lại ba con ngựa, giao cho Văn-Thái-Lai và Lạc-Băng mỗi người một con. Văn-Thái-Lai vì thương tích quá nặng nên không thể đạp lên ‘chân đằng’ được. Tay chàng ben vịn vào yên ngựa rồi phóng mình lên một cái nhẹ nhàng, ngồi trên lưng ngựa được vững vàng.
Dư-Ngư-Đồng buột miệng khen lấy khen để:
-Ối chà! Công-phu của Văn tứ ca thật là tuyệt diệu! Trông anh bay lên ngựa mà khoái cả cặp mắt!
Lạc-Băng mỉm cười sung sướng lên ngựa. Dư-Ngư-Đồng cũng phóng lên yên. Một đoàn ba con tuấn mã sau đó phi nước đại tiến về hướng đông. Chờ một lúc thật lâu cho đoàn người đi thật xa, đám tửu bảo mới làm bộ chạy theo làm bộ hò hét để che mắt nhà chức-trách để khỏi bị hạch hỏi sau này rằng để cho khâm-phạm chạy thoát mà không chịu tri hô lên...
Ba người kia đi khỏi thì một người lại trở về. Một chàng thanh-niên chạy thẳng từ ngoài lộ vào thẳng cửa ngõ. Đó là người đã theo quấy phá trêu chọc Trương-Siêu-Trọng chuyến vừa qua. Người ấy không ai khác hơn là Lý-Mộng-Ngọc.
Nàng vừa vào đến nơi thì giáp mặt ngay với một người từ trong cửa đi ra hình dung trông chẳng khác gì một quỷ sứ, chính là tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục Đổng-Triệu-Hòa. Lý-Mộng-Ngọc không thèm để ý đến hắn mà về thẳng lại phòng riêng mà thay đổi lại y-phục nữ-nhân. Từ một ‘trang thiếu-niên anh tuấn’, Lý-Mộng-Ngọc đã thoát xác mà trở về thành lại một ‘thiên kim tiểu thư’ đài các, mỹ miều. Nàng nghĩ thầm:
-“Mình nên tạm thời đổi lại lốt thiếu nữ đi theo kiệu bà nội với mẹ ít ngày để tránh mặt Trương-Siêu-Trọng. Sức mình chưa thể địch nổi với ông ta, chi bằng lánh mặt trước vẫn hơn”.
***
Nhắc lại ba người Dư-Ngư-Đồng, Văn-Thái-Lai và Lạc-Băng sau khi rời khỏi khách-sạn, đi theo hướng Đông rồi rẽ sang hướng Đông-Nam, dọc đường vừa đi vừa hỏi thăm đường đến Thiết-Đảm-Trang. Thoáng một cái đã đi được hơn 15 dặm đường. Thấy thoát khỏi tai ương, Lạc-Băng lòng mừng phấn khởi. Nàng nghĩ rằng một khi đã đến Thiết-Đảm-Trang rồi thì tánh mạng của chồng kể như không phải lo nữa. Châu-Trọng-Anh ở Thiết-Đảm-Trang uy danh lừng lẫy, cho đến một đứa con nít miệng còn hôi sữa cũng còn biết nói chi là người có tên tuổi trên giang-hồ. Cả hai phái Bạch-đạo lẫn Hắc-đạo chẳng ai mà không kính nể ‘Châu lão anh-hùng’.
Vì trượng nghĩa khinh tài, vì tính tình khoáng đạt rất hiếu khách, Châu-Trọng-Anh tự nhiên sẽ đặc biệt ưu đãi Văn-Thái-Lai. Như thế, chàng có thể yên tâm tĩnh dưỡng chờ khi Hồng Hoa Hội được tin Lục-phỉ-Thanh báo tới sẽ phái nhiều cao-thủ tới đón rước. Tới chừng đó thì cho đừng nói gì một Trương-Siêu-Trọng cùng với bọn chó săn kia, mà cho dẫu huy động toàn bộ cao-thủ của triều-đình Mãn-Thanh đi chăng nữa cũng vị tất làm được gì.
Lạc-Băng đang đắc ý khi nghĩ đến những điều đó thì bỗng nghe có tiếng ngựa ‘lộc cộc’ phi trên đường, rồi một đoàn ngựa cũng ba con từ đầu kia chạy lại. Đoàn người này gồm hai hán-tử trông rất mạnh khỏe, dáng người thật là nho nhã và một cụ già đầu tóc bạc phơ, mắt sáng uy nghiêm, da dẻ hồng hào. Chỉ trông sơ qua cũng đoán được là một quắc thước anh hào. Lạc-Băng hồ nghi đó là người trong Thiết-Đảm-Trang. Khi hai bên vừa chạm mặt nhau, cụ già liếc mắt nhìn Văn-Thái-Lai một cái như ngạc nhiên và kinh hãi. Vì ngựa hai bên đều phi nước đại nên hai vừa chạm mặt nhau thì không còn trông thấy nhau được nữa. Cả người lẫn ngựa đều mờ trong cát bụi tung bay. Chỉ một thoáng vụt qua là đã cách xa ngay mấy trượng rồi. Dư-Ngư-Đồng thấy nghi nghi vội nói:
-Này tứ ca, hình như cụ già cỡi ngựa qua mặt chúng ta đó là Châu-Trọng-Anh lão tiền bối, chủ nhân Thiết-Đảm-Trang đó thì phải.
Lạc-Băng vội hỏi:
-Vì lẽ nào thúc thúc lại nghi đó là Châu lão anh-hùng?
Dư-Ngư-Đồng đáp:
-Chị không để ý trên tay ông ta cầm hai ngọn thiết-đảm sao?
Văn-Thái-Lai nói:
-Ta cũng nghi đó là Châu-Trọng-Anh đến tám, chín phần. Chỉ vì chúng ta chưa gặp qua mặt ông ta lần nào, vả lại ngựa phi mau quá không trông rõ mặt được nên chưa thể quả quyết được là có đúng hay không. Chắc ông ta phải có việc gì gất rút lắm nên không tiện dừng ngựa lại. Hơn nữa, giữa đường giữa sá cũng không nên hỏi tên họ người chưa từng quen thân với mình nên ta cứ để mặc ngựa ông ta qua. Cứ chờ tới Thiết-Đảm-Trang sẽ rõ.
Sau đó ba người lại tiếp tục giục ngựa mà đi cho thật lẹ. Chẳng bao lâu, ba người đã đến Thiết-Đảm-Trang.
Mé ngoài Thiết-Đảm-Trang có một con sông nhỏ uốn khúc ven theo bờ triểng. Hai bên bờ sông đều trông trồng cây dương liễu xanh tươi, mát mẻ như cảnh trang nhã thanh tịnh của bậc ẩn sĩ chân tu. Cửa ngõ xây bằng đá gạch rất kiên cố, có cầu treo bắc ngang qua sông, trông ra xa có cả vọng lâu nữa. Cách thiết kế và bố trí của Thiết-Đảm-Trang không khác gì một ‘tiểu hoàng-thành’ của một vị vương tước, không dễ gì cho bên ngoài lọt vào được.
Bọn gia-nhân tráng đinh của Thiết-Đảm-Trang thấy có khách đến liền ra lễ phép hỏi thăm rồi mời thẳng vào trong nhà, pha trà hầu nước. Một người quản-gia tự giới-thiệu Tống-Thiện-Bằng ra tiếp đãi ân cần rồi lại hỏi tên họ ba người khách mới đến. Văn-Thái-Lai không giấu diếm, đem sự việc của mình nói ra tất cả.
Tống-Thiện-Bằng nghe nói cả ba người đều là nhân vật có tên trong Hồng Hoa Hội thì tỏ vẻ sợ sệt nói:
-Quý-vị từ Guang-Nam băng rừng vượt núi đến vùng biên-khu phía Bắc này thật gian lao khổ nhọc để tìm trang-chủ chúng tôi. Nhưng tiếc thay trang-chủ chúng tôi lại vừa ra khỏi nhà. Chẳng hay quý vị có điều chi dạy bảo?
Tống-Thiện-Bằng vốn đã nghe danh Hồng Hoa Hội từ lâu. Mà hắn được biết là trang-chủ y cùng Hồng Hoa Hội chưa hề giao-thiệp qua. Lần này lại có đến ba nhân vật Hồng Hoa Hội bất thình lình tìm đến tìm trang-chủ hắn thật không hiểu có thiện ý hay ác ý. Do đó, câu hỏi của hắn tuy là tế nhị dò hỏi thử dụng ý của khách ra sao thôi, nhưn có phần do dự lãnh đạm chứ không vồn vã ân cần.
Nghe Tống-Thiện-Bằng nói, Văn-Thái-Lai biết chắc là Châu-Trọng-Anh vừa ra khỏi cửa không có ở nhà nên phong thư của Lục-Phỉ-Thanh gửi cho Châu-Trọng-Anh chàng cũng không đưa ra, chỉ để ý xem sắc thái của Tống-Thiện-Bằng mà tùy cơ đối đáp. Thấy Tống-Thiện-Bằng bề ngoài tuy lễ mạo cung kính nhưng bên trong đối với khách phương xa không được tự nhiên, Văn-Thái-Lai không được mấy đẹp lòng. Chàng là người khảng khái, dù gặp lúc nguy khốn cũng không vì thế mà muốn hạ mình nhờ cậy một ai nên trước tình thế như vậy, chàng liền chắp tay nói:
-Nếu Châu lão anh-hùng không có mặt ở nhà thì chúng tôi xin cáo lui thôi. Chẳng qua vì nghe đại danh của Châu lão anh-hùng vang dội khắp gần xa nên chúng tôi hâm mộ, mong được gặp một lần cho thỏa bình sinh khát vọng mà thôi. Nhờ huynh đài về thưa lại cùng lão anh-hùng như vậy cho.
Nói xong, Văn-Thái-lai tay vịn thành ghế, chạm rãi đứng dậy. Tống-Thiện-Bằng liền nói:
-Xin hãy khoan! Chúng tôi xin mời ba vị tạm dùng bữa cơm đạm bạc rồi hãy lên đường.
Hắn xoay qua nói nhỏ cùng tên tráng đinh vài câu, tên ấy gật đầu đi xuống nhà sau. Văn-Thái-Lai đã quyết ra đi nên một mực từ chối, nhưng Tống-Thiện-Bằng nhất định giữ lại:
-Mong quý-vị ráng nán lại thêm một chút nữa không thì trang-chủ tôi khi về sẽ trách mắng chúng tôi sao dám đối xử thiếu lễ độ với khách của người...
Tống-Thiện-Bằng chưa nói dứt câu thì tên tráng-đinh ban nãy đã bưng lên một cái mâm thau. Trong mâm có vài ba món châu báu, một phong bạc gói lại ước độ chừng 30 lượng. Tống-Thiện-Bằng tiếp cái mâm ấy đưa đến trước mặt Văn-Thái-Lai thưa rằng:
-Thưa Văn gia! Mấy món đạm bạc này thật không xứng với cái lễ kính khách của trang-chủ chúng tôi. Nhưng rủi vì ba vị đến viếng mà không có trang-chủ ở nhà nên chúng tôi tạm dùng chút vật mọn gọi là thành tâm, mong Văn gia nhận cho, đừng vì một lẽ gì mà từ chối. Chúng tôi lấy làm hân hạnh lắm.
Văn-Thái-Lai nghe qua lửa giận phừng phừng lên, nói thầm:
-“Bọn này tưởng ta trong lúc nguy cấp mới đến đây mong cứu giúp. Chúng đặt ta vào hạng vô sỉ trong giới giang-hồ chỉ quen thói cầu cạnh, nhờ vả vào kẻ khác. Nhưng chúng đâu có biết ta hành hiệp trượng nghĩa, chỉ để cho kẻ khác cầu cạnh chứ đời nào chịu cầu cạnh vào ai! Lần này sở dĩ ta đến Thiết-Đảm-Trang là vì công việc rắc rối không còn cách nào hơn, chứ muôn phần ta không muốn lấy một. Bây giờ gặp phải việc xảy ra thế này có ăn năn thì cũng đã muộn.
Lạc-Băng nhìn sắc mặt chồng biến đổi thì lo sợ vô cùng. Kể từ khi sống chung với nhau, nàng còn lạ gì tính khí của chàng? Một khi đã bất bình chuyện gì thì việc lớn bằng trời cũng xem nhỏ như kiến mà thôi. Lạc-Băng đưa tay vịn vào vai Văn-Thái-Lai an ủi chàng, ngầm ý bảo nén cơn giận xuống, đừng quá nóng nảy mà không khéo hỏng hết chuyện.
Văn-Thái-Lai tay cầm hăi gói nguyên-bửu lên nói với Tống-Thiện-Bằng:
-Anh em chúng tôi đến quý trang không có lễ mọn nào để làm lễ tương kiến, lại hân hạnh được Tống bằng hữu tặng cho những món đáng giá thế này thì thật là quý hóa thay!
Tống-Thiện-Bằng vội vã đáp lời:
-Lời Văn gia dạy, tiểu đệ thật không dám...
Sở dĩ Tống-Thiện-Bằng đem cả mâm châu báu và tiền bạc ra mà tặng Văn-Thái-Lai vì biết rõ uy danh Hồng Hoa Hội rất lớn nên không dám xem thường. Giờ nghe Văn-Thái-Lai nói thế, hắn tưởng là thật. Ngờ đâu Văn-Thái-Lai cười nhạt mấy tiếng, để gói nguyên bửu vào mâm thau trở lại như cũ mà bảo với Tống-Thiện-Bằng rằng:
-Đa tạ Tống bằng hữu có lòng tốt, nhưng chúng tôi xin để lại mấy món quà tặng lại cho quý trang chủ để dùng vào việc khác. Thôi! Chúng tôi xin cáo từ!
Tống-Thiện-Bằng liếc mắt nhìn xem hai gói nguyên bửu mà Văn-Thái-Lai vừa trả lại y nguyên trên mâm mà bất giác hoảng kinh. Tất cả những nén bạc gói trong đó đều bị bàn tay của Văn-Thái-Lai bóp cho dẹp như bóp một cái bánh bằng bột. Hắn lấy làm bối rối vô cùng, biết là mình có mắt không tròng đã xem lầm người nên mới xảy ra chuyện rắc rối này. Hắn nói thầm trong bụng:
-“Bản lãnh người này thật là cao siêu ghê gớm chứ không phải hạng võ công tầm thường. Giờ đây hắn ta giận đến như thế ắt sẽ tìm cách trả thù chứ chẳng phải chơi!”
Lòng nghi vậy, Tống-Thiện-Bằng lại xoay qua nói nhỏ gì với bọn tráng đinh mấy câu, bọn chúng vội vã chạy vào hậu-đường
(#9) bẩm báo lại việc vừa xảy ra ở phòng khách cho người chị cả trong gia đình hay, còn tự hắn đích thân đưa tiễn khách ra tận cửa, cố dùng lời nhỏ nhẹ, hết sức năn nỉ về sự sơ sót vô ý thức của hắn.
Văn-Thái-Lai chẳng thèm quay lại, mà cũng chẳng buồn nói thêm một lời nào nữa. Lúc ấy, ba tên tráng đinh của Thiết-Đảm-Trang dắt ba con ngựa đến. Văn-Thái-Lai và Dư-Ngư-Đồng hướng về Tống-Thiện-Bằng đưa tay lên nói:
-Chào ‘sư-phụ’!
(#10)Sau đó hai người nhảy lên yên ngựa. Lạc-Băng lấy trong người ra một đỉnh vàng ròng chừng 20 lượng đưa cho tên tráng đinh đứng đàng trước nói:
-Tôi có chút đỉnh gọi là đền đáp công lao khó nhọc của ba vị huynh đệ. Hãy nhận lấy mà chia đồng đều cho nhau.
Nói xong, nàng lấy tay ngoắc hai tên kia chỉ cho thấy. Tống-Thiện-Bằng không ngờ việc xảy ra ngoài ý nghĩ của hắn. Số vàng ròng mấy chục lượng mà Lạc-Băng cho ba tên tráng đinh giữ ngựa cho ba người so với số bạc và châu báu của Tống-Thiện-Bằng gọi là thay mặt trang-chủ tiễn khách còn giá trị hơn gấp mấy lần.
Ba tên tráng đinh cả đời nghèo khổ, làm hùng hục như trâu, dù hết sức tiết kiệm dè xẻn còn chưa có được vài chục lượng bạc chứ nói chi vàng! Tự nhiên số hên, gặp được người hảo tâm cho quá nhiều như vậy, phải nói là gấp bao nhiêu lần tài sản hiện có của ba người cộng lại, bảo sao không vui mừng sung sướng cho được!
Tên tráng đinh cầm đỉnh vàng trong tay mà cảm thấy run run , miệm ngập ngừng mãi mà không nói ra được tiếng cám ơn. Hai tên kia cũng thế, chỉ biết nhìn Lạc-Băng với ánh mắt vừa ngạc nhiên, vừa cảm kích. Lạc-Băng nhoẻn miệng cười rồi phóng mình lên yên ngựa...
Lạc-Băng là con của Thần-Đao Lạc-Nguyên-Thông, nguyên là một ‘độc hành đại đạo’
(#11). Một mình một đao, ông ta thường đánh cướp thường đánh cướp của những cự phú cường hào.
Có lần trong một đêm, ông ta đánh cướp liên tiếp một lượt cả chục nhà cự phú quyền thế nhất trong thành Kim-Lăng. Tên tuổi Lạc-Nguyên-Thông từ đấy làm rúng động giang-hồ. Trước khi đánh cướp một nhà nào, Lạc-Nguyên-Thông đều điều tra thật kỹ lưỡng thân thế, đức độ người ấy ra sao. Nếu là người chuyên làm điều bất nghĩa, thì cho dù là người nào đi chăng nữa, Lạc-Nguyên-Thông sẽ cướp cho kỳ hết mới thôi, mặc cho kẻ đó có phòng bị cẩn thận đến thế nào.
Cứ một lần Lạc-Nguyên-Thông ra tay thì số vàng bạc châu báu cướp được rất nhiều, chứa đầy kho. Tuy mang danh là đại đạo, nhưng Lạc-Nguyên-Thông rất được lòng người vì tính tình ông ta rất hào phóng, hay lấy của cải phân phát, giúp cho người nghèo.
Lạc-Nguyên-Thông chỉ có được một mụn con gái là Lạc-Băng nên rất là cưng chiều. Lạc-Băng ra đời không bao lâu thì vợ mất, thành thử Lạc-Nguyên-Thông phải kiêm cả vai nghiêm-phụ lẫn từ mẫu.
Lạc-Băng tuy kính sợ nhưng rất quý mến cha. Ngay từ lúc bé, nàng đã được thân phụ rèn luyện trở thành một nữ anh hào, tính khí giống hệt như Lạc-Nguyên-Thông.
Trong nhà vàng bạc châu báu, ngọc ngà chất như núi, không thiếu một thứ gì cho nên Lạc-Băng không bao giờ bị thiếu thốn về vật chất. Từ cách tiêu xài cho đến lối ăn mặc, dẫu cho các thiên kim tiểu-thư của hoàng thân quốc thích, công hầu khanh tướng cũng chưa chắc gì sánh được với nàng. Cũng như cha, Lạc-Băng luôn đem vàng bạc, của cải ra giúp đỡ nghèo khổ, lại hay bênh vực những kẻ sức yếu, thế cô. Trong vùng, dân chúng ai ai cũng quý mến và cảm phục hai cha con Lạc-Nguyên-Thông, xem là ân nhân của họ.
Lúc nhỏ, Lạc-Băng hay cười. Một niềm vui nho nhỏ cũng có thể làm cho nàng cười cả nửa ngày không biết chán. Ai trông thấy Lạc-Băng cười cũng phải tươi vui, khoan khoái. Khi lớn lên, lấy Văn-Thái-Lai làm chồng, tính tình nàng vẫn không hề thay đổi.
Văn-Thái-Lai lớn hơn Lạc-Băng đến 10 tuổi. Tính Văn-Thái-Lai vội vàng, hay nóng nảy. Trong Hồng Hoa Hội, ngoại trừ vị cố Tổng-Đà-Chủ Vu-Vạn-Đình, bình sinh Văn-Thái-Lai chỉ phục có người vợ xinh đẹp mà chàng xem là ‘Ngọc-Nữ tái’ sinh hay ‘Hằng-Nga giáng thế’ là Lạc-Băng mà thôi.
Tống-Thiện-Bằng thấy Lạc-Băng lấy ra đến mấy chục lượng vàng ròng thưởng cho bọn tráng đinh của hắn thì cảm thấy quá thẹn thùng khi nghĩ đến mâm đồ của hắn đem ra dùng để tiễn khách.
Vừa lúc Văn-Thái-Lai định thúc ngựa lên đường thì nghe có tiếng vó ngựa dập dồn. Một người từ đâu phóng ngựa như bay đến trước đầu ngựa của Văn-Thái-Lai rồi vội vàng nhảy xuống lễ phép vòng tay hướng về Văn-Thái-Lai nói:
-Có phải ba vị định viếng tệ trang phải không? Xin mời vào trong nhà cho chúng tôi được hầu chuyện.
Văn-Thái-Lai nói:
-Chúng tôi đã được hân hạnh vào trong, vừa mới trở ra tức thì. Thôi, xin hẹn ngày khác sẽ đến bái kiến sau.
Người ấy lại nói:
-Chúng tôi được gặp ba vị giữa đường. Lão trang-chủ đoán chừng ba vị đến thăm tệ trang nên định quay ngựa trở lại nhưng bởi vì trang-chủ có việc gấp phải đi nên sai tiểu đệ một mình phi ngựa quay về để đón tiếp khách quý. Lão trang-chủ từ xưa đến nay rất thích giao du bằng hữu nên chỉ nhìn thoáng qua là đã sinh lòng ái mộ, hiểu ngay ba vị là những trang anh-hùng, những đại hào kiệt. Lão trang-chủ nói rằng sớm muộn gì nội chiều nay phải về để hội kiến với ba vị mới thỏa lòng. Do đó, người sai tiểu đệ giá nào cũng phải cầm ba vị lại cho kỳ được. Nơi đây không phải là chỗ đứng tiếp ba vị. Xin mời vào nhà trong kẻo lỡ lão trang-chủ có về bất tử thì thế nào cũng mắng tiểu đệ là bất kính với khách quý, thì tiểu đệ làm sao mà ăn nói với lão trang-chủ đây?
Văn-Thái-Lai nhận ra là một trong ba người mà lúc nãy gặp qua trên đường đi. Thấy chàng ta lễ phép, nói toàn những lời thành thật và ân cần thì nư giận cũng đã giảm đi quá phân nửa. Chàng ta tự giới-thiệu là Mạnh-Kiện-Hùng, đại đệ-tử của Thiết-Đảm-Trang Châu-Trọng-Anh. Sau đó, Mạnh-Kiện-Hùng mời cả ba người vào trong. Tống-Thiện-Bằng luýnh quýnh, mời khách ngồi vào dùng trà với Mạnh-Kiện-Hùng. Một tên tráng đinh kề tai nói nhỏ điều gì, chỉ thấy Mạnh-Kiện-Hùng đứng dậy chắp ay thưa rằng:
-Sư nương của tiểu đệ xin mời vị nữ hiệp vào nội đường nghỉ mệt.
Lạc-Băng bèn đứng dậy theo tên tráng đinh ấy vào trong. Đi đến nhà cầu thì có một đứa thị-nữ chạy ra rước nàng, lại nghe có tiếng đàn bà nói lớn rằng:
-Có khách quý đến chơi mà không ra tận nhà ngoài đón rước thì thật tệ quá!
Một phụ-nữ tuổi độ 40, trông vẫn còn xuân sắc đi đến cầm tay Lạc-Băng ra chiều thân mật nói:
-Vừa rồi được nghe mấy đứa trẻ cho biết có các vị anh-hùng trong Hồng Hoa Hội đến thăm. Nhưng chưa kịp ra đón tiếp thì lại nghe mấy vị từ giã mà đi rồi. Lòng tôi thật phân vân không hiểu vì sao các vị lại vội vàng quá vậy. May mắn thay được các vị quay gót ngọc trở lại. Ở địa phương này dân trí chưa được mở mang gì cho lắm nên kiến thức của người trong trang thật là kém cỏi, nếu chưa muốn nói là tệ hại. Xin nữ-hiệp rộng lượng mà tha thứ cho.
Quay qua mấy đứa tỳ-nữ, người đàn bà ấy nói:
-Vị nữ-hiệp đây ắt là sử kiếm lẹ làng vô cùng, tưởng sánh với tiểu thư chúng ta chưa biết ai hơn ai kém.
Lạc-Băng nghe cách xưng hô mà hết sức phân vân, không biết người đàn bà này là người thế nào trong gia trang nên hỏi:
-Tiểu muội mới tới đây lần đầu nên thật không biết phải xưng hô với tỷ tỷ như thế nào? Tiểu muội họ Lạc, tên Băng, còn trượng-phu họ Văn đang nói chuyện ở phòng khách.
Người đàn bà liề đáp:
-Vậy mà cứ tưởng nữ-hiệp đây là em của vị tướng công kia. Sao trông còn trẻ măng, lại đẹp như tranh vẽ thế? Tôi đoán lầm, xin nữ-hiệp tha thứ cho nhé!
Thấy người đàn bà chưa nói rõ thân phận của mình, một đứa tỳ-nữ bèn nói hớt:
-Đây là chị lớn trong gia đình của chúng tôi, và cũng là Thiết-Đảm-Trang nữ chủ nhân.
Bấy giờ Lạc-Băng mới biết người đàn bà này là vợ của Châu-Trọng-Anh. Mà nãy giờ nàng cứ tưởng là con gái của ông ta. May mà nàng ý nhị nên không vội nhanh nhẩu, chứ thiếu chút nữa mà xưng hô lầm thì thật là tai hại.
Lạc-Băng vui vẻ nói:
-Nay đã biết nhau rồi, xin cứ xem nhau như chị em, xin đừng dùng tiếng nữ hiệp, tiểu muội thẹn lắm.
Người đàn bà ấy cũng nói:
-Ai lớn tuổi hơn là chị. Thôi, tôi là chị, cô là em nghe. Dùng tiếng chị em nghe cho thân mật.
Nguyên người đàn bà này là vợ thứ nhì của Châu-Trọng-Anh. Đời vợ trước sinh được hai trai, nhưng cả hai đều lần lượt chết cả chỉ vì tính khí kiên cường trong giới giang hồ. Người vợ kế này của Châu-Trọng-Anh chỉ hạ sinh được có một gái đặt tên là Châu-Ý, năm nay được 18 cái xuân xanh. Châu-Ý tính tình cương ngạnh, không chịu bị bó buộc trong gia-đình nên thường ngày chỉ thích ra ngoài gây chuyện rắc rối. Vừa rồi, chính vì chuyện của Châu-Ý gây họa mà đích thân Châu-Trọng-Anh phải đi dàn xếp cho yên. Châu-Ý đánh người đến phải bị trọng thương. Dầu chịu hứa bồi thường nhưng gia đình của nạn nhân vẫn không bằng lòng. Châu-Trọng-Anh không phó thác được cho ai việc này nên đành phải xuống nước, hạ mình mà năn nỉ.
Người vợ kế của Châu-Trọng-Anh sau khi sinh được một gái thì tuyệt nhiên ngưng hẳn, không còn đem đến một tin vui nào khác cho sự mong mỏi của chồng nữa. Châu-Trọng-Anh tưởng vợ mình niên kỷ đã cao nên không còn sinh đẻ gì được nữa, nên cho đó là số phận do trời định chứ cũng chẳng có gì phiền trách hay miễn cưỡng lại được. Ngờ đâu đến năm 40 tuổi, giữa lúc mọi hy-vọng có tông đường nối dõi tiêu tán, không cầu trời khấn Phật chi cả, lại sinh được một cậu bé ngoan ngoãn dễ thương.
Vợ chồng già mà sinh con muộn nên khi nhớ lại câu ví của thiên-hạ là ‘con trai già sinh ngọc’
(#12), sự vui mừng sung sướng của Châu-Trọng-Anh càng gia tăng đến cực độ, cho rằng đời ông ta không còn sự việc nào vui hơn hay quan-trọng hơn được nữa.
Châu-Trọng-Anh cưng chiều cậu bé còn hơn tất cả những ngọc ngà quý báu trên trần gian. Ông ôm ấp trong lòng một cao vọng rằng sau này đứa con trai sẽ nối được chí cha, sẽ giữ vững được cơ nghiệp gia sản, sẽ làm rạng rỡ tông môn. Vì thế, Châu-Trọng-Anh quyết rèn luyện, uốn nắn con mình thành một trang nam-tử hữu dụng. Ông mướn thầy dạy cho đạo-nghĩa văn-chương, lại tự mình đem những kỹ thuật cao siêu về võ-học ra bí truyền lại cho. Vì vậy mà tuổi tuy còn nhỏ mà cậu bé đã có được một bản-lãnh gia truyền đáng kể...
Người kế thất
(#13) của Châu-Trọng-Anh mời Lạc-Băng ra ngồi dùng trà xong bèn gọi liền cho một con tỳ-nữ là Ngọc-Lan gọi đứa con trai ra làm lễ tương kiến vị nữ-hiệp của Hồng Hoa Hội.
Từ buồng trong bước ra một cậu bé với khuôn mặt rất dễ coi; mắt sáng, môi son, trán rộng cằm vuông, chân tay dài, thân hình vạm vỡ trông lanh lẹ và mạnh mẽ, to lớn hơn các đứa trẻ cùng trang lứa rất nhiều.
Vừa trông thấy tướng mạo đứa nhỏ, Lạc-Băng đã nghĩ thầm:
-“Có được đứa con trai thế này chả trách Châu lão anh-hùng một mực nuông chiều! Chỉ cần nhìn qua cách đi đứng cũng dư biết nó đã học qua những ngón võ công trác tuyệt của lão anh-hùng truyền lại.”
Cậu bé vừa trông thấy Lạc-Băng liền lễ phép cúi đầu chào:
-Cháu xin chúc thím được vạn phúc.
Lạc-Băng với tới nắm tay đứa bé kéo vào lòng mình, thân mật hỏi:
-Cháu tên gì? Năm nay được bao nhiêu tuổi?
Đứa bé ngoan ngoãn thưa rằng:
-Dạ, cháu tên là Châu-Anh-Kiệt, năm nay được 10 tuổi.
Lạc-Băng lấy trong cái hộp đựng châu báu của nàng mấy hạt minh châu rất đẹp và quý giá vui vẻ đặt vào tay Châu-Anh-Kiệt nói:
-Từ ngàn dặm xa xôi ghé đây nên không chuẩn bị trước mà đem theo những gì xứng đáng để cho cháu, chỉ có mấy hạt minh châu này cho cháu dùng mà gắn lên mão đội chơi.
Người vợ kế của Châu-Trọng-Anh thấy mấy hạt minh châu vừa to, vừa tròn, màu sắc long lanh đệp đẽ, không một vết tích gì trầy trụa, đáng giá cả vạn lượng bạc trở lên thì lập tức dạy con cúi đầu lạy tạ ơn.
Giữa lúc đang vui vẻ trò chuyện thì một con tỳ-nữ hớt ha hớt hãi chạy từ ngoài vào nói với Lạc-Băng:
-Thưa nữ-hiệp, Văn gia bệnh nặng, mê man sảng sốt. Xin nữ-hiệp gất rút ra ngoài xem thử bệnh tình thế nào đặng sớm lo phương cách điều trị.
Người vợ kế của Châu-Trọng-Anh vội vàng sai người đi rước lang y trứ danh của gia đình đến ngay để xem xét bệnh tình cho Văn-Thái-Lai.
Lạc-Băng cũng lập tức theo con nữ-tỳ ra đàng trước đặng săn sóc cho Văn-Thái-Lai. Từ lúc chàng bị trọng thương, nàng không một khắc nào rời khỏi chồng. Chẳng qua vì lần này vợ của Châu-Trọng-Anh mời vào trong uống trà đàm đạo nên nàng mới phải tạm để Văn-Thái-Lai ở ngoài với Dư-Ngư-Đồng hầu chuyện với Mạnh-Kiện-Hùng vậy thôi. Nay nghe tin chồng mê sảng, Lạc-Băng hốt hoảng vô cùng.
Văn-Thái-Lai từ lúc bị thương trầm trọng được Lạc-Băng liều thân cứu mạng đem về tĩnh dưỡng ở khách-sạn An-Viễn. Tuy gọi là tĩnh dưỡng nhưng bọn công-sai triều-đình cứ theo dõi từng phút từng giây thành thử nhiều phen chàng đau có lúc nào yên tâm được! Văn-Thái-Lai tính lại nóng như lửa đốt nên rất dễ giận một khi gặp chuyện gì chạm đến danh-dự. Và cứ mỗi lần giận dữ là một lần động đến các vết thương, vì vậy lại càng khó mà bình phục lại được. Đôi khi, chàng không nhịn nổi đến phải dùng cả sức lực nữa. Như lần chàng vừa hét lớn vừa ra tay điểm huyệt Đổng-Triệu-Hòa vì hắn nói năng đụng chạm đến cả Lạc-Băng lẫn chàng. Rồi lại dùng quyền đánh gẫy xương bả vai của Ngô-Quốc-Đống. Mỗi lần sử dụng đến sức lực như vậy là một lần hao tổn nguyên khí không phải ít. Với người đang bị trọng thương thì chuyện hao tổn nguyên khí là một tai hại không phải nhỏ. Nghe theo lời Lục-Phỉ-Thanh bằng lòng tìm đến Thiết-Đảm-Trang, Văn-Thái-Lai phần thì mệt mỏi bởi đường xa, và vì phải cỡi ngựa một thời gian khá lâu nên ít nhiều các vết thương lại bị động, rồi giận Tống-Thiện-Bằng coi thường mình bèn vận nội công bóp dẹp túi bạc nên càng mất sức thêm. Đã vậy, trong lòng còn mang một trách nhiệm nặng nề, hận chưa về ngay được để thuật lại cho Thiếu-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội nghe. Văn-Thái-Lai không khi nào nằm yên mà trí óc không bận rộn. Cứ như thế mà các vết thương không những không lành, mà còn tăng thêm phần nguy hại là đàng khác!
Chàng là người trọng nghĩa khí, quý danh-dự, dám vì bằng-hữu mà xem thường tánh mạng của mình. Khi phải đương đầu với kẻ địch, dù là Trương-Siêu-Trọng hay với thiên binh vạn mã của triều-đình Mãn-Thanh, Văn-Thái-Lai cũng chẳng hề rúng động hay sợ hãi gì mà trốn tránh. Bản tính hào kiệt của chàng khiến cho giới giang-hồ kính phục, luôn cả kẻ đối đầu cũng phải nể vì, xem chàng như một ‘Quan-Vũ tái sinh’...
Khi được Mạnh-Kiện-Hùng thay mặt Châu-Trọng-Anh ân cần mời đón trở lại Thiết-Đảm-Trang, dầu nộ khí của Văn-Thái-Lai có hạ xuống nhưng uất hận vẫ chưa tan nên lúc nằm nhỉ mệt, những việc đã qua lại làm cho chàng phiền não. Các vết thương trong người lại vì thế mà bộc phát trở lại nên Văn-Thái-Lai bị hôn mê...
Lạc-Băng chạy đến nơi nhìn sắc diện chồng không còn chút huyết sắc nào. Mặt thì tái mét, trán thì rịn mồ hôi, còn chân tay thì lạnh ngắt như đồng. Bỗng nhiên, Lạc-Băng chợt cảm thấy như xây xẩm cả mặt mày. Lòng nàng vừa đau xót, vừa lo sợ mà chẳng biết làm gì hơn, mồm luôn tiếng gọi:
-Tứ ca! Tứ ca!
(#14)Mọi người xum lại, dùng đủ phương cách để cứu cấp. Một lát sau, Văn-Thái-Lai mới từ từ tỉnh lại được. Lạc-Băng thấy chồng đã thoát khỏi cơn nguy hiểm nên mới định thần lại được.
Mạnh-Kiện-Hùng sai tráng đinh ra ngoài thị-trấn thỉnh lương-y, đồng thời mua sẵn các vị thuốc tốt, đắt tiền để sau khi lương-y chẩn mạch thì có sẵn thuốc mà sắc liền cho Văn-Thái-Lai uống. Vợ của Châu-Trọng-Anh cũng sai người phải tức tốc lên đường tìm trang-chủ mà báo tin này đặng ông ta sau này khỏi trách mắng là thiếu thành kính với khách quý đang bệnh nặng trú ngụ tại sơn-trang. Thấy Mạnh-Kiện-Hùng và gia-đình Châu-Trọng-Anh quả thật tâm quý trọng Văn-Thái-Lai, ân cần lo lắng cho bệnh tình của chồng, Lạc-Băng rất cảm kích và thấy an tâm.
Mạnh-Kiện-Hùng không hổ danh là đại đệ-tử của Thiết-Đảm-Trang. Chàng đích thân đứng ra điều động mọi việc thay trang-chủ, hiện đang tạm thời vắng mặt. Tất cả mọi người trong Thiết-Đảm-Trang, từ trên xuống dưới đều răm rắp nghe theo lời chàng phán quyết mà thi hành.
Tống-Thiện-Bằng thấy cách đối xử quá trọng vọng của Mạnh-Kiện-Hùng với Văn-Thái-Lai như vậy thì hết sức ăn năn về chuyện thất lễ của hắn vừa qua. Chỉ nội điểm này, Tống-Thiện-Bằng cũng đoán được Văn-Thái-Lai là nhân vật như thế nào rồi chứ không phải những khách tầm thường khác đến thăm Thiết-Đảm-Trang. Để chuộc lại phần nào sự khiếm lễ đó, Tống-Thiện-Bằng cũng mau mắn, tận tình săn sóc cho Văn-Thái-Lai thật chu đáo như bất cứ một ai, cần sai bảo điều gì đã có hắn túc trực.
Lạc-Băng nhìn theo đám tráng đinh nhà Châu-Trọng-Anh cỡi ngựa phi ra ngã Thiện-Gia-Bảo, đang vừa muốn quay vào trong hỏi vợ Châu-Trọng-Anh xem bệnh tình Văn-Thái-Lai biến chuyển ra sao chợt trông thấy phía sau tàng cây dương liễu ngoài bờ sông trước ngõ trang trại có một bóng người thấp thoáng. Lạc-Băng sanh nghi, mắt hướng về cây dương liễu ấy quan sát thật kỹ càng thì quả nhiên thấy một bóng người từ gốc cây, thoắt một cái nhảy lên cây lẹ làng như một con vượn. Cành lá trên cây khẽ rung động tựa như vừa có một cơn gió mạnh thổi tạt qua.
Hành-động lạ lùng ấy làm cho Lạc-Băng trở nên bàng hoàng. Nàng đoán chừng bóng người ấy đã trông thấy nàng, sợ bại lộ tung tích nên mới tìm cách trốn tránh như thế kia. Nghĩ vậy, Lạc-Băng liền gọi Mạnh-Kiện-Hùng bảo riêng cho biết sự việc nàng vừa chứng kiến.
Mạnh-Kiện-Hùng giả tảng làm như không để ý, bảo Lạc-Băng cứ vào bên trong nói chuyện với vợ Châu-Trọng-Anh như thường mà chẳng phải lo ngại gì cả. Chàng khẽ cho biết là đã có chủ trương, phải cố hành động bình thường để cho bóng người trên cây khỏi nghi ngờ. Chàng cũng không quên trấn an Lạc-Băng là có đủ phương tiện và khả năng để bảo-vệ cho Văn-Thái-Lai dẫu cho có đụng phải cường địch.
Lạc-Băng tin tưởng vào lời nói đầy vẻ chân thật của người đại đệ-tử Thiết-Đảm-Trang. Thêm vào đó, sơn-trang lại được thiết kế thật là kiên cố, cộng thêm với sự tuần-phòng hết sức cẩn mật thì người ngoài có ý muốn đột nhập vào hay làm chuyện mờ ám thì không phải là một chuyện dễ.
Lạc-Băng vào trong rồi, Mạnh-Kiện-Hùng dùng mật hiệu gọi riêng một người tráng đinh tâm phúc để ý coi chừng từng hành động của bóng người núp trên nhành dương liễu kia, còn đích thân chàng leo lên vọng lầu mà quan sát. Từ một cái lỗ hổng bí mật trên vọng lầu, Mạnh-Kiện-Hùng mở rộng nhãn giới ra nhìn. Cái lỗ hổng đặc biệt này, nếu ở trên vọng lầu ghé mắt vào nhìn ra thì thì thấy bao quát đưọc hết chung quanh, nhưng ở bên ngoài thì tuyệt đối không biết và không tài nào phát hiện được. Quả nhiên, Mạnh-Kiện-Hùng trông thấy một đầu người ló ra trong đám cành lá dương liễu xanh um.
Cái bóng ấy núp mình rất kín, nhờ khéo ẩn thân vào mấy nhánh dương liễu che áng bên trong nhìn ra nên ở phía dưới khó mà phát hiện được. Nhưng nếu ở trên vọng lầu trông xuống và trông xuyên qua thì cái đầu không làm sao che dấu được. Để ý nhìn thật kỹ, Mạnh-Kiện-Hùng thấy bóng người lay động từng hồi dường như đang chú tâm dò xét tỉ mỉ từng ly từng tí tất cả những sự việc gì đang xảy ra bên trong Thiết-Đảm-Trang. Chàng nhận thấy người này có nhiều tà ý hơn là thiện ý, là một nhân vật hiểm ác chứ không phải bậc hiền nhân quân-tử.
Mạnh-Kiện-Hùng bèn xuống khỏi vọng lầu gọi Châu-Anh-Kiệt đến ghé tai nói nhỏ vài câu. Châu-Anh-Kiệt lộ vẻ khoan khoái, miệng nói, môi cười:
-Vậy thì thật thú vị cho cháu biết bao nhiêu!
Dụng ý Mạnh-Kiện-Hùng đem Châu-Anh-Kiệt làm chuyện này vì cậu ta được một lợi điểm là mới 10 tuổi, không ai lưu tâm đến cậu ta cả. Nhìn Châu-Anh-Kiệt đứng sau lưng Mạnh-Kiện-Hùng trông chẳng khác gì châm-chác núp bóng người khổng-lồ.
Mạnh-Kiện-Hùng dùng thuật khinh công bay vọt một cái tung lên như một con diều hâu trong một tư thế sắp sửa tấn công quắp một chú gà con. Chỉ trong nháy mắt chàng đã ra khỏi cửa ngõ, xẹt ngang đáp xuống trên nhánh cây dương liễu, giọng cười hăng hắc nói lớn:
-Này huynh đệ, làm gì mà ngồi núp trên đây vậy? Rình mò cái giống gì mà kiên nhẫn từ nãy giờ không chịu xuống? Thôi, làm ơn xuống giùm đi! Có chuyện gì thú vị thì xin làm ơn kể cho tất cả mọi người cùng nghe chơi!
Người ở trên cây nghe nói thì nhột nhạt quá không biết phải xử trí ra sao. Y đánh liều, từ trên cây dương liễu buông mình thả nhẹ xuống như một chiếc lá rụng. Chân vừa chạm đất, hắn đã dùng thuật khinh công chạy thoăn thoắt như một con mồi bị thợ săn đuổi. Nhưng hắn vừa chạy lại nghe ngay sau lưng có tiếng người đuổi sát nút, vừa rượt vừa kêu:
-Vị thúc thúc kia! Xin đứng lại đi chứ đừng chạy đâu cho mệt, vì có biết ‘cân đấu vân’ như Tề-Thiên Đại-Thánh và có chạy đến Nam-Thiên-Môn cũng không thoát khỏi tay tôi đâu!
Số là sau khi Mạnh-Kiện-Hùng phi thân lên cây lật tẩy kẻ rình trộm trên đó thì Châu-Anh-Kiệt theo kế hoạch đứng chờ sẵn ở phía dưới. Khi kẻ rình trộm vừa nhảy xuống đất tức thì cậu ta chạy theo ngay, rượt bén gót.
Mạnh-Kiện-Hùng sợ Châu-Anh-Kiệt còn trẻ con vì thấy cậu ta tinh nghịch toan nắm lấy đầu tóc của người kia và suýt nữa đã nắm được. Chàng lo sợ nhỡ người kia bất thình lình quay lại dùng ám khí phóng ra thì còn gì là mạng của Châu-Anh-Kiệt nữa.
Theo kế hoạch của Mạnh-Kiện-Hùng dự định là khi chàng nhảy lên trên cây dương liễu thì theo phản ứng tự nhiên, người kia phải nhảy xuống. Châu-Anh-Kiệt thì chực ngay gốc đàng sau gốc dương liễu, sẽ nhảy ra dùng một thế võ bí truyền của Châu-Trọng-Anh dạy khóa tay bắt sống lấy hắn, vừa bất ngờ, lại vừa được dịp cho cậu bé trổ tài làm rạng rỡ uy danh Thiết-Đảm-Trang. Nghĩ như vậy nên Mạnh-Kiện-Hùng mới dám làm chuyện mạo hiểm đó, vì đinh ninh sau khi Châu-Anh-Kiệt bất ngờ khóa được tay kẻ ấy thì mọi việc sau đó đã có chàng lo liệu hết. Thế nhưng mọi việc xảy ra lại khác hẳn, ngoài sự tiên liệu của Mạnh-Kiện-Hùng.
Người kia khi thấy Mạnh-Kiện-Hùng phi thân lên cây đột ngột thì hắn quả không biết có Châu-Anh-Kiệt đứng phục dưới gốc cây. Đáng lý phải nhảy xuống chỗ Châu-Anh-Kiệt đứng phục sắn, là chỗ an toàn hơn, thì trong lúc vội vàng liều lĩnh, hắn lại nhảy xuống phía bên kia gốc cây là nơi có một cái giếng đá khá sâu và những miếng đá nhọn như những mũi dao chổng lên. Từ trên cao cách mặt đất đến 15 thước, hoặc giả hắn rơi xuống giếng sâu hay nằm đè lên những miếng đá nhọn kia thì kết quả cũng chẳng khác nhau bao nhiêu. Nhưng quả thật là mạng hắn quá lớn nên rơi đúng vào khoảng đất trống rất nhỏ giữa những mẩu đá nhọn lởm chởm kia, chỉ vừa đủ cho hai bàn chân hắn đáp được an toàn. Vì thế, không những hắn thoát khỏi được tử thần trong đường tơ kẽ tóc mà còn thoát luôn cả việc bị bắt sống, thành ra mưu của Mạnh-Kiện-Hùng thất bại.
Còn Châu-Anh-Kiệt không được dịp trổ tài dùng võ bí truyền khóa tay bắt sống được người kia thì tức lắm, nhất định rượt theo đến cùng vì cậy trong mình có võ-nghệ.
Châu-Trọng-Anh bình nhật rất mực chiều chuộng đứa con trai nên cậu bé muốn học bất cứ thế võ nào ông ta cũng gắng công mà truyền hết cho. Mặc dầu bản lãnh Châu-Anh-Kiệt chưa đạt được đến mức siêu việt nhưng cũng không phải là tầm thường. Châu-Trọng-Anh lại dùng một thứ thuốc riêng đặc biệt tẩm vào tay chân Châu-Anh-Kiệt và luyện cho cậu ta thành ‘thạch thủ thiết túc’
(#15). Do đó mà chân tay của Châu-Anh-Kiệt còn cứng rắng hơn chân tay của người lớn. Một quyền hay một cước của cậu ta vào chỗ nhược có thể lấy mạng người như chơi.
Đồng thời, Châu-Trọng-Anh còn dạy cho con cả nội-gia lẫn ngoại-gia công phu, luôn cả khinh công lẫn thuật phi hành. Do đó, những tay bản-lãnh tầm thường trên giang-hồ đương nhiên không làm sao sánh nổi với Châu-Anh-Kiệt. Tuy nhiên, với số tuổi còn non, lại chưa có kinh nghiệm chiến đấu ngộ trận nên chưa thể thắng được những kẻ giang-hồ lão luyện, cho dù có bản lãnh cao cường. Đã có không biết bao nhiêu trường hợp xảy ra, kẻ mang bản lãnh cao siêu còn phải chết vì bản lãnh của mình nếu địch thủ dùng ngụy kế ám toán. Châu-Anh-Kiệt dầu sao vẫn còn trẻ con, tránh sao được tính háo thắng, thích nô đùa. Châu-Trọng-Anh lẽ nào không biết trước được như vậy mà không để ý ngăn ngừa! Chẳng qua là vì ông ta tin tưởng có mình kềm chế ở nhà luôn một bên, lại dặn trước các đệ-tử đừng xúi Châu-Anh-Kiệt làm điều gì nguy hiểm nên chắc cũng không đến nỗi xảy ra điều gì đáng tiếc phải ân hận.
Châu-Trọng-Anh truyền dần các môn võ công tuyệt đỉnh của mình cho con không phải để ứng dụng bây giờ, mà là vì ôm ấp hoài bãi, hy-vọng rằng sau này Châu-Anh-Kiệt sẽ có được một bản lãnh phi thường để nối chí ông ta, và sẽ đem tài sức ra làm những việc hữu ích cho xã hội lẫn quốc gia.
Tính tình Châu-Anh-Kiệt cũng ngoan ngoãn thuần thục nên Châu-Trọng-Anh rất mừng, không sợ ngày sau trở thành phường gian manh làm mất thanh danh không những cho chính mình và gia đình mà còn làm nguy hại cho đồng bào tổ-quốc nữa! Chính vì những nhận xét ấy mà Châu-Trọng-Anh cưng con hơn hầu hết những người làm cha khác.
Đối với Mạnh-Kiện-Hùng cũng vậy. Chàng ta là cao đồ đắc ý nhất của Châu-Trọng-Anh. Ông rất tin cậy Mạnh-Kiện-Hùng và thương yêu chàng ta như con ruột. Tất cả những gì Châu-Trọng-Anh biết, ông đều dạy lại hết cho Mạnh-Kiện-Hùng, vì ông ta đã tính đến chuyện ngày nào rủi có bị chết bất ngờ thì đã có người thay thế ông ta mà chăm nom, giáo huấn cho Châu-Anh-Kiệt. Võ công tuyệt đỉnh của Thiết-Đảm-Trang sẽ không vì đó mà bị thất truyền. Ông vẫn thường gọi Mạnh-Kiện-Hùng ra nói riêng:
-Thầy xem con cũng như là con ruột của thầy vậy. Con phải xem Châu-Anh-Kiệt như em ruột của con. Hai đứa đều là con ruột yêu quý của thầy. Thầy chỉ ước ao sau này hai con sẽ làm nên những chuyện ‘kinh thiên vĩ địa’ mà người ta không tách rời hai đứa ra được. Và trên giang-hồ sẽ đồn mãi biệt danh ‘Thiết-Đảm-Trang Song Kiệt’.
Tất cả mọi công việc lớn nhỏ, Châu-Trọng-Anh đều giao cả cho Mạnh-Kiện-Hùng. Chàng làm việc đâu vào đó rất chu đáo nên Châu-Trọng-Anh càng tin tưởng...
Nhắc lại chuyện Châu-Anh-Kiệt rượt theo kẻ lạ rình rập, Mạnh-Kiện-Hùng rối hết cả ruột gan lên vì không biết làm cách nào ngăn được Châu-Anh-Kiệt. Mạnh-Kiện-Hùng liền lập tức phóng xuống, dùng khinh công toàn lực rượt theo Châu-Anh-Kiệt, bất kể chuyện gì. Hai người đang đuổi bắt nhau kịch liệt chợt nghe có tiếng gió vùn vụt ở đàng sau nên biết là Mạnh-Kiện-Hùng đang rượt theo. Thế nhưng cả hai đã sẵn đà nên cứ thế mà tiếp tục chạy mà không thể dừng lại được. Và rồi, trước sau có tất cả ba người, kẻ chạy, kẻ đuổi, người rượt...
Mạnh-Kiện-Hùng tài nghệ cũng như khinh công đều cao hơn nên dù chạy sau, nhưng chỉ trong chớp nhoáng đã gần bắt kịp Châu-Anh-Kiệt. Chàng sợ đến toát cả mồ hôi nhưng bụng mừng thầm là Châu-Anh-Kiệt vẫn bình an, chưa bị hạ độc thủ. Mạnh-Kiệng-Hùng gọi lên thật lớn:
-Kiệt đệ, dừng lại đi! Đừng rượt theo hắn làm chi nữa cho mệt, để đó cho anh!
Đang mải mê rượt kẻ địch, Châu-Anh-Kiệt không nghe rõ nên không ngừng, không đáp, mà cũng không quay đầu lại, cứ dốc toàn lực mà đuổi theo. Cậu bé chỉ thích một việc là trước sau phải nắm được cái ‘đuôi chuột’
(#16) níu lại nghịch chơi như giật đuôi ngựa. Nhưng vì Châu-Anh-Kiệt còn nhỏ quá nên với không tới thành ra cứ chộp hụt hoài.
Mạnh-Kiện-Hùng vừa lo vừa sợ hết hồn nhưng khó mà nín cười được. Chàng muốn lên tiếng nói rõ lý do không nên rượt, nhưng sợ làm như vậy lại hóa ra mách nước cho kẻ địch ám toán thành ra lại thôi. Chính chàng cũng thắc mắc không hiểu tại sao người kia lại không dùng đến cái lợi khí nguy hiểm của kẻ giang-hồ khi gặp lúc nguy cấp để thoát thân hay tự cứu mạng. Những phút lo sợ là những phút sống hồi hộp nhất của con người. Mạnh-Kiện-Hùng không biết phải chăng hắn vì quá gấp mà quên mất hay đang chờ cơ hội, hoặc sắp sửa hành động. Đang nghĩ ngợi, Mạnh-Kiện-Hùng bỗng tái mặt lại khi thấy người kia đang chạy thật lẹ bỗng giảm tốc lực chậm lại. Ý nghĩ đầu tiên hiện lên trong trí óc chàng là người kia cố ý chạy chậm lại để phóng ám khí.
Thình lình, Mạnh-Kiện-Hùng há hốc kinh ngạc vì thấy Châu-Anh-Kiệt bỗng chồm tới ôm được eo ếch người kia. Chàng mừng quá, định chạy tới giúp sức thì người kia đã vùng mạnh một cái đứt cả vạt áo rồi lại tiếp tục chạy nữa.
Lúc đó, Mạnh-Kiện-Hùng cũng đã lướt tới bắt kịp, chân vừa đuổi, bụng vừa nghĩ thầm:
-“Nếu mình có phải chết vì ám khí cũng không ân hận gì!”
Châu-Anh-Kiệt đã ôm được người kia nhưng lại bị sẩy mất nên càng rượt gấp hơn mà quyết bắt cho kỳ được. Mạnh-Kiện-Hùng vẫn lo ngại không ít, nghĩ thầm:
-“Nếu hắn dùng ‘mai hoa châm’ hay ‘phù dung châm’ thì cả hai đứa cùng lãnh đủ hết!
Chàng bèn lướt ra phía trước, vừa chạy vừa cản đường Châu-Anh-Kiệt để sẵn sàng chịu ám khí nếu người kia phóng ra. Thế nhưng Châu-Anh-Kiệt không chịu nhường mà cứ sấn tới, theo sát Mạnh-Kiện-Hùng, không bị chàng bỏ xa bao nhiêu. Mạnh-Kiện-Hùng nhận ra là khinh công của Châu-Anh-Kiệt chẳng kém chàng là bao nhiêu. Đã mấy lần chàng muốn bứt xa cậu ta mà không được. Bứt xa Châu-Anh-Kiệt có nghĩa là có dụng ý tốt muốn che chở chứ không phải là muốn tranh tài cùng cậu ta.
Và những gì Mạnh-Kiện-Hùng đoán đã trở thành sự thật. ‘Vèo vèo’ mấy tiếng, người kia bất thình lình xoay lại phóng ra mấy mũi phi tiêu. Vì đã sớm đề phòng từ trước, Mạnh-Kiên-Hùng đưa tay bắt được một mũi dễ dàng. Bắt xon mũi phi tiêu, chàng liếc sang nhìn Châu-Anh-Kiệt thì thấy cậu ta cũng đang tươi cười cầm một mũi phi tiêu trên tay. Mạnh-Kiện-Hùng thấy thế khen thầm:
-“Không ngờ Châu-Anh-Kiệt lại có được bản lãnh như một cao thủ giang-hồ đã từng bôn tẩu nhiều năm! Thật là giỏi!”
Châu-Anh-Kiệt định phóng mũi phi tiêu trả lại người kia nhưng Mạnh-Kiện-Hùng cản lại:
-Sư đệ! Không nên! Oán nên giải chứ không nên kết! Sư-phụ sẽ không tha cho chúng ta đâu!
Châu-Anh-Kiệt dừng tay, nhưng lại ‘vèo’ một tiếng nữa, Mạnh-Kiện-Hùng định đưa tay ra bắt thì ám khí đã nằm gọn trong bàn tay của Châu-Anh-Kiệt rồi. Mạnh-Kiện-Hùng lại thêm một phen ngạc nhiên, nghĩ thầm:
-“Chẳng lẽ mắt và tay chân của Châu-Anh-Kiệt còn lẹ hơn cả mình nữa hay sao?
Mạnh-Kiện-Hùng vì thế mà cũng bớt lo ngại cho tính mạng của Châu-Anh-Kiệt như lúc đầu. Chàng hiểu rõ là ít nhiều Châu-Anh-Kiệt cũng biết đường mà tự vệ. Chàng cương quyết tập trung tinh thần lại để bắt cho được tên dọ thám này. Nhưng chàng cũng không hề có ý định dùng ám khí để hại hắn vì nhớ lời Châu-Trọng-Anh thường dặn:
-“Kẻ anh hùng không bao giờ dùng ám khí hại đối phương nhất là khi không bị đe dọa đến tánh mạng.”
Kẻ dọ thám kia chạy đến một ngã ba đường thì bí lối tựa như lạc vào ‘Bát-Quái trận’ của Khổng-Minh. Y bất giác la lên một tiếng tuyệt vọng:
-Trời ơi! Đến đây sao không còn ngã nào chạy được nữa? Chẳng lẽ mạng ta tuyệt rồi hay sao?
Gặp đường cùng, tứ bề là rừng rậm, không còn cách nào chạy thì đành đứng lại ngước mặt lên trời nhìn than thở rồi kêu hết tổ lại gọi đến tông mà khấn vái. Mạnh-Kiện-Hùng cả cười. Chàng cũng dừng lại nhìn hắn nói:
-Em tôi đã bảo anh đừng chạy đi đâu cho mệt, tại anh không chịu nghe lời thành ra mới đến nước này! Thôi, hãy chịu bó tay cho xong chuyện!
Một cánh tay từ đâu với tới nắm gọn lấy gã dọ thám. Thì ra đó là Châu-Anh-Kiệt sử dụng một tuyệt chiêu của thân phụ dạy cho bắt sống được hắn. Khi truyền dạy thế võ này, Châu-Trọng-Anh dặn con rất rõ ràng là không được dùng nó để giết người. Vì vậy, Châu-Anh-Kiệt chỉ dùng chiêu thức này để khóa chặt hai tay địch thủ mà thôi chứ không làm tổn hại đến một cọng lông của y.
Đột nhiên gã dọ thám vặn mình lộn trái lại như một con mèo, hất hai chân trước đảo ngược ra đàng sau, thoát được khỏi đôi tay của Châu-Anh-Kiệt mà co giò chạy trống. Chuyện xảy ra thật bất ngờ. Không những Châu-Anh-Kiệt phải sửng sốt mà chính Mạnh-Kiện-Hùng cũng không dằn được la lên:
-Miêu-quyền của Hàn-gia thật là lợi hại!
Gã dọ thám chỉ còn một đường duy nhất là lui về ngã cũ mới mong thoát thân được vì phía trước đã bít kín hết cả rồi. Và nhờ hắn búng ngược hai chân ra đàng sau cho nên khi vừa chạm đất, hắn đã ở sẵn vị trí thuận lợi, cứ thế mà chạy chứ không phải xoay đầu lại.
Mạnh-Kiện-Hùng cả giận, vừa rượt theo vừa hét lớn:
-Giỏi lắm! Đố mi chạy thoát được đó!
Nghe sau lưng có tiếng người rượt theo, gã dọ thám thọc tay vào người lấy ra năm viên phi-đạn tròn có gai
(#17) để sẵn trên tay chờ cơ hội ám toán. Nhưng hắn chưa kịp phóng thì ‘ạch’ một tiếng, đã bị Mạnh-Kiện-Hùng dùng thế song phi từ đàng sau tới tống cho hai cước vào ngay bàn tọa nằm chúi đầu xuống lộ.
Mạnh-Kiện-Hùng sau đó mới tới trước mặt y lay cho tỉnh dậy rồi mới ôn tồn nói rằng:
-Vì đại-huynh có những hành động ám muội cho nên chúng tôi mới đành phải đắc tôi mà trót mạo phạm. Đó là một việc bất đắc dĩ, ngoài dụng tâm của chúng tôi, mong huynh đài tha thứ cho. Chẳng hay đại ca có bị thương tích gì không xin nói cho biết để dùng thuốc mà chữa trị ngay.
Gã dọ thám mặt mày nhăn nhó như một con khỉ đột, vừa rên vừa nói:
-Cánh tay tôi đau nhức... như dần... có lẽ... là xương bả vai chăng? Ối cha! Đau chết đi được!
Mạnh-Kiện-Hùng bèn đỡ hắn dậy, một tay vịn vào nách gã cho khỏi bị ngã, một tay xoa bóp vào chỗ gã kêu đau. Gã dọ thám kêu rên thảm thiết, nước mắt chảy ròng ròng. Mạnh-Kiện-Hùng lại nói:
-Để tôi đưa lão huynh về Thiết-Đảm-Trang dùng thương cao dược, vừa uống vừa đắp may ra mới khỏi được. Dẫu cho xương gẫy hay gân đứt, thứ thuốc này của sư-phụ tôi có thể làm liền lại, chỉ trong vòng nửa tháng là lâu nhất.
Gã dọ thám không cách nào từ chối được đành phải gắng gượng theo Mạnh-Kiện-Hùng và Châu-Anh-Kiệt về Thiết-Đảm-Trang. Hắn bất giác e thẹn vì hành động của hắn, đã không bị để bụng mà còn được người ta dùng lòng tốt đáp lại. Luôn cả việc định ám toán của hắn cũng không ai buồn truy xét làm gì.
Mạnh-Kiện-Hùng nhờ Châu-Anh-Kiệt giúp chàng một tay dìu gã dọ thám từng bước một về đến Thiết-Đảm-Trang. Sau đó Mạnh-Kiện-Hùng đem hắn vào một căn phòng rộng rãi khang trang, trải giường êm cho hắn nằm nghỉ. Càng được săn sóc bao nhiêu, hắn lại càng cảm thấy lương tâm cắn rứt bấy nhiêu...
Thấy gã dọ thám đã hoi khỏe lại, Mạnh-Kiện-Hùng mới hỏi:
-Chẳng hay huynh đài đi đâu mà lạc bước đến tệ trang, xin nói thật cho rõ chứ đừng giấu diếm làm gì! Nếu giải quyết được, chúng tôi sẽ cố gắng hết mình để làm thỏa lòng lão huynh.
Gã dọ thám nói:
-Tôi đi lạc ở giữa ngã ba đường chưa biết phải rẽ ngã nào nên hỏi một chị đàn bà chăn dê ở đó. Tính tôi cấp tháo nên lời nói không được tế nhị cho lắm nên có lẽ vì thế mà chị ấy không ưa nên mới cố ý chỉ trật đường cho lạc vào quý sơn trang cho bõ ghét. Khi qua khỏi bờ tường tôi mới biết là đã lầm đường nên mới leo lên cây dương liễu để nhắm định phương hướng. Chẳng ngờ tôi bị hai vị trông thấy cho tôi là kẻ gian nên quyết bắt lại cho bằng được. Lúc nghe huynh đài gọi trên cây, tôi hoảng hốt nhảy bừa xuống định chạy trốn nhưng lại bị vị tiểu huynh đệ kia chực sẵn mà rượt theo. Trong lúc nguy cấp, tôi không kịp suy nghĩ nên lỡ dùng ám khí, thật là đắc tội! Mong huynh đài và tiểu bằng hữu tha thứ cho.
Mạnh-Kiện-Hùng cười nhạt nói:
-Như quả lời đại huynh nói thì thì thật chúng tôi đắc tội với lão huynh vô cùng. Thế này chắc không tránh khỏi bị trang-chủ trách mắng nặng nề rồi. Bây giờ xin lão huynh nằm yên để tôi cởi áo ngoài xem xét các vết thương để dễ bề điều trị.
Đến nước này, gã dọ thám kia chẳng còn cách nào hơn là vâng lời. Hắn biết một khi cởi áo ngoài ra thì rất có thể bị lột mặt nạ không chừng. Mạnh-Kiện-Hùng tuy nói là để xem xét các vết thương mà điều trị nhưng trên thực tế, chàng muốn khám phá ra những bí mật bên trong chiếc áo ngoài của hắn. Mạnh-Kiện-Hùng tuy còn nhỏ tuổi nhưng việc làm của chàng lúc nào cũng hết sức là tinh tế nên mới nghĩ ra mưu kế xem xét các vết thươn để tìm hiểu về ‘con người bí mật’ này.
Cởi xong lớp áo ngoài, Mạnh-Kiện-Hùng còn phải cởi thêm một lớp áo nữa. Chàng thấy có một mũi dao ngắn bén nhọn đút trong cái túi da giắt trong lưng quần. Mạnh-Kiện-Hùng xem kỹ lưỡi dao thì nhận thấy quả là một vũ khí lợi hại, có thể giết người trong chớp nhoáng. Chàng tự nhủ thầm:
-Kẻ này quyết không phải là một nhân vật tầm thường. Nếu chẳng phải là một võ-lâm cao thủ thì một kẻ thủ đoạn trong giới hắc đạo. Căn cứ vào lưỡi dao của hắn thì có lẽ hắn thuộc phe hắc đạo nhiều hơn vì chỉ có phường hắc đạo mới chuyên dùng ám khí và dấu vũ khí ám toán thật kỹ trong người mà thôi. Rõ ràng đây là những hành động ám muội.
Mạnh-Kiện-Hùng lại xem xét vết thương trên bả vai và đầu gối của hắn thì bất chợt giật mình kinh hãi. Các vết thương tuy lành nhưng dấu tích vẫn còn in rõ rệt là hắn có bị một cao thủ võ lâm nào đó điểm huyệt. Một kẻ như hắn bị điểm huyệt mà không bị tuyệt mạng, cũng không bị tê liệt tứ chi hay toàn thân bất toại thì trừ khi có nội công thâm hậu, ngoại công ghê gớm thì làm sao chịu nổi? Chàng thầm nghĩ:
-“Sẵn cơ hội này, lúc hắn chưa cử động lại được như thường mà không trừ phứt hắn đi để di họa về sau thì ăn năn sao kịp?”
Mạnh-Kiện-Hùng giả đò xem xét vết thương. Khi bàn tay chàng ta sờ đến huyệt ‘phong trì’ ở sau mép tay gã dọ thám thì dùng một ngón tay điểm nhẹ xuống nhắt thử xem hắn có đau không, vì nếu đau tức là hắn có bị thương ở chỗ ấy và hắn không nghi ngờ chàng ra tay điểm huyệt.
Lần mò xuống huyệt ‘trung phù’ ở xương gân, Mạnh-Kiện-Hùng lại dùng ngón tay trỏ điểm thêm một huyệt nữa. Lần này gã dọ thám đau nhói lên và hỏi:
-Ở đây cũng có vết thương nữa sao?
Mạnh-Kiện-Hùng đáp:
-Có, nhưng không nặng. Chỉ phớt sơ qua, hơi bầm một tí thôi.
Đến bàng quang của hắn ngay huyệt ‘vị trinh’, Mạnh-Kiện-Hùng lại điểm thêm một cái nữa. Gã dọ thám nhột quá giẫy lên cười nắc nẻ:
-Thôi! Thôi! Đừng tìm nữa! Vừa đau lại vừa nhột chịu không nổi! Chơi cái gì kỳ cục vậy? Bộ huynh đài định phá Đổng-Triệu-Hòa sao chớ?
Thì ra gã dọ thám đó không phải ai khác hơn là Đổng-Triệu-Hòa, tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục.
Là một tên hiếu sắc đa dâm, mới thấy Lạc-Băng đã dở thói nham nhở đến nỗi bị Văn-Thái-Lai điểm huyệt cho đến nỗi các tiêu sư đồng nghiệp phải đi hạ mình cầu xin cho hắn. Sau đó, nhờ Trương-Siêu-Trọng giải huyệt cho mới còn sống sót. Thế mà tính phách lối ngang tàng vẫn không chừa.
Ấy thế mà trong lúc dưỡng thương, hắn vẫn không quên được nhan sắc diễm lệ của Lạc-Băng, lúc nào cũng mơ tưởng đến nàng. Hắn còn bịa ra những chuyện hết sức khả ố như đi nói với các bạn tiêu sư là trong giấc mộng đã cùng với Lạc-Băng giao hoan thật là khoái lạc. Hắn thề rằng trước sau phải cướp cho bằng được nàng về làm vợ mới nghe. Cũng chỉ vì nuôi mãi ý định ấy mà không khi nào hắn chịu rời mắt khỏi phòng của nàng trong khách-sạn...
Hôm ấy nhìn thấy Dư-Ngư-Đồng và Lạc-Băng dìu Văn-Thái-Lai ra khỏi khách-sạn thì hắn tin rằng cả ba người dự định trốn đi. Do đó, hắn ngồi dậy ra khỏi phòng đưa mắt nhìn theo. Thấy ba người sau đó lên đường, hắn cũng lên ngựa đuổi theo. Vì hắn khôn khéo biết giữ đúng khoảng cách nên ba người kia không biết được có kẻ đang cố tâm theo sau để dọ thám.
Đổng-Triệu-Hòa được chứng kiến từ đầu đến cuối, kể từ lúc ba người vào Thiết-Đảm-Trang rồi sau đó trở ra. Lại thấy Mạnh-Kiện-Hùng phi ngựa đến rồi mấy người lại trở vào sơn trang thêm một lần thứ hai. Đổng-Triệu-Hòa mừng rỡ vì sực nghĩ ra một điều ‘nhất cử lưỡng tiện’. Hắn vừa theo dõi Lạc-Băng và cũng vừa biết được tung tích của đám Hồng Hoa Hội rõ ràng. Nếu đem việc này về báo cáo thì công lao của hắn rất là lớn.
Đổng-Triệu-Hòa mừng quá đến độ quên cả đói bụng nên không vội trở về lữ-quán, còn cố dọ thám thêm vài chi tiết khác nữa. Hắn định rằng để đến tối sẽ trở về trình báo tự sự cho Trương-Siêu-Trọng nghe để ông ta kéo rốc đám thị vệ cùng ngự lâm quân hợp cùng binh lính địa phương mà vây chặt Thiết-Đảm-Trang lại thì bọn Văn-Thái-Lai có cánh cũng không bay khỏi. Và sau đó, công của hắn sẽ được Trương-Siêu-Trọng thưởng cho cái thể xác đẹp đẽ thơm tho của giai nhân mỹ miều Lạc-Băng kia. Hắn nghĩ tới chừng lúc đó thì hắn sẽ dùng bạo lực mà chiếm đoạt thể xác kia dù chỉ được một đêm thôi cũng không sao. Một đêm hoan lạc bên Lạc-Băng đối với hắn chẳng khác gì một đêm của Tương-Vương với Vu-San Thần-Nữ.
Chẳng may cho hắn, bị Lạc-Băng phát giác nên phải nhảy lên cây dương liễu để trốn tránh và tin rằng không một ai phát giác được. Nhưng đúng là ‘thiên bất dung gian’, Đổng-Triệu-Hòa bị Mạnh-Kiện-Hùng và Châu-Anh-Kiệt rượt theo đến cùng để bắt cho được, để rồi sau cùng nếm phải hai cước của Mạnh-Kiện-Hùng vào bàn tọa...
Thấy Đổng-Triệu-Hòa nhột quá cười bò càng ra, Mạnh-Kiện-Hùng cũng cười mà nói rằng:
-Trông lão huynh thân thể ốm nhom ốm nhách sao lại có cái bụng phì như Đổng-Trác thế kia? Tiểu đệ lấy làm lạ nên nhấn xem thử cái gì đựng trong đó mà sình chương lên như củ trướng vậy?
Đổng-Triệu-Hòa nói:
-Huynh đài có ý bảo rằng lão Đổng ta ham ăn mà không mập đấy chứ gì! Không phải đâu! Lão Đổng không chứa đồ ăn ngon ở đó đâu, mà chỉ chứa toàn mưu mô và trí dũng thôi. Nhờ cái bụng này mà lão Đổng danh chấn giang-hồ đó!
Nghe giọng nói khoe khoang tự thị của Đổng-Triệu-Hòa như thế, tuy là lời nói đùa nhưng Mạnh-Kiên-Hùng cảm thấy đáng ghét vô cùng. Nhưng chàng cũng làm bộ kính phục nói:
-Đại huynh là một cao thủ trên giang-hồ. Nhưng nếu không nói cho đệ biết các vết thương trên châu thân thì rồi đệ cũng biết mà thôi.
Đổng-Triệu-Hòa khoái chí nói:
-Thế à! Huynh đài có cặp mắt tinh đời đến mức ấy sao? Vì đâu mà biết được vậy?
Mạnh-Kiên-Hùng cười nói:
-Nếu không phải là tay có bản lãnh siêu việt thì làm sao chịu nổi những vết thương nặng nề như thế kia? Nếu tiểu đệ không lầm thì lão huynh bị đối phương điểm huyệt.
Đang đau nằm trên giường, Đổng-Triệu-Hòa cũng ráng chỏi tay ngồi dậy nói:
-Đúng vậy! Lão Đổng này có coi mấy vết điểm huyệt ấy ra gì đâu! Cứ cho địch thủ tha hồ điểm, lão Đổng chỉ vận dụng nội ngoại công mà chịu là xong. Chờ cho đối phương điểm huyệt xong thì sẽ tự mình giải huyệt lấy. Tuy vậy cũng hơi bị mất sức và nếu bị động đến thì cũng hơi đau chút. Sở dĩ lão Đổng làm như vậy là muốn cho địch thủ khiếp vía chơi. Có được mấy cao thủ mà không sợ Bôn-Lôi-Thủ Văn-Thái-Lai điểm huyệt? Chỉ có lão Đổng này là dám coi thường mà thôi, nên Văn-Thái-Lai sau khi điểm huyệt xong thì đâm ra thất vọng.
Nhờ mấy câu khoe khoang này của Đổng-Triệu-Hòa mà Mạnh-Kiện-Hùng biết được hắn bị Văn-Thái-Lai điểm huyệt và một trong những lý do khiến hắn bỏ công đi dọ thám cũng là vì mối hận này thôi chứ không ngoài mục đích nào khác. Nhưng chàng lại thắc mắc rằng tại sao Văn-Thái-Lai đã điểm vào người Đổng-Triệu-Hòa như thế mà lại không kết liễu được tánh mạng hắn? Xưa nay khi nhắc đến tài điểm huyệt của Văn-Thái-Lai ai lại không tán đởm kinh tâm? Nhưng chàng lại tự nghĩ và cười thầm:
-“Hắn tự thị coi thường những huyệt đạo bị điểm nhưng hắn có biết đâu những huyệt đạo của hắn vừa bị ta điểm nhẹ toàn là những yếu huyệt có thể kết liễu tánh mạng hắn dễ dàng! Nếu quả như lời hắn nói thì sao vận nội ngoại công cho ta thấy mà sao lại bảo là ta ‘thọc léc’ cho hắn cười!”
Chỉ nội những lời phách lối của Đổng-Triệu-Hòa và những hành động ám muội của hắn cùng những ám khí tàng trữ trên người hắn, Mạnh-Kiện-Hùng đã đoán được ngay là kẻ lưu manh, bất chánh. Nhìn vào bản mặt quái gở như quỷ sứ của hắn, nhất là cặp mắt láo liên kia, chàng lại càng thêm ghét! Chàng tự nghĩ:
-Một kẻ hèn hạ khiếp nhược như tên này thì có giết chết hắn đi cũng chẳng có gì phải hối hận cả! Nhưng chứa hắn trong nhà thêm giờ phút nào thì càng bất lợi thêm phút ấy. Chi bằng tống cổ hắn ra khỏi nhà cho hắn đi đâu thì đi, chết bờ chết bụi đâu thì chết cho đáng số!
Mạnh-Kiện-Hùng ghét cay ghét đắng Đổng-Triệu-Hòa đến độ không thèm hỏi cả tên họ. Và mặc dầu hắn đã tự xưng tên nhưng chàng cũng chẳng thèm để ý. Hắn cố xưng tên để gợi chuyện cho chàng hỏi để có dịp khoe khoang, đem danh Trấn-Viễn tiêu-cục cùng với Uy-Chấn Hà-Sóc Vương-Duy-Dương ra để nói. Nhưng Mạnh-Kiện-Hùng vẫn thản nhiên như không, mà chẳng thèm biết gì thêm. Xưa nay, Đổng-Triệu-Hòa chỉ thích mượn danh Vương-Duy-Dương để xưng hùng, giống như con dê mượn lót cọp để đi dọa nát những con thú khác vậy. Tuy nhiên, thiên-hạ chỉ nể sợ Vương-Duy-Dương thôi chứ chẳng ai thèm để ý gì đến hắn cả!
Nằm nghỉ ở phòng hướng Đông mà mắt Đổng-Triệu-Hòa cứ liếc mãi sang các phòng ở phía Tây và phía Nam là cốt ý để tìm xem cho bằng được dung nhan của Lạc-Băng. Không nhìn thấy được bóng dáng của nàng, Đổng-Triệu-Hòa cứ luôn luôn lấp ló, liếc mắt khắp nơi khiến cho Mạnh-Kiện-Hùng càng tăng thêm nỗi nghi ngờ về hắn. Chàng nghĩ thầm:
-“Có lẽ nào mình lại dẫn một kẻ cướp vào để rình rập đồ đạc trong nhà?”
Nghĩ vậy, chàng không cần phải đắn đo nữa bèn nói sẵng vào ngay mặt Đổng-Triệu-Hòa:
-Này ông bạn! Có biết rõ nơi này là đâu chưa? Tôi chắc là chưa biết đó!
Đổng-Triệu-Hòa làm bộ ngơ ngác nói:
-Quả như lời huynh đài nói, lão Đổng vô tình không biết đây là đâu, không biết đây là cõi ma hay cõi Phật. Xin huynh đài chỉ giáo cho!
Câu nói xấc xược của Đổng-Triệu-Hòa khiến cho Mạnh-Kiện-Hùng không dằn nổi cơn giận. Chàng nắm tay Đổng-Triệu-Hòa dắt thẳng ra cửa phòng nói rằng:
-Cũng không cần phải nói cho ngươi biết đây là đâu làn gì! Chỉ cần mời người ra khỏi nơi này là được rồi! Đi đi!...
Sau khi tống cổ Đổng-Triệu-Hòa ra như tống cổ ôn hoàng dịch lộ ra ngoài, Mạnh-Kiện-Hùng cười gằn nói theo:
-Nhớ đừng có mon men trở lại đây mà rình rập kẻo mà chết mất đất đấy nhé! Đây là ta thương hại mà phóng sinh cho một lần đặng để đức lại cho con cháu. Nhưng báo trước cho biết là không còn lần thứ nhì nữa đâu đấy nhé!
Đổng-Triệu-Hòa chợt thấy thái độ của Mạnh-Kiện-Hùng bỗng nhiênlại khinh khi hắn ra mặt như thế thì nhịn nhục không được thét vang lên rằng:
-Đường đường là một trang nam tử như ta mà để cho một đứa trẻ ranh làm nhục đến thế này, tức chết đi được! Nếu không trả được thù này ta thề không làm người đứng trên thế gian nữa!
Mạnh-Kiện-Hùng đã ghét cay ghét đắng Đổng-Triệu-Hòa giờ lại nghe hắn nói thêm câu trả thù thì lửa giận lại phừng lên, nói thầm trong bụng rằng:
-“Tưởng ngươi không thèm trả thù thì ta còn để người sống thêm một thời gian ngắn nữa, chứ còn nếu người muốn trả thù thì ta cho xuống gấp âm ty để trả thù với Diêm-Vương dưới đó!”
Nghĩ vậy, thuận tay, Mạnh-Kiện-Hùng đấm mạnh vào vai Đổng-Triệu-Hòa một cái miệng nói lớn:
-Thôi đi đi! Đừng nhiều chuyện!
Đoạn chàng xô hắn một cái chúi nhủi rồi đi thẳng vào trong sơn trang, miệng cười khinh bỉ không thèm ngó lại.
Đổng-Triệu-Hòa bị một đấm như trời giáng ngay vai đau thấu cốt tủy, vụt miệng chửi đổng lên. Nhưng rồi lại sợ rủi Mạnh-Kiện-Hùng nổi giận quay trở lại thì chỉ có nước mà ốm đòn mà chuốc thêm lấy sự nhục nhã nên đành đi vội đến chỗ cột ngựa gắng gượng lên yên phi một hơi về An-Viễn Khách-Sạn. Về đến nơi, Đổng-Triệu-Hòa thấy Trương-Siêu-Trọng, Ngô-Quốc-Đống cùng đầy đủ cả mặt bọn tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục ngồi bàn tính công chuyện. Ngoài mấy người quen ra, Đổng-Triệu-Hòa còn thấy bảy, tám người lạ mặt nữa nhưng hắn không nhận được là ai. Câu chuyện mấy người này bàn không ngoài các đề tài như: Văn-Thái-Lai sau khi đánh chết Phùng-Huy và Hàn-Xuân-Lâm thì trốn đi đàng nào?... Lão già bí mật trợ giúp bọn Văn-Thái-Lai kia là ai?...
Đổng-Triệu-Hòa nghe được chuyện thì khoái chí mừng lắm. Hắn bèn đem những việc đi dọ thám được ở Thiết-Đảm-Trang ra sao thuật lại cho Trương-Siêu-Trọng cùng cả bọn nghe rõ. Đang cao hứng kể chuyện bỗng hắn cảm thấy xây xẩm mặt mày rồi ngã quỵ xuống.
Trương-Siêu-Trọng thấy vậy vội vàng nhanh tay đỡ lấy hắn. Y lấy làm lạ bèn cởi áo ngoài Đổng-Triệu-Hòa ra xem thật kỹ lưỡng. Vốn là một đại cao thủ trong võ lâm từng trải giang-hồ nên chỉ cần xem sơ qua là Trương-Siêu-Trọng đã biết ngay là Đổng-Triệu-Hòa bị điểm huyệt trong khi chính bản thân Đổng-Triệu-Hòa lại không hay biết một tí gì cả. Người điểm huyệt Đổng-Triệu-Hòa chuyến này tuy không lợi hại bằng Bôn-Lôi-Thủ Văn-Thái-Lai lần trước nhưng lại chọn vào những huyệt đạo chính yếu mà điểm chẳng khác nào một thầy địa lý chọn đất, nếu không kịp thời giải huyệt thì chỉ nội trong một tháng, tánh mạng Đổng-Triệu-Hòa chỉ có đường theo ông theo bà về chầu Diêm-tổ mà thôi!
Trương-Siêu-Trọng lập tức giải hết tất cả huyệt đạo cho Đổng-Triệu-Hòa rồi sai người đem vào phòng riêng cho hắn tĩnh dưỡng. Phải một lúc khá lâu, Đổng-Triệu-Hòa mới dần dần tỉnh lại được. Trương-Siêu-Trọng liền hỏi hắn từ đầu đến đuôi câu chuyện. Khi nghe thuật lại, Trương-Siêu-Trọng vừa mừng vừa tức giận. Mừng là vì biết được tung tích Văn-Thái-Lai; giận là vì Thiết-Đảm-Trang dám cả gan chứa chấp khâm-phạm triều-đình lại còn ra tay hạ độc thủ.
Trương-Siêu-Trọng quy tụ tất cả mọi người lại bảo rằng:
-Chúng ta hãy tức tốc lên đường đến Thiết-Đảm-Trang. Đổng lão đệ hãy đi trước làm hướng đạo.
Đổng-Triệu-Hòa tuy được giải huyệt nhưng vẫn còn lắm. Trương-Siêu-Trọng lấy trong mình ra một viên thuốc màu hồng hòa với nước trong cho hắn uống. Thật là một viên ‘thần đan’! Uống xong, Đổng-Triệu-Hòa thấy tinh thần gai tăng bội phần, sức lực như đã có lại đầy đủ như cũ.
Còn Ngô-Quốc-Đống sau khi bị Văn-Thái-Lai đánh gẫu xương bả vai, lại trúng phải một phi đao của Lạc-Băng, được Trương-Siêu-Trọng cứu chữa bằng cách dùng thuốc vừa bó vừa rắc lên các vết thương nên cũng đã bình phục rồi. Mặc dù thương tích vẫn còn hành chút đỉnh nhưng hắn cũng gắng gượng mà đi theo.
Chờ cho đông đủ mặt tất cả, Trương-Siêu-Trọng mới giới-thiệu mấy người lạ mặt cho Đổng-Triệu-Hòa biết. Nghe giới-thiệu, Đổng-Triệu-Hòa thất kinh vì đó toàn là những cao thủ võ lâm quy thuận triều-đình làm quan lớn cả. Một người làm chức Đại-nội Chưởng xuyên tẩu mã ngoại, tứ phẩm thị vệ tên Đoàn-Đại-Lâm; một người làn chức Thị-vệ Tổng giáo tập trong phủ Trịnh Thân-Vương tên Văn-Khánh-Nhuận; một người làm chức Tổng-binh, thuộc phủ Cửu-Môn đề đốc Thành-Khoáng; một người làm Chưởng-môn ở phủ Thần-Châu tỉnh Hồ-Nam tên Bá-Cao. Mấy người còn lại thì chức tước nhỏ hơn, nhưng cũng đều là Bổ-khoái ở Thiên-Tân và Bảo-Định.
Tất cả những người này đều thừa lệnh của vua Càn-Long theo giúp Trương-Trọng-Siêu để bắt cho được Văn-Thái-Lai.
Đổng-Triệu-Hòa đi trước dẫn đường. Một đoàn người theo sau sát khí đằng đằng oai-phong lẫm liệt, trông chẳng khác gì một cuộc hành quân, nhắm hướng Thiết-Đảm-Trang tiến thẳng tới...
Chú thích:
*Trong bản dịch “Hồng Hoa Kiếm”, có lẽ nhà in quên nên bỏ sót, do đó không có “nhan-đề” cho chương 4. Vì vậy, xin đọc để tóm tắt lại ý chính và tạm “đặt bừa” nhan-đề cho chương này. Xin độc giả cho biết ý kiến, nếu cần sẽ chỉnh đốn lại cho hay hơn, đặc sắc hơn. Đa tạ. (Dương-Hồng-Kỳ)
(1-) Sư-điệt: tiếng dùng để gọi học trò của sư-huynh hay sư-đệ. Trong trường hợp của Lý-Mộng-Ngọc thì dù cho nàng là học trò của Lục-Phỉ-Thanh hay Mã-Chân cũng thế, đều là vai sư-điệt của Trương-Siêu-Trọng cả.
(2-) Ái-nữ: “con gái yêu”.
(3-) Trượng-phu: chồng.
(4-) Ý nói Hồng Hoa Hội.
(5-) “Tiểu bất nhẫn tất loạn đại mưu”, câu nói bất hủ của Tào-Tháo.
(6-) Tiện-nội: cũng tương tự như người Việt dùng những danh từ như “nhà tôi” hay “bà xã tôi”...
(7-) Quan-Vũ được người đời thờ vì tấm lòng trung nghĩa, hết lòng với anh em, bạn bè mà xem thường tất cả phú quý, luôn cả mạng sống của mình.
(8-) Nguyên văn “mãnh hổ nan địch quần hồ”.
(9-) Hậu đường: phía đàng sau nhà.
(10-) Chữ “sư-phụ” ở đây không có nghĩa là người dạy mình, mà chỉ có nghĩa là tôn trọng chức vụ của một người nào đó thôi. Trong một nhà hàng, người thợ chính cũng được gọi là “sư-phụ”
(11-)Độc hành đại đạo: tay trộm chuyên đo một mình.
(12-) Nguyên-văn “lão bạng sinh châu”.
(13-) Kế thất: vợ kế, vợ lẽ...
(14-) Trong Hồng Hoa Hội, mọi người vẫn gọi nhau theo vai vế, vì thế Lạc-Băng dù là vợ nhưng vẫn quen miệng gọi Văn-Thái-Lai là “tứ ca” thay vì “trượng-phu”.
(15-) Thạch thủ thiết túc: tay đá chân sắt.
(16-) Kiểu cột tóc, thắt bím buông ra đàng sau trông như một cái đuôi vào thời Mãn-Thanh. Người Trung-Hoa gọi là “đuôi chuột”, còn người Tây-Phương thì gọi là “đuôi heo”.
(17-) Phi đạn đây là một loại ám khí, hình tròn như một viên bi lớn, chung quanh là gai ngọn chứ không bắt buộc phải có chất nổ như “lựu đạn”. Đôi khi ám khí này còn được người sử dụng tẩm thuốc độc lên nữa để giết người cho lẹ hơn.