Lý-Mộng-Ngọc nghe tiếng truyền rao ấy mười phần kỳ quái. Nàng không hiểu chuyện gì, hốt hoảng hỏi Lục-Phỉ-Thanh:
-Sư-phụ à! Đó là cái gì vậy? Con nghe lạ quá!
Lục-Phỉ-Thanh đáp:
-Đó là tiếng truyền rao của những kẻ hướng đạo cho một tiêu-cục. Mỗi tiêu-cục đều có những kẻ đi trước truyền tin như vậy, nhằm mục-đích báo trước cho các đảng lục-lâm đừng đánh bậy mà lầm, đồng thời cũng là để rao cùng bạn đồng đạo rõ nếu cần thì ủng hộ. Tiêu-cục phụ-trách việc chuyên chở, bảo vệ hàng hóa, vàng bạc, hay tất cả những thứ gì quý giá mà người mướn giao-phó cho đến nơi đến chốn an toàn và ‘giao hàng tận tay’. Làm nghề bảo tiêu này thì phải có bảy phần cảm tình với giới lục-lâm và đồng đạo giang-hồ, còn ba phần còn lại phải có bản lãnh tuyệt vời cao siêu vì đôi khi không còn đường thương thuyết thì chỉ còn cách phải giải quyết bằng quyền cước hay đao kiếm mà thôi. Người thủ-lãnh của một tiêu-cục phải là một người có uy-danh lừng lẫy trên chốn giang hồ; phải có sự giao du rộng rãi, phải độ lượng khoan dung; phải nắm vững hết được tình hình trong các vùng lân cận, từng nẻo giao-thông, từng địa-hình địa-vật; và phải có nhiều người bản lãnh cao cường dưới trướng. Nếu không có đủ những điều kiện cốt yếu ấy mà, ở tiêu-cục càn bừa thì sẽ bị cướp hết hàng bảo tiêu, hại chết người và không chừng còn tự hại lấy bản thân mình nữa. Tiêu-cục mỗi lần lãnh hàng bảo-tiêu cho ai thì được hưởng hoa hồng lớn lắm. Có như vậy mới đủ chi cho các sở phí nặng nề. Mỗi lần nghe truyền ra như thế, các đảng lục-lâm cũng như các giang-hồ đồng đạo đều hiểu rõ tiêu-cục đó từ đâu đến, thủ-lãnh là ai rồi. Trường-hợp các đám lục-lâm có ý định cướp tiêu mà nghe những tiếng rao này thì họ sẽ cho cả đoàn bảo tiêu đi qua nếu quen với tiêu-đầu hoặc tự lượng sức mình không thể cướp nổi. Nếu thấy lạ, họ sẽ đuổi những tên truyền rao đó trở lại mà không cho qua. Sau đó người của tiêu-cục phải tìm cách dàn xếp. Nếu chủ-trương ôn hòa, nghĩa là được đám lục-lâm sợ-sệt hay thông cảm, hoặc giả phải chi cho họ một ít tiền tài gọi là ‘mãi lộ’ thì mọi chuyện sẽ êm đẹp, không có gì xảy ra. Nhưng nếu giải quyết bằng lời không xong thì tiêu-cục chỉ còn một đường cuối cùng là chiến đấu đến tận cùng để vượt đường đi qua mà thôi. Có nhiều trường-hợp tiêu-cục chiến thắng nhưng cũng có nhiều khi ‘tiêu mất người chết’.
Lý-Mộng-Ngọc thầm cảm tạ thầy đã dạy cho nàng ít nhiều kiến-thức để mở rộng thêm tầm mắt cho nàng. Nhưng tánh hiếu động của Mộng-Ngọc lại nổi dậy mặc dầu mới bị một vố khóc sưót mướt, mắt chưa ráo lệ. Nàng cười thầm trong bụng nghĩ:
-“Hay là mình thử cản đám người bảo tiêu này chơi cho vui. Chúng nào biết mình là ai đâu mà sợ.”
Tuy nghĩ vậy nhưng còn sợ thầy không cho, với lại chưa biết đám bảo tiêu đó bản lãnh, thế lực ra sao nên Lý-Mộng-Ngọc hòi dò Lục-Phỉ-Thanh:
-Sư phụ! Tiêu-cục này do ai lãnh-đạo vậy?
Lục-Phỉ-Thanh đáp:
-Đó là Trấn-Viễn tiêu-cục, trụ-sở chính nằm tại Bắc-Kinh. Ngoài ra cũng còn những chi nhánh khác ở các nơi như Phụng-Thiên, Tế-Nam, Khai-Phong, Thái-Nguyên... Tổng-tiêu-đầu, tức là người cầm đầu tất cả trụ-sở chính lẫn các chi nhánh tên là Vương-Duy-Dương mà giới giang-hồ đặt cho danh-hiệu là Uy-Chấn Hà-Sóc Vương-Duy-Dương. Đến nay, y đã gần 70 rồi nhưng vẫn còn oai-phong lẫm liệt. Các đảng lục-lâm hay các đồng đạo hễ nghe ra truyền ‘phái võ Duy Dương’ thì không ai dám gây sự hay làm trở ngại điều gì. Nhờ vậy mà Trấn-Viễn tiêu-cục phồn thịnh vô cùng. Đáng lẽ ra, đến tuổi này Vương-Duy-Dương nên cáo lão về núi sống vui cùng ‘nước trí non nhân’ chứ còn ham lợi lộc thêm chi nữa! Huốn hồ hơn 40 năm mở ra Trấn-Viễn tiêu-cục làm ăn, lão đão thâu của thiên-hạ không biết bao nhiêu mà kể! Không hiểu sao lão còn chưa cho là đủ?
Lý-Mộng-Ngọc hỏi:
-Sư phụ, thầy có quen với Vương tổng tiêu-đầu à?
Lục Phỉ-Thanh đáp:
-Thầy từng tỉ thí với Vương-Duy-Dương về cả võ công lẫn kiếm-thuật. Lão ta có môn tuyệt-kỹ là Bát-Quái-Chưởng và chuyên sử dụng một cây Bát Quái đao. Suốt bao năm trời tung-hoành ngang dọc suốt miền Giang-Bắc chưa tìm được địch thủ nào xứng tay. Do đó lão ta tự nhận và rất hãnh-diện với danh-hiệu ‘Uy Chấn Hà-Sóc’.
Lý-Mộng-Ngọc cao hứng hỏi thêm:
-Lòng con thật hâm mộ vị lão anh-hùng ấy. Sư-phụ có thể dắt con đến ra mắt ông ta được chăng?
Lục-Phỉ-Thanh lắc đầu nói:
-Khó lắm! Vương-Duy-Dương chẳng bao giờ chịu gặp ai nếu không có điều gì mà lão cho là ‘tối cần’, hay không có điều gì lợi cho lão ta. Đối với đám hậu bối trẻ tuổi, lão ta lại càng không muốn tiếp!
Càng nghe sư-phụ chỉ dạy từng ly từng tí, Lý-Mộng-Ngọc càng nhận thấy giang-hồ quả là phức tạp, mà bẳn thân mình chẳng khác nào người mù đi dò trong đêm tối. Nàng bỗng nảy sinh ra một mối nghi ngờ, tự nhủ thầm:
-Mình không đánh cướp của người ta, nhưng biết đâu người ta lại đánh cướp tài-sản của mình? Chi bằng cứ đề-phòng trước vẫn hay hơn.
Nghĩ đoạn, Lý-Mộng-Ngọc giơ roi quất vào con ngựa nàng cỡi một cái, con vật chồm tới phi nước đại chạy thẳng lên bắt kịp, đi ngang với đoàn xa kiệu. Lý-Mộng-Ngọc chạy đến kiệu của Lý phu-nhân hỏi thăm. Nhìn thấy ngựa của con gái đang cỡi, Lý phu-nhân không sao nín được cười.
Lý-Mộng-Ngọc ngạc-nhiên không hiểu vì sao mẹ lại cười. Nàng hỏi thì mẹ nàng hỏi rằng:
-Cái đuôi ngựa của con đâu rồi?
Lý-Mộng-Ngọc nghe hỏi sững sờ bèn quay đầu lại ngó, và chợt nhớ ra đuôi con ngựa của mình bị người có bướu xén mất trở thành ‘ngựa cụt đuôi’. Nhưng hình như suy được điều, Lý-Mộng-Ngọc không khỏi kinh ngạc tự nhủ thầm:
-Dùng bàn tay chặt gẫy cây thương hay cây mâu cũng chẳng có gì là lạ. Cái đuôi con ngựa mềm như thế mà hắn dùng tay ‘xén’ được thì cũng lạ!
Lý-Mộng-Ngọc lại kềm ngựa lại định chờ sư-phụ Lục-Phỉ-Thanh đến để hỏi cho chắc ăn, nhưng nghĩ lại thêm mắc cở với thầy nên lại ra roi quất ngựa chạy lên nhập vào toán dẫn đầu đoàn xa kiệu. Vừa trông thấy Tham-tướng Tăng-Đồ-Nam, nàng hỏi ngay:
-Tăng tham-tướng! Chẳng hiểu sao con ngựa của tôi lại rụng mất cái đuôi trông xấu xí quá!
Nhìn Lý-Mộng-Ngọc thở ra não nuột cùng với gương mặt buồn thỉu buồn thiu của nàng, Tăng-Đồ-Nam hiểu ngay ý của con gái chủ tướng mình muốn gì. Ông ta liền thưa:
-Con chiến-mã của tôi đây thuộc giống thần mã, vừa được chủ tướng cho để đỡ chân. Ác nghiệt thay, nó lại có tật sa tiền mà tôi chưa trị được! Nghe nói tiểu-thư có tài cỡi ngựa giỏi lắm, vậy tôi sẵn sàng tạm đổi ngựa cho tiểu-thư. Chẳng hay tiểu-thư nghĩ sao?
Lý-Mộng-Ngọc được Tăng-Đồ-Nam khen giỏi, lại sẵn sàng chịu đổi ngựa cho thì trong bụng mừng rỡ vô cùng. Nàng nói:
-Tham-tướng có lòng như vậy thì thật quý hóa thay. Con tuấn mã của tôi đây cũng thuộc loại ngựa quý hiếm có. Bất quá nó chỉ bị rụng mất cái đuôi nên hơi khó coi chút thôi!
Hai người đổi ngự cho nhau xong, Tăng-Đồ-Nam phi ngựa chạy trước. Lý-Mộng-Ngọc ở đàng sau nhìn tới không nhịn được, phải ôm bụng mà cười. Tăng-Đồ-Nam quay lại nói:
-Cỡi con ngựa không đuôi thấy chương chướng làm sao ấy! Thế nào tôi cũng phải tìm cách ráp cho nó một cái đuôi giả coi mới được.
Đang khi ấy, tiếng rao truyền của Trấn-Viễn tiêu-cục mỗi lúc mỗi gần. Không đầy mấy khắc, một đoàn trên 20 cỗ xe tứ mã cùng đi tới một lượt, không biết chuyên chở gì mà trông rất nặng nề. Xe nào xe nấy đều phủ vải dầu kín mít.
Lục-Phỉ-Thanh sợ trong đám này có người nhận ra mình nên xoay lưng day lại, kéo nón lá phủ xuống nửa mặt, khẽ liếc nhìn vào người tổng tiêu-sư đang cỡi ngựa đi ngang qua. Ông ta cố giữ nét bình thản như một người khách đi đường, không để ý đến ai cả, chợt nghe tiếng một tiêu-sư nói với đồng bọn rằng:
-Tôi nghe Hàn đại ca nói lại thì Tiêu-Văn-Kỳ tam ca không biết mất tích nơi nào mà tìm không thấy đâu cả.
Lục-Phỉ-Thanh giật mình kinh hãi, quay đầu lại nhìn thử hình dáng người tiêu-sư ấy. Hắn có một hàm râu bạc rậm rạp, đôi mắt sáng quắc như diều-hâu, tướng mạo cực kỳ hung ác. Lục-Phỉ-Thanh cố ghì ngựa lại một vài giây để cho hắn vượt qua. Nhìn phía sau lưng, ông ta thấy hắn có mang trên vai một chiếc hầu bao màu hồng, bên hông hắn đeo một thứ binh khí rất kỳ quặc của một môn phái ngoại-gia tên gọi Ngũ-Hành-Luân. Lục-Phỉ-Thanh nghĩ thầm trong bụng:
-“Hay là nhóm Quảng-Đông Lục Ma gia nhập vào Trấn-Viễn tiêu-cục làm tiêu-sư cả rồi cũng nên!”
Nhóm Quảng-Đông Lục Ma nổi tiếng là người nào cũng võ-nghệ trác tuyệt. Con ma thứ năm là Diêm-Khôi và con ma thứ sáu là Diêm-Thế-Chương cùng dùng một thứ binh-khí giống nhau là Ngũ-Hành-Luân. Bọn này vốn gốc từ thiếu-lâm tách ra.
Lục-Phỉ-Thanh thầm nghĩ chuyến này mới ra ngoài có mấy ngày mà đã gặp không biết bao nhiêu là cao-thủ võ-lâm rồi. Nếu họ là đều là người của triều-đình mật phái theo dõi mình thì thật là ‘lành ít dữ nhiều’.
Càng nghĩ, Lục-Phỉ-Thanh càng lo. Càng lo, ông ta càng cẩn thận đề-phòng và quan-sát tinh tế hơn. Nhưng suy đi tính lại, rốt cuộc vẫn thấy không ổn.
Lục-Phỉ-Thanh nghĩ thầm:
-“Nếu chỉ có một mình ta thì có phải lẩn tránh thì thật không khó lắm, nhưng ngặt vì theo bên còn có một đứa học trò liếng thoắng, hay sinh sự không đâu. E rằng đại họa trước sau khó mà tránh được!”
Nhưng rồi ông ta lại nghĩ:
-“Mà chắc không phải bọn ấy theo dõi gì ta đâu. Chúng hẳn có việc cấp bách nào khác. Như Triệu-Bán-Sơn là bạn chí thiết của ta mà cũng có mặt trong đám cao-thủ ấy thì lấy tình mà xét, chẳng lẽ lại giết hại ta sao?”
Lục-Phỉ-Thanh cho rằng giả điều suy-luận sau cùng là hữu lý nhất nên cũng thấy có đôi phần hơi yên tâm.
Lý-Mộng-Ngọc đang cỡi ngựa đi song song với Tăng-Đồ-Nam, thấy sư-phục đã đến gần liền cười nói ông:
-Sư-phụ à! Hôm nay sao chưa gặp ai cả? Chả bù với hôm qua, mở mắt ra là đụng đầu luôn một hơi năm cao-thủ phi ngựa tiến về hướng Tây. Ngựa của họ phi nhanh đến độ bay luôn cái đuôi ngựa của Tăng tham-tướng! Thầy xem có lạ không?
Lục-Phỉ-Thanh cười nói:
-Có như vậy con mới tỉnh ngộ được phần nào cũng như dằn bớt cái tính tự cao tự đại xuống. Dùng bàn tay mà chặt đứt đuôi ngựa như xén tóc thì bản lãnh người ấy đã đến mức siêu đẳng rồi. Nhưng bây giờ con nhắc lại năm người có bản lãnh hôm qua phi ngựa về hướng Tây thầy mới sực nhớ ra. Chỉ vì lộn hồn lộn vía mà thầy quên mất chuyện ‘thiên lý tiếp long đầu’
(#1)!
Lục-Phỉ-Thanh từng trải giang-hồ rất nhiều nên thông thường mọi chuyện chỉ cần trông phớt qua là hiểu ngay. Chỉ vì ông ta mải lo tính cho việc riêng của mình nên không còn đầu óc nào để suy nghĩ đến việc khác.
Lý-Mộng-Ngọc hỏi:
-Sư-phụ giải thích cho con nghe ‘thiên lý long đầu’ là gì vậy? Con hoàn toàn không hiểu!
Lục-Phỉ-Thanh từ từ cắt nghĩa:
-Đó là một nghi lễ long trọng nhất của các bang hội trong giang-hồ khi đón tiếp một nhân vật ‘tối quan-trọng’, thường là một lãnh-tụ, có thể là chưởng-môn nhân hay là bang-chủ, bảo-chủ gì đó. Bình thường, đi đón rước một nhân-vật được xem là quan-trọng trong môn phái hay bang hội thôi đã phải huy-động đến sáu người, theo thể-thức một người nối đuôi một người mà đi, trước sau cho đủ sáu người. Nhưng nếu đón rước một người ‘tối quan-trọng’ thì con số đó tăng lên gấp đôi, phải từng cặp một nối tiếp nhau thay vì từng người một, cho đến khi đủ sáu cặp thì thôi. Chúng ta đã thấy tất cả năm cặp đi ngang qua rồi, thế nào cũng phải còn một cặp nữa. Và người nào chắc hẳn là một lãnh-tụ của một môn phái hay một bang hội nào đó.
Lý-Mộng-Ngọc hỏi tiếp:
-Sư-phụ có thể đoán được họ thuộc về môn phái hay bang hội nào không?
Lục-Phỉ-Thanh lắc đầu nói:
-Thầy cũng chưa biết rõ được. Nhưng có điều con phải nghe lời thầy căn dặn là từ nay về sau nhất nhất không được chọc ghẹo bất cứ ai nữa mà rước họa vào thân như không đấy! Con đã nhìn thấy Tây Xuyên Song Hiệp và được chứng kiến bản-lãnh của ‘người có bướu’ thế nào rồi. Chứng tỏ đây là một môn phái hay là một bang hội lớn, rất có thế-lực và có nhiều cao-thủ võ-nghệ tuyệt luân chứ không phải là một hội phái tầm thường đâu.
Lý-Mộng-Ngọc cúi đầu không đáp, nhưng trong lòng không mấy gì vui. Lục-Phỉ-Thanh đang trông chờ một cặp nữa đi về hướng tây cho đủ sáu cặp theo nghi-tiết ‘thiên lý long đầu’ mà ông ta tiên đoán. Đột nhiên, tai Lục-Phỉ-Thanh nghe rõ ràng có tiếng vó ngựa đâu đâu nhưng mắt thì lại chẳng trông thấy gì. Ông ta nghĩ thầm:
-Đằng trước chẳng trông thấy gì cả. Hay là tiếng vó ngựa vang lại từ phía sau?
Lục-Phỉ-Thanh quay lại vẫn không thấy người hay ngựa ở đâu, nhưng lại có tiếng rổn rảng như là tiếng lục lạc từ cổ lạc-đà thì đúng hơn. Chỉ trong chốc lát, phía sau cát bụi tung lên mịt mù, và Lục-Phỉ-Thanh trông rõ ràng là một đoàn người, hình như là một đám khách thương rất đông từ vùng sa-mạc đi tới. Cả Lục-Phỉ-Thanh lẫn Lý-Mộng-Ngọc đều nới cương ngựa chậm lại từ từ chờ đợi, chẳng chút vội vã hay gấp rút.
Không bao lâu, đoàn khách thương đã đến gần. Đoài người gồm 14 con lạc đà và vài chục con ngựa. Người cỡi lạc-đà là người Duy
(#2), một dân-tộc thiểu số ở phí Bắc sa-mạc Tây-Bá-Lợi-Á. Người Duy mũi cao, mắt nâu, cằm rộng, râu nhiều rậm-rạp, đầu vấn một giải khăn làm bằng vải trắng. Có lẽ họ từ xứ Hồi vào đây để buôn bán.
Hồi còn ở ngoài biên-cương, Lục-Phỉ-Thanh đã từng gặp khách thương người Duy nhiều lần rồi nên không lấy gì làm lạ và thấy chẳn có gì phải để ý. Nhưng bỗng nhiên trước mắt Lục-Phỉ-Thanh tỏa ra những tia sáng long lanh. Một thiếu-nữ mặc áo vàng ngồi trên lưng một con bạch mã lông trắng như tuyết phi như bay, xẹt qua ngang hông Lục-Phỉ-Thanh như một mũi phi- tiêu. Trông nàng như một dáng tiên-nga, phục sức hoa lệ, khí vũ hiên ngang. Trên đầu nàng đội một cái mão. Trên mão có một cặp lông trĩ màu sắc huy hoàng cắm cao lên. Trông nàng thật là xinh đẹp, vừa thùy-mị khả ái. Thật là một đóa kỳ hoa của vùng sa-mạc.
Lục-Phỉ-Thanh nhìn thiếu-nữ với cặp mắt đầy ngưỡng mộ, thầm khen rằng không biết tại sao trong thiên-hạ lại có được một người đẹp đến thế này.
Còn Lý-Mộng-Ngọc khi trông thấy dung nhan kiều diễm của thiếu-nữ người Duy ấy cũng phải bần thần trố mắt nhìn. Từ lúc sinh trưởng trong vùng biên ải phía Tây-Bắc cho đến lúc trưởng thành, nàng chưa từng được thấy qua một cô gái nào có vẻ đẹp mơ mộng, hồn nhiên với thân hình ‘quỳnh dao ngọc thụ’ và trang sức dũng điệu đến thế. Trông nàng ta vừa như một tiên-nữ lại vừa như một nữ-hiệp.
Lý-Mộng-Ngọc cũng vốn là một thiếu-nữ trâm anh khuê các, dung nhan kiều lệ tuyệt vời mà còn phải thán phục, mười phần ganh tị sắc đẹp thì đủ hiểu thiếu-nữ người Duy kia có sức quyến rũ đến thế nào!
Dưới lớp ‘cải nam-trang’
(#3) thì Lý-Mộng-Ngọc trở thành một thanh-niên khôi ngô tuấn tú cho dẫu Tống-Ngọc hay Phan-An tái sinh cũng không thể sánh bằng.
Thiếu-nữ người Duy đó trông chỉ vào khoảng độ 17-18 tuổi là cùng. Bên hông nàng đeo một con dao hơi cong cong trông thật là sắc bén, y-phục một màu vàng, dệt bằng lông thiên-nga, đầu đội cái mão thắt chỉ gấm vàng gọi là ‘kim-ty tú mạo’. Hai cái lông phỉ-thúy cắm trên mão khiến cho người ta tưởng tượng đến Phàn-Lê-Hoa trong ‘Tiết-Đinh-San Chinh Tây’. Nàng cỡi con bạch mã, yên cương làm toàn bằng bạc trắng chói ngời.
Lý-Mộng-Ngọc cứ nhìn mà tấm tắc khen thầm mãi, nghĩ rằng dù người đẹp trong tranh cũng còn kém xa thiếu-nữ người Duy này.
Thiếu-nữ người Duy thình lình bắt gặp đôi mắt một ‘chàng thanh-niên phong-lưu mỹ mạo’ cứ nhìn mình chàm chặp một cách sỗ sàng khiếm lễ thì vừa thẹn, vừa tức giận. Nàng thúc ngựa vượt qua khỏi Lý-Mộng-Ngọc liếc mắt nhìn sang vẫn còn thấy cặp mắt say sưa của ‘chàng thanh-niên’ người Hán cứ dán chặt mãi vào mình không rời. Không dằn được cơn giận, thiếu-nữ người Duy gọi lên một tiếng thật lớn:
-Gia gia!
(#4)Từ phía sau, một người đàn ông thân hình cao lớn, trông rất tráng-kiện, mắt sáng, râu rậm thúc ngựa phóng lên. Thiếu-nữ người Duy ra hiệu, người đàn ông ấy hiểu ý giục ngựa đến sát ngựa Lý-Mộng-Ngọc vỗ mạnh vào vai hỏi:
-Người bạn trẻ kia! Tại sao lại có thái-độ thiếu lịch-sự đối với một người con gái lạ như thế?
Lý-Mộng-Ngọc miệng như há hốc. Nhưng nàng quên rằng mình đang ăn mặc giả đàn ông giả nên đương nhiên cho rằng câu hỏi của người đàn ông nọ thật hết sức vô lý vì vẫn đinh ninh rằng mình với cô thiếu-nữ người Duy kia đồng là phận ‘quần thoa’ với nhau.
Thông thường thì chỉ cần một người con trai mà ngắm nhìn một người con gái chằm chặp như thế thì có thể gọi là ‘luân-lý bại hoại’ chứ chẳng cần phải có một mối quan-hệ nào. Với người Hán cũng vậy, mà với người Duy cũng thế.
Trong trường-hợp này, giả-sử như Lý-Mộng-Ngọc biết mình sơ xuất mà chịu xuống nước một tí xin lỗi, dùng lời khôn khéo mà giải bày thì chắc cũng không đến nỗi nào. Nhưng đàng này Lý-Mộng-Ngọc đã quen với quan-cách, chỉ biết quát nạt người khác chứ có bao giờ bị ai quát nạt hay hạch sách bao giờ. Thêm vào đó, nàng lại ỷ mình có một bản-lãnh cao-siêu về võ-nghệ nên không xem người đàn ông kia ra gì.
Lý-Mộng-Ngọc không thèm trả lời hay đếm xỉa tới, lại buôn tiếng cười mỉa mai, toan giục ngựa chạy thẳng. Người đàn ông giận đỏ cả mặt, râu tóc dụng ngược lên. Y đưa cánh tay gân guốc ra chụp một cái thật mạnh vào chùm lông đầu của con tuấn mã Lý-Mộng-Ngọc. Một chùm lông đầu của con ngựa sút hẳn ra, nằm gọn trong tay y. Sau đó, người đàn ông bèn trao chùm lông đó cho thiếu-nữ người Duy.
Con ngựa của Lý-Mộng-Ngọc sau khi bị bứt mất một chùm lông đầu thì đau quá nhảy dựng ngược lên, thiếu chút nữa là hất Lý-Mộng-Ngọc rơi xuống đất. Thiếu-nữ người Duy tung chùm lông đầu của ngựa Lý-Mộng-Ngọc lên không trung lấy roi ngựa quất vào một cái, cả chùm lông bay tán loạn, rụng tơi tả như những sợi tơ.
Lý-Mộng-Ngọc tức giận muốn điên tiết lên. Nàng rút ra một mũi Cương-tiêu nhắm hậu tâm thiếu-nữ người Duy phóng một cái nhanh như điện xẹt. Vì quá tức giận nên Lý-Mộng-Ngọc không cần đắn đo gì cả nên mới hạ độc thủ như vậy. Mũi Cương-Tiêu vừa ra khỏi tay, Lý-Mộng-Ngọc lập tức hối hận ngay vì biết tính mạng thiếu-nữ người Duy có thể bị nguy hại vì ám-khí của nàng. Nghĩ vậy, nàng bèn lalớn lên:
-Cô nương, mau tránh mũi Cương-tiêu!
Thiếu-nữ nguời Duy như chẳn cần phải nhờ tới lời cảnh-cáo của ‘chàng thanh-niên người Hán’ kia. Nàng bình tĩnh né sang bên mặt rồi thuận tay bắt lấy mũi Cương-tiêu của Lý-Mộng-Ngọc như lấy đồ chơi trong túi. Sau đó, thiếu-nữ người Duy nhắm bụng Lý-Mộng-Ngọc phóng trả lại, miệng gọi lớn:
-Ta trả ám khí lại cho đó! Cất đi!
Đôi bên cách nhau chỉ chừng một trượng mà cây Cương-tiêu qua lại chỉ trong chớp nhoáng, mắt phàm không thể trông được. Lý-Mộng-Ngọc cũng lách người tránh khỏi và đưa tay bắt lại câu Cương-tiêu của mình. Nàng kinh hãi, biết rằng bản-lãnh thiến nữ người Duy kia không thua gì mình.
Đoàn khách thương khi sa-mạc sau khi được xem màn phóng tiêu ngoạn-mục giữa thiếu-nữ người của bên mình cùng ‘chàng thanh-niên người Hán’ thì vỗ tay hoa hô nhiệt liệt như vừa xem xong một trò biểu-diễn chứ nào hay rằng cái trò ‘biểu diễn’ đó có thể giết chết người như không. Người đàn ông mà thiếu-nữ người Duy gọi là cha có vẻ buồn buồn, không được vui. Ông ta gọi thiếu-nữ nói mấy câu bằng tiếng lóng thổ-ngữ riêng của họ. Chỉ thấy nàng thiếu-nữ thưa rằng:
-Con xin vâng!
Nói xong, không cần nhìn Lý-Mộng-Ngọc, thiếu-nữ người Duy giơ roi quất nhẹ vào mông con bạch mã nàng cỡi một cái nhẹ. Bốn vó tung như bay lên khỏi mặt đất, chỉ trong giây lát cả người lẫn ngựa đều mất hút.
Đoàn lạc-đà và đoàng ngựa lục-tục do người đàn ông cao lớn kia điều khiển lại tiếp tục lên đường. Tất cả lần lượt vượt qua kiệu của Lý thái-thái rồi biến dần trong đám bụi mờ.
Lục-Phỉ-Thanh dừng ngụa xem tấn kịch xảy ra từ đầu chí cuối xong mới cười nói với Lý-Mộng-Ngọc rằng:
-Bây giờ chắc con hẳn đã tin lời thầy là ‘ngoài trời còn có trời, trên người còn có người’
(#5) rồi chứ? Trong một ngày mà một con ngựa của con bị xén mất đuôi, còn một con thì hói mất lông đầu. Đây là một bài học con phải ghi nhớ chớ đừng nên xao lãng. Thầy xem thiếu-nữ người Duy đó trạc tuổi với con nhưng tài-nghệ trội hơn con đó!
Lý-Mộng-Ngọc cãi:
-Con thấy thiếu-nữ người Duy đó tài-nghệ chưa có gì lấn được con. Con phóng Cương-tiêu ả bắt được, nhưng khi ả phóng trả thì con cũng bắt được dễ dàng mà thôi. Bất quá là chỉ ngang nhau thôi. Vả lại, hai bên cũng chưa chính-thức đụng độ bằng võ-công chân chánh.
Lục-Phỉ-Thanh chỉ cười:
-Ừ! Có lẽ... rồi con sẽ biết!
Đến chiều, đoàn xa kiệu cũng như đoàn quân hộ-vệ gia-quyến Lý-Khả-Tú đến Bồ-Long-Cát. Thị-trấn này có một khách-điếm rất lớn, với một tấm bảng đề là ‘Thông-Đạt Khách-Sạn’. Trước ngõ là một cây tiêu-kỳ của Trấn-Viễn tiêu-cục đang bay phất phới.
Vì đã được thông-báo trước là sẽ có hai nhóm khách rất đông và sang trọng sẽ tới Bồ-Long-Cát nên chủ-nhân khách-sạn Thông-Đạt đã sắp xết đầy đủ, đâu vào đó. Những phòng dành riêng cho đoàn Trấn-Viễn tiêu-cục hay những phòng nào chuẩn-bị đón rước gia-quyến cùng binh lính hộ-vệ của Lý-Khả-Tú đều được phân-biệt rõ ràng, có thứ tự đàng hoàng. Vì vậy, khi đến nơi, ai nấy đều được người của khách-sạn đưa ngay vào phòng nghỉ ngơi, tắm rửa, ăn uống mà không cần phải mất công chọn lựa.
Lục-Phỉ-Thanh tắm gội, thay đổi y-phục xong thì thấy trên bàn đã có sẵn một bình trà thơm ngon, hương tỏa ngào-ngạt và mấy cái chén nhỏ và một cái ly lớn do người hầu mang tới từ hồi nào. Lục-Phỉ-Thanh bèn rót ngay vào cái ly lớn, thay vì dùng chén nhỏ để thưởng-thức từ từ hương-vị thơm ngon của trà. Ông mang ly trà đến phòng khách tìm một góc im lặng ngồi một mình. Phòng này, chủ-nhân dành chung cho tất cả khách quý của Thông-Đạt khách-sạn tự-tiện đến nghỉ ngơi, nói chuyện khảo chứ không cho ai mướn riêng. Nhìn vào trong, Lục-Phỉ-Thanh thấy có mấy người đang ngồi tại hai cái bàn lớn đang ăn cơm.
Lục-Phỉ-Thanh chợt nhận ra có hai người, mà một tên mang cái khăn gói màu hồng gặp trên lộ trình. Hắn vẫn mang khăn gói trên lưng, nhưng khí giới thì đã lấy ra khỏi người để trên bàn, cạnh hắn. Cà hai nét mặt dương dương tự đắc, nói năng tự-do không giữ gìn như chẳng cần xem ai ra gì.
Lục-Phỉ-Thanh hớp một ngụm trà, ngước mặt lên để ý nhìn sắc trời. Tai ông nghe thấy tiếng một tiêu-sư cười nói huênh-hoang:
-Diêm ngũ gia, anh có dám chắc rằng bảo vật của anh sẽ đến nơi bình yên không? Nếu không gặp trở ngại mà đem được về kinh an-toàn thì nhất định Thiên-Tướng-Quân sẽ thưởng cho anh một số bạc lớn, đồng thời sẽ thăng lên chức quan to để bù lại công-lao khó nhọc. Tới chừng đó, anh sẽ sung sướng và được vinh-dự biết bao!
Lục-Phỉ-Thanh nói thầm trong bụn rằng:
-À, thì ra hắn là nhân-vật đứng thứ năm trong Quảng-Đông Lục Ma tên gọi Diêm-Thế-Khôi. Hèn chi!
Nghĩ vậy, ông ta liền chăm chú để ý nhìn kỹ xem thần sắc của hắn. Diêm-Thế-Khôi nói:
-Một là thưởng tiền, hai là thưởng chức chứ có lẽ nào Triệu tướng-quân lại rộng rãi đến thế được! Nhưng ý tôi thì không muốn cả hai thứ đó. Tôi muốn một điều khác kia...
Diêm-Thế-Khôi chưa nói dứt câu thì có tiếng ‘ồ ồ’ của một người nói ngắt lời:
-Lạ thật! Cả hai điều sung sướng thế mà anh đều không muốn thì hỏi còn muốn cái giống gì đây?
Lục-Phỉ-Thanh để ý nhìn xem người nào vừa thốt câu đó. Trông y chẳng khác nào một con quỷ đói, tướng mạo thật hung hãn.
Lục-Phỉ-Thanh bụng bảo thầm:
-Nếu hắn được tuyển làm tiêu-sư thì đương nhiên bản-lãnh không phải tầm thường.
Diêm-Thế-Khôi nghe câu ấy thì có vẻ không được vui, thở ra một hơi dài. Người tiêu-sư thứ nhất bất chợt lên tiếng:
-Đổng-Triệu-Hòa! Bộ anh tưởng chung quanh ta không có tai vách mạch rừng hay sao mà ăn nói tự-do, bừa bãi như thế?
Người tiêu-sư có hình dung như quỷ đói, tức Đổng-Triệu-Hòa tính tình hết sức nóng nảy và lỗ mãng. Nghe đồng-nghiệp trách như vậy thì không bằng lòng, cho rằng hắn ta coi thường tài lực mình và có ý bảo mình bất cẩn, lơ là với trách-nhiệm. Nghĩ vậy, hắn liền lớn tiếng như muốn gào lên:
-Tôi chẳng phải như những kẻ ‘miệng hùm gan sứa’ kia đâu! Việc gì tôi làm thì quyết làm cho đến nơi đến chốn, dù chết cũng chẳng cần! Tôi không hề biết sợ ai và cũng không bao giờ lùi bước trước những gian nan hiểm nghèo!
Nhưng khi Đổng-Triệu-Hòa vừa nói xong câu ấy thì Diêm-Thế-Khôi lại tưởng là hắn xỏ xiên coi thường mình nên mặt đỏ tía tai la hét inh ỏi:
-Anh bảo ai là ‘miệng hùm gan sứa’? Anh ám chỉ ai vậy? Anh có dám bảo đảm là trách-nhiệm của anh lãnh sẽ làm tròn được không?
-Tôi không ám chỉ ai cả. Tôi chỉ nói chung chung mà thôi. Tóm lại, những kẻ chỉ có nói mà không làm được thì toàn thị là những thứ anh hùng rơm. Còn công việc của tôi thì dĩ nhiên tôi phải hoàn thành.
Diêm-Thế-Khôi cười gằn:
-Được vậy thì tốt lắm! Nếu anh đạt được kết quả như lời anh nói thì tôi sẽ phục anh sát đất!
Lục-Phỉ-Thanh lắng tai nghe một hồi lâu nhưng vẫn không hiểu bọn chúng cãi nhau về chuyện gì. Đang định về lại phòng thì lại nghe tiếng Đổng-Triệu-Hòa nói:
-Diêm ngũ gia này! Anh muốn cưòi tôi cứ cười, muốn chê cứ chê. Có điều tôi nói thật cho anh nghe là nếu cái bao vải hồng kia mà được khoác lên vai này thì chớ ai hòng mà cướp được nó! Có lo thì tự lo cho các anh thì hơn. Đừng để cho thanh danh hơn 30 năm của Trấn-Viễn tiêu-cục cùng với uy-tín của Vương-Duy-Dương phải mai một đi!
Diêm-Thế-Khôi cả giận nói:
-‘Chú em’ Đổng-Triệu-Hòa chớ có nói xàm! Chờ đến lúc Diêm ngũ gia ta đem bộ kinh này đến nơi an toàn sẽ cho chú em thấy thế nào là bản-lãnh lợi hại. Diêm-Thế-Khôi là một nhân vật lừng danh trong Quảng-Đông Lục Ma, chưa từng khiếp sợ ai hay để ai uy hiếp. Công việc của Trấn-Viễn tiêu-cục có lẽ nào lại hư hại dưới tay ta? Cái bao trên lưng ta gắn liền với tánh mạng ta, chú biết chưa?
Lục-Phỉ-Thanh nghe nói những lời ‘mục hạ vô nhân’
(#6) như thế thì liếc mắt nhìn sơ qua cái bao trên lưng hắn, thì thấy chẳng có gì là lớn lắm. Cứ nhìn bề ngoài mà xét thì chắc hẳn là bên trong không có chứa vật gì to lớn nặng nề cả.
Đổng-Triệu-Hòa lại lên tiếng:
-Oai danh lừng lẫy cũng như bản-lãnh cao-siêu của Quảng-Đông Lục Ma, đúng như anh vừa nói, anh mà lại không biết? Chỉ hiềm một nỗi là nhân vật thứ ba không biết mất tích hay bị kẻ thù ám hại mà mãi đến nay vẫn không biết sống chết nơi nào, kẻ thù là ai tưởng đáng chua xót lắm thay. Nói ra anh đừng buồn, nhưng coi chừng giang-hồ sẽ đổi danh-hiệu của các anh lại là ‘Quảng-Đông Ngũ Ma’ đấy!
Diêm-Thế-Khôi vỗ bàn một cái ‘rầm’ làm cho chén dĩa nhảy tưng lên như khiêu vũ, lớn tiếng thét lên:
-Chú mày đừng chọc tức ta chứ! Làm gì bọn ta không biết kẻ thù ám hại Tiêu tam ca là ai?
-Là ai? Sao tôi nghe các anh đề cập đến tên họ một lần nào?
-Còn ai vào đây? Chính là HỒNG HOA HỘI! Nhất định chỉ có HỒNG HOA HỘI!
Lục-Phỉ-Thanh sững sờ, bụng bảo thầm:
-Quái lạ! Rõ ràng là mình giết chết Tiêu-Văn-Kỳ sao bọn chúng là quả quyết là Hồng Hoa Hội? Mà Hồng Hoa Hội là đảng phái nào? Sao trong từng ấy năm lưu lạc giang-hồ mà mình được nghe đến tên bao giờ?
Nghĩ vậy, Lục-Phỉ-Thanh nhẹ chân bước ra khỏi phòng khách ra ngoài đến đến một thân cây cổ thụ đang đơm bông, dùng thuật khinh công vọt một cái lên trên ngồi ngay chân ba mà không gây nên tiếng động nào cả. Cây cổ thụ này ở sát phòng các tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục nên Lục-Phỉ-Thanh vừa nhìn thấy, vừa lắng tai nghe được dễ dàng hơn.
Đổng-Triệu-Hòa tay bưng chung rượu tu vài ngụm rồi đặt xuống, khẽ vuốt chòm râu miệng tiếp tục nói khích:
-Thật là đáng buồn thay cho tình nghĩa bạn bè quá đi! Tôi đây không phải là cốt nhục của Tiêu tam gia mà nói đến đây lòng dạ như đốt như thiêu. Giá tôi mà thề nguyền sinh tử với Tiêu tam gia hẳn sau bữa cơm này sẽ xách gươm đi tìm Hồng Hoa Hội mà trả thù cho bằng được chứ không thể ngồi yên tại đây mà lo hết chuyện này đến chuyện kia.
Diêm-Thế-Khôi bị Đổng-Triệu-Hòa trêu chọc đủ điều, dùng lời nói xa nói gần để ‘móc họng’ thì lửa giận phừng phừng bốc lên, nhưng đành im lặng vì không biết cách nào mà trả lời.
Bỗng một tiêu-sư nói xen vào vừa để làm dịu bớt bầu không khí căng thẳng, vừa là để chữa bớt thẹn cho Diêm-Thế-Khôi:
-Vị Tổng-Đà-Chủ
(#7) của Hồng Hoa Hội là Vu-Vạn-Đình chết hôm đầu tháng vừa rồi tại tại Vô-Tích. Việc này trong giới giang-hồ còn ai là chẳng hay biết? Vả lại vụ Tiêu tam gia bị ám hại không có bằng chứng cụ thể nào để buộc tội cho Hồng Hoa Hội được. Thử hỏi, muốn làm cho ra chuyện thì bắt đầu ở đâu, cách nào? Nếu chúng ta đến chất vấn, Hồng Hoa Hội phủ nhận, đòi đưa chứng cớ ra thì sao đây? Anh Đổng-Triệu-Hòa có biện-pháp nào hay nhờ giúp chúng tôi ý kiến thử?
Đổng-Triệu-Hòa bị người tiêu-sư ấy bẻ cho mấy câu cứng họng, không còn dám huênh hoang lên mặt thầy đời nữa.
Hằn đổi từ giọng chua cay sang giọng pha lửng mà rằng:
-Bọn Hồng Hoa Hội chỉ có tài ỷ mạnh hiếp yếu, tất có ngày các anh sẽ ra tay trừng trị chúng thẳng tay, hà tất phải làm gấp rút làm chi cho mệt trí. Chỉ có một việc cần gấp hiện tại là các anh phải đem được bộ kinh về dâng cho Triệu tướng quân. Năm bộ kinh đã vào tay tướng quân rồi thì các anh muốn bao nhiêu vàng bạc trâu dê gì lại không được? Và lúc bấy giờ, cứ mượng thế-lực của Triệu tướng-quân mà bắt buộc Hồng Hoa Hội làm điều gì mà chúng lại dám từ chối? Hoặc giả Diêm ngũ gia không muốn vậy thì xin Triệu tướng-quân tặng cho một cô gái Hồi tuyệt đẹp mà vui với tuổi già cũng sướng chán!
Trong khi Đổng-Triệu-Hòa đang cao giọng lớn tiếng pha trò với bọn tiêu-sư một cách hiu hiu tự đắc thì bất ngờ tai hắn nghe một tiếng ‘vèo’, rồi một vật gì như đất bùn bay tới! Đổng-Triệu-Hòa chưa kịp cúi xuống thì cục bùn bay lọt vào trám miệng hắn lại như ‘thầy chùa ngậm xôi’. Đổng-Triệu-Hòa miệng ấm ứ không nói được tiếng nào. Hai người tiêu-sư có mặt trong phòng ấy lập tức rút vũ khí, củng nhảy bổ một lượt ra ngoài sân.
Diêm-Thế-Khôi cũng vội vã đứng dậy nhảy luôn ra sân phóng lên lưng ngựa cột sẵn tại đó, tay cầm cây Ngũ-Hành-Luân chuẩn bị đối phó với những gì bất ngờ.
Em ruột Diêm-Thế-Khôi là Diêm-Thế-Chương nghe tiếng động cũng chạy đến nơi kịp thời, theo anh hộ-vệ. Cả hai anh em họ Diêm đều không lo gì hơn là gìn gìũ cái bao màu hồng trên lưng Diêm-Thế-Khôi nên chỉ đứng yên tại chỗ chứ không nghĩ đến chuyện truy tầm kẻ thích khách nào đó, sợ trúng phải kế ‘Điệu Hổ Ly Sơn’
(#8).
Đổng-Triệu-Hoa lúc đó đã nhổ được cục bùn từ trong miệng ra rồi bắt đầu chửi. Những tiếng nguyền rủa độc địa chẳng khác một trận mưa chửi mà không có ao hồ nào mà chứa đựng cho hết nổi! Hắn gọi cả ba họ tám đời ông tằng ông tổ kẻ nào chơi ác cho hắn ‘ăn’ vật ‘không mấy thơm tho’ đó.
Diêm-Thế-Khôi thấy bộ tịch Đổng-Triệu-Hòa thì vừa buồn cười, vừa thấy ‘đáng kiếp’, lại được cơ-hội trả đũa nên phá lên cười nói:
-Xưa nay chửi rủa có chết ai bao giờ đâu? Chỉ hao hơi tổn tiếng thì có! Nhưng cũng tại chú hay nói khoác nên kẻ kia mới trám bớt miệng chú lại đó!
Đổng-Triệu-Hòa phần giận kẻ ‘chơi ác’, phần thì giận Diêm-Thế-Khôi thừa dịp ‘trả thù’ lại mình lại càng chửi rủa bạo thêm nữa.
Bỗng có hai tiêu-sư từ ngoài cửa bước vào. Một người là Thái-Vĩnh-Minh sử dụng một cây nhuyễn tiên, còn một người là Tiền-Chính-Luân sử dụng một thanh đơn đao. Cả hai cùng thở hổn hển nói:
-Kẻ gian trốn mất rồi, không làm sao tìm được vết tích nào!
Tấn kịch vừa rồi dĩ-nhiên đều lọt cả vào mắt Lục-Phỉ-Thanh. Mà là một màn ‘kịch sống’ thật ngoạn mục từ đầu đến cuối. Lục-Phỉ-Thanh nhận thấy Đổng-Triệu-Hòa là một tên gian manh già mồm giỏi nịnh, chỉ thích nói dóc và nói bậy nên bị ăn cục bùn là đáng lắm. Ông ta đang cười thầm trong bụng lại thấy ở góc đường phía Đông có một bóng người đang ẩn núp. Người này mặc đồ dạ-hành. Trời lại tối đen như mực nên giả-sử không có cặp mắt dạ quang của người hiệp khách thì khó lòng mà nhận ra.
Lại có một bóng người từ trên nóc nhà nhảy xuống đất nhẹ nhàng còn hơn chiếc lá rụng. Cái bóng này cứ nhắm hướng Đông mà phi tới vùn vụt như tên bắn. Lục-Phỉ-Thanh không còn nghi ngờ gì nữa, biết đích xác chính người này đã thảy cục bùn vào mồm Đổng-Triệu-Hòa. Không rõ đây là nhân vật như thế nào, ông ta dùng khinh công theo bén gót để xem cho rõ mặt. Trên tay Lục-Phỉ-Thanh vẫn còn cầm ly trà, vì lúc mới đến khách-sạn chưa kịp uống trà thì đã phải vội vã chạy sang phòng khách dò xét động tịnh. Kế đó, hết chuyện này đến chuyện kia xảy ra nên ông chưa có dịp trở về phòng lần nào.
Suốt mấy mươi năm khổ luyện khinh công nên Lục-Phỉ-Thanh đã đạt đến mức ‘lô hỏa tuyệt thanh’ nên ít có người nào sánh kịp. Ấy thế mà chạy mãi, Lục-Phỉ-Thanh vẫn không thể bắt kịp được bóng người phía trước. Chỉ trong chốc lát, bóng người đó đã mất hút.
Chỉ trong khoảnh khắc, cả hai bóng đen đã rời xa khách-sạn đến năm, sáu dặm đường. Lúc ấy, Lục-Phỉ-Thanh mới nhận được lờ mờ cái bóng đen phi thân trước mặt. Đó là một người nhỏ thó, lanh lẹ và ẻo lả tựa như là một thiếu-nữ hơn là một thanh-niên. Cứ nhìn mà xét thì lối khinh của hai bóng đen ấy đã đến mức cao-thâm tuyệt-diệu. Và cứ thế, hai bóng đen kẻ trước người sau, như hai lằn tên xẹt bay mãi không ngừng.
Khi vượt qua một triền núi thì phía trước hiện ra một cụm rừng già cây cối sum xuê, tối đen như mực chẳng còn phân-biệt được đâu là đâu nữa. Thoáng một cái, cái bóng đen mảnh khảnh đàng trước đã chạy sâu vào trong khu rừng rậm ấy.
Lục-Phỉ-Thanh vẫn không chịu bỏ cuộc, cứ một mạch theo đường rừng mà đuổi theo mặc dầu chẳng còn trông rõ được gì nữa hết. Vào trong bìa rừng được chừng một dặm thì cành khô lá rụng áng mất lối đi, không còn biết đi đường nào cho đúng hướng được nữa. Chân bước trên cành lá khô xào xạc, Lục-Phỉ-Thanh sợ rằng người phía trước nghe được âm-thanh thì biết có người đang truy-kích và sẽ sử dụng ám khí thì thật rất nguy hiểm.
Nghĩ vậy, Lục-Phỉ-Thanh tạm dừng gót mà cố tìm ra cách nào là thượng sách thì chỉ trong nháy mắt, không còn thấy tung tích của bóng đen trước mặt nữa.
Trong giang-hồ thường có câu khuyên răn đầy kinh-nghiệm là ‘gặp rừng chớ vào’
(#9). Vả lại, đêm thì tối, rừng thì rậm, dầu có được cặp mắt dạ quang, có tài dạ hành của một cao-thủ đi chăng nữa cũng khó mà tránh được kẻ thù khi chận ngạch thi hành ám toán.
Lục-Phỉ-Thanh là người tinh tế cẩn thận nên không dám đi sâu vào thêm nữa. Đang định thối lui trở về thì bỗng mây đen chợt tan đi, một vầng trăng sáng trong suốt từ trên không trung xuyên qua kẽ lá rọi xuống khắp rừng.
Ngước mặt nhìn ra phía trước, Lục-Phỉ-Thanh trông rõ là bóng một cô gái áo vàng lại từ trong cụm rừng vùn vụt trở ra.
Lục-Phỉ-Thanh chọn một lùm cây xanh rậm của một cây cổ thụ mà nhảy lên trốn để quan-sát. Cách này rất hay vì ông ta có thể nhìn thấy rõ cả bốn bề mà không sợ bị ai phát-giác được mình.
Cách cây cổ thụ đang trú không xa lắm, Lục-Phỉ-Thanh trông thấy rõ ràng dưới ánh sáng của ‘chị Hằng Nga’ có tới tám, chín cái màn làm bằng vải bố được căng ra. Thật là một chuyện hết sức lạ lùng khiến cho tánh hiếu kỳ của Lục-Phỉ-Thanh không thể nào làm ngơ được.
Lục-Phỉ-Thanh định tâm nhất định phải tới nơi dọ thám một phen từ ngoài vào trong, từ trong ra ngoài! Có hai người đi qua đi lại, hình như là giữ nhiệm-vụ canh gác. Chờ cho họ đi qua khỏi, Lục-Phỉ-Thanh dùng phép đề-khí phóng một cái rơi xuống nhẹ nhàng sau lưng một con lạc đà đang đứng nhai cỏ bên ngoài màn vải. Người đứng gác vẫn điềm nhiên làm phận sự như không có gì xảy ra.
Bởi vì Lục-Phỉ-Thanh võ-nghệ tuyệt đỉnh, đảm lược phi thường nên mới dám có hành động phiêu-lưu mạo hiểm thế này. Thấy ở lều này không nghe rõ được gì, Lục-Phỉ-Thanh phi thân vọt sang phía sau lưng tấm màn vải lớn ở ngay chính giữa. Xem xét đâu vào đó cẩn thận, Lục-Phỉ-Thanh nằm rạp mình dưới đất lắng tai nghe.
Bên trong lều có những tiếng thốt lên với giọng nói thật lẹ và ‘líu lo’, nghe như là của người Duy. Tuy rằng Lục-Phỉ-Thanh từng sống ở quan-ải lâu năm nhưng cũng không hiểu hết được ngôn ngữ của họ. Cố gắng lắng tai nghe thật kỹ, may ra chỉ hiểu được phân nửa câu chuyện họ bàn tán với nhau mà thôi.
Lục-Phỉ-Thanh khẽ giở một góc lều he hé lên vừa đủ cho cặp mắt nhìn vào được. Bên trong có hai ngọn đèn dầu đang cháy sáng. Ở trong lều, người này có thể nhìn rõ được mặt người kia không khó, nhưng nếu có kẻ ở bên ngoài vô tình đi ngang qua thì ắt bên trong không làm sao phát hiện ra được bởi bị tấm vải lều che khuất.
Lục-Phỉ-Thanh để ý thấy chung quanh hai ngọn đèn có rất nhiều người ngồi xếp bằng thứ tự dưới đất, già có, trẻ có. Những người này chẳng phải ai khác lạ, mà chính là những người Duy mà Lục-Phỉ-Thanh đã gặp qua lúc ban ngày trước khi đến sông Bảo-Tháp.
Bỗng một giọng nói thanh tao dịu dàng chậm rãi ngân lên làm cho bầu không khí yên lặng thêm vẻ trang nghiêm.
Lục-Phỉ-Thanh quay mặt ngó sang chỗ phát ra giọng nói ấy thì không khỏi kinh ngạc. Thì ra đó là ‘cô gái áo vàng’. Khi nàng vừa nói xong câu ấy liền ngừng lại một chút đưa mạnh cánh tay lên như thề cương quyết hoàn thành một sứ mạng nào đó. Kế đến, nàng đưa tay rút từ trong bao ra một ngọn đao cong cong trông thật là sắc bén, tỏa ra hào quang sáng chói, nhìn mà lạnh cả người.
Cô gái áo vàng đưa bàn tay mặt ra, dùng lưỡi dao cứa đứt một vạch nhỏ ở một đầu ngón tay cho máu tươi nhỏ ròng ròng xuống vào ngay chính giữa một bình rượu có hình dạng giống hệt như một cái vú ngựa cái đang cần sữa hứng sẵn ở đó từ bao năm.
Noi theo gương cô gái áo vàng, tất cả những người Duy có mặt trong lều đều rút dao đeo bên hông ra, rồi từng người một tự cứa vào ngón tay mình để nhỏ huyết vào bình rượu ấy.
Sau khi tất cả mọi người làm xong nghi lễ ‘thích huyết’, cô gái áo vàng liền lớn tiếng gọi:
-Gia gia!
Tức thì một người Duy cao lớn, với dáng điệu hùng mạnh bưng bình rượu ấy giơ lên cao, long trọng nói một tràng tiếng Duy.
Lục-Phỉ-Thanh không hiểu được ý nghĩa toàn câu, chỉ nghe rõ được mấy tiếng ‘Khả-Lan-Kinh’ và ‘cố hương yêu dấu’. Còn đang suy nghĩ cố tìm cách hiểu câu nói kia thì cô gái áo vàng lại tiếp lời cho người Duy cao lớn mà nàng gọi là ‘gia gia’, hay nói cho đúng hơn là lập lại nguyên-văn lời nói của ông ta. Giọng nói của nàng êm ái, nghe rất thanh tai nhưng không kém phần cảm khái lâm ly.
Cũng như lần trước, Lục-Phỉ-Thanh nghe ‘tiếng được tiếng mất’, nhưng chuyến này ông hiểu được đây là một lời thề, đại ý là: “Nếu chúng ta không đoạt lại được ‘Khả-Lan-Kinh
(#10) của Thần Thánh lưư truyền cho dân tộc thì thà chết ở xứ người chứ không trở về quê hương yêu dấu nữa”.
Cô gái áo vàng vừa thề xong tức thì tất cả những người Duy kia cũng lần lượt lên tiếng lập lại lời tuyên-thệ đó. Ai nấy đều tỏ vẻ uất hận và cương quyết như sẵn sàng đem tánh mạng mình ra để hy-sinh cho sứ mạng sắp thi-hành của họ.
Dưới ánh đèn mờ, Lục-Phỉ-Thanh trông rõ được vẻ mặt của từng người một. Người nào người nấy đều khí khái can-trường, đầy nhiệt tâm nhiệt huyết trước trách-nhiệm thiêng liêng.
Sau phần tuyên-thệ, bình rượu hình mã nhũ
(#11) được hòa với máu rót ra làm ba chung, truyền tay từng người mà cùng nhau uống cho đến cạn. Sau đó họ cùng nhau bàn luận xôn xao, tất cả mọi người đều đóng góp ý kiến. Buổi họp hết sức trang trọng, chẳng khác gì một hội-nghị thượng đỉnh của bộ ‘tổng tham mưu’.
Đến lúc này, Lục-Phỉ-Thanh có thể kết luận rằng đám người Duy kia lần này vượt sa-mạc vào quan-ải không ngoài mục-đích thi-hành một công tác trọng yếu chứ không phải chỉ là buôn bán tầm thường mà thôi.
Dân tộc họ có một bộ sách truyền quốc mà họ xem như vật vô giá thiêng liêng của Thần Thánh để lại. Đó là bộ Khả-Lan-Kinh
(#12). Chẳng may, bộ sách ấy bị kẻ nào đó cướp đi mất nên họ thề nhất quyết phải theo đến nơi mà đoạt lại cho kỳ được, hoặc là chết. Lục-Phỉ-Thanh muốn biết rõ nhóm dân tộc người Duy ấy gốc gác thế nào nhưng vẫn chưa nghĩ ra được.
Nguyên đám ngưòi Duy này vốn là dân trong bộ-lạc du-mục thuộc Thiên-Sơn Bắc-Lộ, dân số vào khoảng trên dưới 20 vạn. Thủ-lãnh của họ là Tù-trưởng Mộc-Trác-Luân, rất được dân chúng thương mến và kính phục. Mộc-Trác-Luân võ-nghệ trác tuyệt mà nhân nghĩa cũng vang dội khắc gần xa.
Cô gái áo vàng là con gái lớn của Mộc-Trác-Luân tên gọi Tiêu-Thanh-Đồng
(#13), vốn là đệ-tử yêu quý nhất của Thiên-Sơn Kỳ-Hiệp Trần-Chánh-Đức phu-nhân, nhũ danh là Quan-Minh-Mai. Tiêu-Thanh-Đồng nhờ vậy mà học được những võ công tuyệt-kỹ của phái Thiên-Sơn.
Hai vợ chồng Trần-Chánh-Đức và Quan-Minh-Mai dù là người của phái Thiên-Sơn nhưng thích cảnh an nhàn ẩn dật thành thử chỉ muốn sống riêng biệt, không qua lại với môn phái. Bất luận hành hiệp nơi đâu cũng chỉ có hai vợ chồng với nhau mà thôi. Giới giang-hồ thường gọi hai người là ‘Thiên-Sơn Song Ưng’. Hai người niên-kỷ bằng nhau, ngoài 60.
Vợ chồng Thiên-Sơn Son Ưng rất thương yêu nhau, nhưng có điểm lạ kỳ là hễ gần thì xô xát, mà xa lại nhung nhớ. Tuổi hai người đã già mà tâm tính vẫn còn như lúc trẻ, không thay đổi chút nào. Các bằng-hữu quen thuộc thường gọi đùa là ‘Hoan-Hỉ Oán-Gia’.
Tiêu-Thanh-Đồng thấy vợ chồng sư-phụ lúc nào cũng ‘cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt’ thì cố dùng đủ cách để hòa giải cho vui vẻ cả nhà nhưng kết quả vẫn không đi đến đâu nên lắm lúc nàng cũng đâm ra buồn lây.
Tiêu-Thanh-Đồng thích mặc áo vàng, đội nón tơ có giắt cặp lông phí-thủy nên giang-hồ đặ cho nàng mỹ hiệu là ‘Phiêu-Hiệu Nữ Lang’, còn giới võ-lâm thuộc Thiên-Sơn Nam Bắc phái thì gọi nàng với danh-hiệu là ‘Túu Vũ Hoàng Khổ’.
Người Duy thuộc bộ-lạc Thiên-Sơn này chuyên sống du-mục nay đây mai đó. Dưới thời nhà Thanh, thế-lực vua Càn-Long lan rộng ra tới bộ-lạc những người Hồi
(#14). Hết vùng này tới vùng nọ bị sát nhập vào Thanh trào. Các dân tộc thiểu số như họ như cô thế, luôn luôn bị uy hiếp. Quan lại nhà Thanh đi lại liên miên, hạch sách đủ điều làm cho nhân dân khổ sở đến ta thán.
Mộc-Trác-Luân lúc đầu cũng muốn được yên thân nên đem vàng ngọc của cải ra đút lót cho quan lại nhà Thanh. Nhưng túi tham của bọn quan tham ô thì lại không đáy. Dù cho bao nhiêu của cải tích trữ bao lâu đem nộp cho chúng cũng vẫn không đủ. Lúc nào chúng cũng có cớ để hạch sách.
Sau cùng, của kho đã cạn, mà của dân thâu góp cũng kiệt quệ! Mộc-Trác-Luân phải cùng với dân chúng đi làm nghề buôn để sinh sống. Ngoại trừ con đường đó, người Duy chẳng còn cách gì khác hơn.
Để giữ yên được đất đai, nhiều lần Mộc-Trác-Luân đặc-phái sứ giả đem lễ vật đến Y-Lê cầu xin quan cai-trị nhà Mãn-Thanh hãy thương tình dân chúng người Duy nghèo khổ giảm cho các sưu cao thuế nặng. Nhưng có đời nào triều-đình lại chịu thế! Lời kêu xin của Mộc-Trác-Luân đã chẳng được hiệu quả gì mà còn khiến cho triều-đình Mãn-Thanh đâm ra nghi kỵ, sợ người Duy nổi dậy, kéo theo sự hưởng ứng của người Hồi.
Quan cai-trị là Triệu-Huệ-Trinh, biết dân-tộc người Duy có một bộ sách của tổ tông nhiều đời để lại là ‘Khả-Lan-Kinh’ Bộ kinh-thư này được thỉnh từ xứ Mạch-Gia
(#15) là nơi phát sinh ra Hồi-Giáo nên dân-tộc người Duy thờ kính và vô cùng sùng bái.
Bộ Khả-Lan-Kinh được xem như là quốc bảo, chỉ có vị Tù-trưởng mới có quyền cất giữ, đã trải qua được mấy chục đời...
Biết được giá-trị của bộ kinh này đối với dân-tộc người Duy nên thừa lúc Mộc-Trác-Luân đem hết những kẻ thuộc-hạ thân tín theo ông ta đi xứ xa buôn bán, Triệu-Huệ-Trinh mới sai một cao-thủ lẻn sang bên ấy cướp lấy bộ Khả-Lan-Kinh đem về cho hắn. Triệu-Huệ-Trinh nghĩ rằng một khi nắm được bộ kinh này trong tay thì không còn phải sợ người Duy nổi lên phản kháng lại triều-đình nữa, tha hồ cho hắn mặc sức đòi hỏi bất cứ những gì, Mộc-Trác-Luân cũng phải riu ríu tuân theo.
Cái bao vải màu hồng mà Diêm-Thế-Khôi mang trên vai không khi nào dám rời cho dù là lúc ăn hay lúc nghỉ chỉ vì trong đó có ‘bảo vật’ mà Triệu-Huệ-Trinh đang cần là bộ Khả-Lan-Kinh.
Do đó mà Mộc-Trác-Luân với Tiêu-Thanh-Đồng và cả nhóm người Duy thề đem tánh mạng ra hy-sinh để đoạt lại cho bằng được bộ kinh ‘truyền quốc’ đó.
Bấy giờ, Lục-Phỉ-Thanh hiểu rõ là mưu đồ của đám người Duy kia chẳng díng dấp gì đến việc riêng của mình nên không muốn để ý hay nghe thêm chuyện riêng của họ nữa nên dùng thuật đề-khí mà đứng thẳng dậy một cách gọn ghẽ, nhẹ nhàng. Vừa lúc ấy, ông bỗng thấy tất cả mọi người trong lều đều rập xuống một cái, nằm im trên mặt đất cả thảy.
Lục-Phỉ-Thanh hoang mang trong lòng, liền dùng thuật khinh công chạy ra khỏi chỗ núp. Chẳng ngờ chỉ trong nháy mắt Tiêu-Thanh-Đồng đã phát-giác ra được là có người lén rình nghe rõ mọi chuyện nên ghé tai Mộc-Trác-Luân nói nhỏ:
-Gia gia! Bên ngoài có kẻ lạ mặt.
Dứt lời, nàng phi thân ra khỏi lều và thoáng thấy có một bóng người cứ theo đường rừng mà chạy thoăn thoắt như bay. Tiêu-Thanh-Đồng liền rút một ngọn Thiết-Liên-Tử nhắm theo cái bóng người ấy mà phóng đến ‘vèo’ một tiếng.
Lục-Phỉ-Thanh đang lúc chạy tháo thân chưa ra khỏi được rừng thì nghe sau lưng có tiếng gió thì biết ngay là có ám khí. Ông lách mình né sang một bên trong khi tay vẫn còn cầm ly trà. Mũi Thiết-Liên-Tử vừa phóng tới, Lục-Phỉ-Thanh lấy bàn tay gạt mộ cái làm mũi ám-khí rớt ngay xuống đất.
Nhưng tiếp theo đó, lại có thêm một mũi thứ hai phóng tới với tốc độ lẹ làng như tên bắn. Lục-Phỉ-Thanh dùng ly trà hứng một cái, mũi Thiết-Liên-Tử bắn xuyên qua ly, nhưng lạ thay không làm cho ly vỡ mà lại dính chặt vào đáy ly.
Lục-Phỉ-Thanh thầm khen ngợi bản lãnh Tiêu-Thanh-Đồng. Ông không quay đầu nhìn lại mà cứ tiếp tục dùng khinh công bay thẳng một hơi về khách-sạn.
Tại khách-sạn, mọi người đã an giấc từ lâu. Bốn bề vắng ngắt. Đêm dài như vô tận, chìm đắm trong bóng tối. Một gã giúp việc trong khách-sạn tay dụi mắt như vừa thức dậy miệng lè nhè hỏi:
-Thưa, lão gia chưa đi nghỉ? Chắc vì đêm nay nóng nực nên lão gia đi hóng mát phải không?
Lục-Phỉ-Thanh chỉ ậm ừ vài tiếng cho qua. Vào trong phòng ngủ, ông ta rút mũi Thiết-Liên-Tử ra khỏi đáy ly trà ra xem xét. Mũi ám-khí được làm bằng một loại gang rất tốt gọi là ‘Tinh-cao’. Trên mũi phi-tiêu có khắc một hình lông cánh của một loài chim. Ngắm ngía một hồi, Lục-Phỉ-Thanh bèn cấy mũi Thiết-Liên-Tử ấy vào trong người...
Sáng sớm hôm sau, đoàn bảo-tiêu đã chuẩn bị đâu đó xong xuôi, sửa soạn lên đường tiếp tục cuộc hành-trình. Mấy tên hướng-đạo
(#16) ở hàng đầu lớn tiếng truyền rao:
-Bọn ta phái võ Duy-Dương...
Sau đó là cây tiêu-kỳ có hình bát quái của Trấn-Viễn tiêu-cục theo gió bay phất phới dẫn lộ cho một hàng tiêu-xa khởi hành.
Lục-Phỉ-Thanh thấy các cỗ tiêu-xa chở hàng hóa đi như bay, tương đối rất nhẹ nhàng, chứng tỏ là hàng hóa không chút nặng nề và hình như cũng không mấy gì được quan tâm đến cho lắm. Bình thường, nếu xe chở vàng bạc châu báu quý giá hay những hàng hóa nặng nề thì vết bánh xe sẽ in sâu xuống mặt đường và các tiêu-sư cũng như các cao-thủ hộ-vệ sẽ rong ngựa bịt kín hai bên xe. Đằng này, vết bánh xe không in sâu xuống đường, và có khi cả mấy cỗ xe liên tiếp bỏ ngõ, không có ai cỡi ngựa đi kè để bảo-vệ. Trái lại, các tiêu-sư đều tập trung cả lại vào việc bảo-vệ cho Diêm-Thế-Khôi. Chắc chắn một điều không thể lầm lẫn được là bảo vật phải nằm ngay chốn ấy, thậm chí ngay trên mình của Diêm-Thế-Khôi. Chẳng hạn như cái bao màu hồng khoác trên vai y... Đó mới chính là vật quan-trọng đáng giữ gìn.
Đoàn bảo tiêu của Trấn-Viễn tiêu-cục đi được khoảng nửa tiếng thì Tham-tướng Tăng-Đồ-Nam cũng điều động chỉ huy quân lính bảo-vệ đoàn xa kiệu của gia-quyến Lý-Khả-Tú lên đường...
Quãng đường này toàn là đá đỏ lởm chởm đồng thời lại gặp những khúc nghiêng của triền núi nên không thể nào đi mau được. Tuy vậy, Tăng-Đồ-Nam vẫn phải thúc giục quân lính ráng cố gắng làm sao lên được đỉnh núi để xuống kịp chân núi bên kia trước khi mặt trời lặn vì sẽ gặp được tại đó ba khách điếm và ba đường đi.
Đường đi trên núi hiểm hóc vô cùng. Càng lên cao, đường càng hẹp lại. Tăng-Đồ-Nam và Lý-Mộng-Ngọc phải theo sát kiệu của Lý thái-thái và Lý phu-nhân canh chừng, giữ gìn cẩn thận không dám lơ đễnh chút nào vì rủi nếu một tên kiệu-phu lỡ sẩy tay sẩy chân tất nhiên sẽ làm đổ nguyên cả kiệu xuống vực thẳm, thân thể xương thịt người trong kiệu sẽ nát bấy như tương.
Đến giờ Thân, đoàn xa kiệu đã tới đèo Ô-Kim. Trước mặt là đoàn tiêu của Trấn-Viễn tiêu-cục. đang xuống ngựa ngồi nghỉ chân. Tăng-Đồ-Nam thấy vậy cũng cho đoàn xa kiệu của mình tạm dừng bước, nghỉ mệt trong giây lát.
Đèo Ô-Kim nằm ngay chính giữa hai ngọn núi cao chót vót, như giáp với mây trên trời nếu trông từ xa lại. Giữa hai núi có một con đường ‘độc đạo’ chỉ có thể đi tới mãi mà không thể dừng chân lại nghỉ ngơi được vì đường đã dốc lại hẹp, chỉ vừa đủ cho một cỗ xe tứ mã qua lại mà thôi. Đã đến điểm này ắt phải đi thẳng một hơi lên trên đỉnh núi chứ không còn đường nào để lựa chọn cả!
Lục-Phỉ-Thanh chậm rãi đi rẽ phía đàng sau, ý không muốn cho người của Trấn-Viễn tiêu-cục trong thấy mặt ông.
Nghỉ ngơi được một lát, đoàn tiêu-xa của Trấn-Viễn tiêu-cục bắt đầu lên đường, và đoàn xa kiệu của gia-quyến Lý-Khả-Tú theo sau nối liền, cách không bao xa, chỉ vừa đủ khoảng cách theo đúng luật giang-hồ để đoàn tiêu-xa đi trước khỏi nghi kỵ là có ý này nọ. Xa xa trông hai đoàn giống hệt một con rồng đang vươn mình bò sát giữa một cái hố sâu thăm thẳm, vách đá dựng cao ngất.
Cả người lẫn ngựa đều mệt toát mồ hôi, vừa leo dốc vừa thở. Những người lãnh trách-nhiệm tải hàng hóa và đồ vật tương đối nặng lên tiếng reo hò luôn để cổ võ cho nhau hầu quên đi cái nặng nhọc trước mắt.
Lục-Phỉ-Thanh đi đàng sau chợt phát-hiện bên hữu của đĩnh đèo chót vót có một bóng người dường như núp theo bóng cây để tiện bề rình rập chi đó. Cùng lúc đó, ông lại nghe có tiếng lục lạc của bầy lạc đà ngân lên và từ trên triền núi xuất hiện một đám người Duy cỡi ngựa phi như bay xuống.
Cả đoàn tiêu-xa của Trấn-Viễn tiêu-cục hoảng sợ kêu la thất thanh, bảo nhau phải làm sao ngăn cản được đám kỵ-sĩ ấy, vì cái trớn đổ đèo thần tốc kia sẽ đẩy nguyên đoàn tiêu-xa xuống vực thẳm tan xương!
Đổng-Triệu-Hòa điếng hồn, la lên:
-Thôi chết rồi! Thật vô phương chặn đứng lại kịp!
Đám kỵ-sĩ người Duy với kỵ-thuật tài tình khéo léo lanh lẹ dị thường, cứ tiếp tục giục ngựa sải xuống với khí thế vô cùng dũng mãnh, chẳng khác chi sóng vỗ nước tràn.
Đoàn kỵ-sĩ, độ chừng chục người trở lại thình lình cất tiếng hát vang lên. Tiếng hát của họ lảnh hót ngân vào trong vách đá làm vang dội lại một thứ âm thanh nghe rất là kỳ quái, chẳng hiểu chi là chi!
Cũng lúc ấy, hai bên chót của đỉnh đèo xuất hiện những bóng người, có lẽ là đã mai-phục sẵn từ bao giờ đứng dậy như ma quỷ hiện hình cũng trổi giọng hát hòa nhịp với đám kỵ-sĩ. Cả đoàn tiêu-xa vừa lo sợ, vừa ngạc-nhiên đến sửng sốt.
Thình lình, trong đám người Duy kia phát ra một tiếng hồ tiêu. Có hai kỵ-sĩ người Duy bỗng giục ngựa phi như bay, tách hẳn đoàn xông thẳng về phía Diêm-Thế-Khôi. Hai người đột nhiên tấn công vào kỵ-sĩ đi phía sau bảo-vệ cho Diêm-Thế-Khôi là Diêm-Thế-Chương, và bốn con lạc-đà cùng tới một lượt vây chặt Diêm-Thế-Khôi vào giữa.
Hai anh em họ Diêm trong Quảng-Đông Lục Ma có nhiều kinh-nghiệm trong những cuộc đương đầu với các cao-thủ nên cho dù đứng trước tình trạng hiểm nghèo mà tinh-thần không bị rối loạn. Hai người biết là đang bị ở thế bất lợi, không thể dùng số đông mà đối phó được với đám người đông đảo từ trên dốc đánh xuống như thác nước đổ. Cả Diêm-Thế-Khôi lẫn Diêm-Thế-Chương đều rút binh-khí ra tự lực đối phó và tùy cơ ứng biến.
Bốn người Duy cỡi bốn con lạc-đà bỗng đưa cao cây côn sắt rồi cùng nhau đánh bổ xuống đỉnh đầu Diêm-Thế-Khôi một lượt. Cây côn sắt của họ vốn không phải là vũ-khí tầm thường. Mỗi cây phải nặng trên trăm cân, mà cả bốn người đều có sức mạnh ghê gớm cả. Đã ở trong thế kẹt mà chỗ đứng lại nhỏ hẹp nên không làm sao né tránh kịp chỉ còn cách nhắm mắt bưng tai mà chịu trận, chờ chết mà thôi. Toàn thân Diêm-Thế-Khôi luôn cả con ngựa hắn cỡi đều nát ra như cám, thịt xương, máu óc văng tung tóe, dính cả lên ngọn lá cành cây, đẫm tràn trên mặt lộ.
Một bóng vàng trong đám người Duy cỡi ngựa phóng ra. Người đó chính là Tiêu-Thanh-Đồng chứ chẳng phải ai khác hơn. Nàng bước tới phía trước lanh lẹn nhảy từ trên yên xuống cẩn thận rút kiếm cắt giây buộc nơi cái bao vải màu hồng ở trên lưng Diêm-Thế-Khôi thì nghe sau lưng có một luồng gió tạt đến, một lưỡi kiếm nhắm vào nàng đâm thẳng tới.
Tiêu-Thanh-Đồng chỉ chú-trọng vào chiếc bao hồng thôi nên không có ý muốn giao chiến, nên nàng khẽ lách mình tránh khỏi mũi kiếm hiểm ác đó. Tay nàng cầm kiếm cố cắt nốt những đường giây còn lại dính liền cái bao hồng trên lưng Diêm-Thế-Khôi.
Nhưng kẻ vừa đâm mũi kiếm kia quyết không để cho Tiêu-Thanh-Đồng có đủ thì giờ để cướp đi cái bao vải hồng mà bọn hắn đã liều mình bảo-vệ, dùng tánh mạng Diêm-Thế-Khôi để giữ gìn cho nên Tiêu-Thanh-Đồng vừa tránh kịp được mũi kiếm thứ nhất thì mũi kiếm thứ nhì lại nhắm thẳn vào hông nàng mà đâm tới. Mũi kiếm này so với mũi trước thì có phần hiểm ác hơn nhiều.
Biết chẳng thể né tránh kịp được mũi kiếm này, Tiêu-Thanh-Đồng buộc lòng phải đưa lưỡi kiếm của nàng ra đón đỡ. Hai lưỡi kiếm va chạm vào nhau một cái thật mạnh đến lóe lửa, tạo nên một âm thanh hết sức ghê rợn.
Biết địch thủ của nàng không phải tầm thường, Tiêu-Thanh-Đồng không dám chậm trễ, vội vã nhanh tay cắt bừa những mối giây cột bao vải hồng nhưng tai mắt luôn luôn đề phòng những biến cố chung quanh vì nếu sơ ý có thể mất mạng như chơi trong đường tơ kẽ tóc. Người kia lại chém ngay cườm tay nàng thêm một nhát kiếm nữa. Tiêu-Thanh-Đồng rút vội bàn tay trái của nàng lại tránh được lưỡi kiếm của đối phương dễ dàng mà còn lấy hai ngón tay trỏ và ngón tay giữa của nàng xỉa vào đối phương cùng với mũi kiếm. Người kia chỉ khẽ lùi lại đã tránh được cả mũi kiếm và mũi xỉa bằng tay của nàng.
Tiêu-Thanh-Đồng uất hận vô cùng. Nàng ngước mắt nhìn lên xem thử là ai đã ba lần làm cho nàng mất cơ hội đoạt lại cái bao hồng trên lưng Diêm-Thế-Khôi. Nàng lại càng lồng lộn lên khi thấy rõ kẻ đó chính là ‘chàng thanh-niên tuấn tú’ đã từng giở thói vô lễ với nàng lúc gặp nhau trên đường lộ. Tiêu-Thanh-Đồng không hiểu oan-gia nào phá rối mà cứ khiến xui cho chàng thanh-niên kia đeo theo cản trở công việc sắp thành công của nàng.
Tiêu-Thanh-Đồng nộ khí xung thiên vung kiếm lên chém loạn xạ như bão táp mưa sa. ‘Chàng thanh-niên’ ấy cũng thi triển hết những thế kiếm bí hiểm tạo nên một trận ác đấu dữ dội như gió chạy cát bay.
Tiêu-Thanh-Đồng vừa đấu vừa căm phẫn. Nếu không phải vì ‘chàng thanh-niên’ này xen vào công việc của nàng với đám tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục thì công-tác của nàng đã hoàn thành, nhiệm vụ của nàng đã viên-mãn. Vì chàng thanh-niên ấy mà bao nhiêu công lao, bao nhiêu hy-sinh của mồ hôi nước mắt của dân nàng há đành trôi theo giòng nước hay sao?
‘Chàng thanh-niên’ ấy chẳng phải ai khác hơn là cô gái cải nam-trang Lý-Mộng-Ngọc. Nàng đang ở đoàn xa kiệu theo hầu bà nội và mẹ bỗng nhiên thấy thấy đội lạc-đà của người Duy bao vây đoàn xa tiêu của Trấn-Viễn tiêu-cục mà tấn công. Chẳng cần biết đắn đo lợi hại hay phân biệt điều phải trái ra sao lại tự-phụ vào tài năng nên Lý-Mộng-Ngọc xông lên ngăn cản Tiêu-Thanh-Đồng với mục-đích thử tài cao thấp. Chỉ vì nàng nghe sư-phụ Lục-Phỉ-Thanh khen Tiêu-Thanh-Đồng võ-nghệ giỏi hơn mình nên không phục, hễ gặp cơ-hội là tìm cách giao đấu để làm thỏa mãn tự ái của mình ngay.
Quả đúng như lời tiên đoán của Lục-Phỉ-Thanh, chính vì cái thông-minh của Lý-Mộng-Ngọc đã khiến cho nàng lầm lạc!
Những người ở bên triền núi chỉ trố mắt nhìn sang trận đấu thư hùng giữa Tiêu-Thanh-Đồng và Lý-Mộng-Ngọc. Tiêu-Thanh-Đồng đâm một hơi ba kiếm nhưng bị Lý-Mộng-Ngọc giải trừ được hết làm cho nàng đầu nóng tai ù, tức giận đến cực độ. Nàng dư hiểu là trong đám tiêu-sư theo bảo-vệ Diêm-Thế-Khôi kia có nhiều kẻ có bản-lãnh cao siêu không dễ cho nàng thắng nổi. Nếu ra tay ở chỗ lớn ắt mười phần nhắm thất bại cả mười. Do đó Tiêu-Thanh-Đồng mới chọn đồi Ô-Kim, là nơi hiểm yếu để thi hành kế hoạch, lấy lợi thế trên cao đánh xuống, rất hữu hiệu cho chiến thuật ‘xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị’. Chỉ một trận đánh có thể thành công được. Tới chừng đó, khi nhiệm-vụ hoàn tất cả đoàng ca khúc khải-hoàn trở về nơi tổ-quốc thân yêu thì còn gì vui vẻ hân hoan hơn nữa.
Tiêu-Thanh-Đồng lần này thi hành kế hoạch nắm chắc phần thắng trong tay. Dù cho đối phương có đông người, võ-nghệ có cao siêu đến bậc nào cũng không tài nào đối phó kịp. Mưu kế như Gia-Cát
(#17), cơ trí như Châu-Du, Tiêu-Thanh-Đồng đã dùng kỵ binh lũng kích Diêm-Thế-Khôi mười phần nguy kịch, bắt buộc đám tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục phải lọt vào kế hành quân của nàng, chỉ đứng ngoài mà ngó chứ không dám vào trợ chiến. Tiêu-Thanh-Đồng quả nhiên đã chận đứng được đám tiêu-sư kia. Không ai dám liều mạng xông vào vì biết nếu làm thế thì chỉ uổng mạng như Diêm-Thế-Khôi hoặc nguy khốn như Diêm-Thế-Chương mà thôi.
Thành công đã thấy trước mắt. Nào ngờ Lý-Mộng-Ngọc can thiệp vào! Tiêu-Thanh-Đồng có ngờ đâu là nàng bị cái thế ‘trợ Kiệt’ là Lý-Mộng-Ngọc dù cố ý hay vô tình đã đứng vào phe Trấn-Viễn tiêu-cục!...
Tâm-hồn của Tiêu-Thanh-Đồng chỉ có được một nửa trong trận đánh, còn một nửa kia cứ canh cánh nghĩ mãi về chiếc bao màu hồng trên lưng Diêm-Thế-Khôi đã chết. Cho nên càng đánh, nàng lại càng thấy kiếm-pháp của Lý-Mộng-Ngọc kỳ-diệu thật khó lòng mà đánh thắng để lấy được cái bao hồng. Tiêu-Thanh-Đồng toát cả mồ hôi ướt đẫm như tắm.
Không thể ham đánh mãi, Tiêu-Thanh-Đồng đột nhiên phóng ra một thế kiếm gọi là ‘Tam Phân Kiếm Thuật’ của phái Thiên-Sơn, đánh Lý-Mộng-Ngọc lùi dần ra sau. Thế kiếm này là tuyệt-kỹ của phái Thiên-Sơn, không bao giờ truyền cho ai ngoại trừ một vài đệ-tử thân tín như Tiêu-Thanh-Đồng.
Lý-Mộng-Ngọc thấy kiếm-pháp của Tiêu-Thanh-Đồng bỗng nhiên biến ảo vô cùng. Một đường kiếm biến thành ba, kiếm quan hết sức linh động. Có một điều là thế ‘Tam Phân Kiếm Thuật’ này chỉ có công mà không có thủ. Bao nhiêu lợi hại đều tuôn ra hết, không dành lại cho mình một chiêu nào để phòng thân cả.
Thấy Tiêu-Thanh-Đồng dùng thế ‘Băng Hà Đảo Tả’ đâm tới vô cùng mạnh mẽ, Lý-Mộng-Ngọc bèn dùng chiêu ‘Nhất Trụ Hương’ với ý định đánh bạt lưỡi kiếm địch thủ qua một bên. Nhưng chẳng ngờ chỉ còn cách nhau hai thước chiêu kiếm của Tiêu-Thanh-Đồng tức khắc lại biến thành thế ‘Thiên Lý Lưu Sa’ gạt lưỡi kiếm của Lý-Mộng-Ngọc sang một bên rồi cứ thế thẳng đường đâm tới.
Lý-Mộng-Ngọc kinh hãi vô cùng, vội vàng chuyển mũi kiếm trở về trước bụng để bảo-vệ. Nhưng thật là kỳ quái, rõ ràng địch thủ đâm mũi kiếm ngay bụng Lý-Mộng-Ngọc với tất cả sức mạnh nhưng chưa tới đích thì đã chuyển ra thế ‘Phong Quyện Trường Thảo’, từ trên sa xuống như điện xẹt chém mạnh vào cánh trỏ tay trái của Lý-Mộng-Ngọc làm cho nàng luýnh quýnh chỉ còn nước liều nhảy ra sau một bước. Vừa tránh được lưỡi kiếm lợi hại ấy trong đường tơ kẽ tóc, chưa kịp hoàn hồn thì Tiêu-Thanh-Đồng lại biến ra thế ‘Cử Hỏa Liệu Thiên’ quay ngược mũi kiếm từ dưới lên trên nhanh như gió, chém sả vào vai trái Lý-Mộng-Ngọc.
Lý-Mộng-Ngọc vừa tránh khỏi đươc thì Tiêu-Thanh-Đồng lại ra thế ‘Tuyết Trung Kỳ Liên’ chém tả chém hữu vùn vụt như tên lìa khỏi cung. Mặc dầu Tiêu-Thanh-Đồng không có ý làm tổn hại đến tánh mạng Lý-Mộng-Ngọc nhưng cũng ghép nàng vào tình trạng vô cùng khốn đốn.
Cả hai giao đấu với nhau một lúc đã khá lâu, không biết là bao nhiêu hiệp. Lý-Mộng-Ngọc mệt lả cả người, mồ hôi đổ như tắm. Đó là Tiêu-Thanh-Đồng chỉ dùng có một phần trong ‘Tam Phân Kiếm Thuật’ bí truyền của phái Thiên-Sơn. Hễ Lý-Mộng-Ngọc đón đỡ được một thế kiếm thì Tiêu-Thanh-Đồng lại biến ngay ra chiêu khác. Nếu là người võ công tầm thường ở ngoài nhìn vào ắt sẽ tưởng là hai người giỡn chơi với nhau, nhưng sự thật đó là một trận đấu nguy hiểm vô cùng, tánh mạng lúc nào cũng như mành chỉ treo chuông.
Tiêu-Thanh-Đồng cú vây chặt Lý-Mộng-Ngọc trong vòng kiếm-pháp của mình mà không ngừng đâm chém. Mũi kiếm luôn luôn vung ra cách mình nàng chừng một thưóc rồi lại tấn công tới tấp khiến Lý-Mộng-Ngọc loạn cả mắt, ù cả tai, và tay chân thì bủn rủn, cứ lùi dần, lui mãi...
Kiếm-pháp của Tiêu-Thanh-Đồng vô cùng biến ảo khiến cho Lý-Mộng-Ngọc không tài nào đoán được. Nếu không nhờ Nhu-Vân-Kiếm của Lục-Phỉ-Thanh tận tình chỉ dạy cho để hộ thân trong lúc nguy kịch thì chưa biết tánh mạng nàng sẽ ra sao. Nhu-Vân-Kiếm của Lý-Mộng-Ngọc thật ra cũng luyện được đến nơi đến chốn. Nhưng nàng quên mất một yếu-tố quan-trọng là người sử dụng kiếm-thuật này phải tự tin, tâm phải vững để lấy ‘tĩnh’ mà chế ‘động’. Nếu nhớ kỹ được điều ấy thì cho dù địch thủ có biến ra bao nhiêu thế kiếm kỳ lạ hay tuyệt diệu đi chăng nữa cũng không không thao túng được đối phương.
Hiềm là Lý-Mộng-Ngọc mới bước chân vào giang-hồ, chưa thật sự cùng ai giao đấu nên thiếu hẳn ‘kinh-nghiệm chiến-trường’. Vì vậy khi thấy Tiêu-Thanh-Đồng sử dụng toàn những chiêu kiếm kỳ lạ thật lanh lẹ, so với kiếm-thuật của mình còn hơn bội phần thì tâm thần bỗng dưng hoang mang, mất hết tự chủ. Biết mình chưa phải là đối thủ của Tiêu-Thanh-Đồng, Lý-Mộng-Ngọc lừa thế thoát ra được vòng kiếm của đối phương rồi dùng khinh công đào tẩu.
Tiêu-Thanh-Đồng không thèm rượt theo, chỉ quay mình lại thì thấy một người đang cắt nốt mấy sợi giây buộc của cái bao màu hồng trên lưng Diêm-Thế-Khôi. Nhanh như cắt, hắn đã giựt lại được cái bao kia ra.
Tiêu-Thanh-Đồng bèn phóng một đường kiếm chặn lại, không cho tẩu thoát. Tên ấy bỗng kêu lớn lên:
-Ý thôi! Để lão Đổng này đi về chứ! Cản lại làm chi?
Hắn chính là Đổng-Triệu-Hòa. Hắn liệu sức, không dám chống cự với Tiêu-Thanh-Đồng nên lẹ chân nhảy vọt ra sau ba bước, lánh mình trốn nhủi trốn chui như một con chuột nhắt.
Tiêu-Thanh-Đồng không chịu bỏ, vừa rượt theo, vừa vung kiếm chém không ngừng. Bỗng nhiêu một ngọn Ngũ-Hành-Luân từ đâu đánh bổ tới ngay bụng Tiêu-Thanh-Đồng. Nàng không dám khinh thường nên phải xoay ngược kiếm đón lấy, gạt ngọn Ngũ-Hành-Luân sang một bên. Đổng-Triệu-Hòa nhờ thế mà thoát thân được.
Nguyên Mộc-Trác-Luân dùng kế hoạch rất chu đáo, trước mặt cũng như mé sau lưng đoàn bảo-tiêu của Trấn-Viễn tiêu-cục đều bố trí những thớt lạc-đà chặn lại hết. Kế hoạch rất hữu hiệu khiến cho cả tiêu đoàn trước sau không trông thấy được nhau, mà cũng vô phương cứu viện.
Mộc-Trác-Luân một mình một đao đấu với hai tiêu-sư là Thái-Vĩnh-Minh
(#18) và Tiền-Chính-Luân luôn tay không nghỉ. Và nhờ có hai người cầm chân được Mộc-Trác-Luân, Diêm-Thế-Chương mới thừa dịp đó vượt qua được mà không bị cản trở và phóng Ngũ-Hành-Luân để yểm trợ cho Đổng-Triệu-Hòa.
Nguyên Diêm-Thế-Chương sau khi nhìn thấy Diêm-Thế-Khôi bị thảm tử thì lửa giận sôi lên. Y phóng ngựa liều lĩnh vượt qua bầy lạc-đà, một tay cầm Ngũ-Hành-Luân phang một cái thật mạnh vào cây côn sắt của người Duy lãnh nhiệm-vụ đứng canh xác của Diêm-Thế-Khôi. Nhát phang quá mạnh khiến cho cây côn sắt dội ngược lại ngay đầu người Duy vỡ sọ lăn từ trên lưng lạc-đà xuống đất chết tươi.
Thấy một người đồng bọn ngã gục, một người Duy khác tiến tới đương cự, cầm cây côn sắt nhắm đầu phang Diêm-Thế-Chương một cái. Diêm-Thế-Chương liền dùng cây Ngũ-Hành-Luân đánh bạt cây côn sắt qua một bên rồi dùng tay còn lại bắt lấy. Có lẽ là đôi khi lửa giận bốc phừng phừng và liều chết coi thường nguy-hiểm, sức lực con người cũng nhờ vậy mà gia tăng.
Nhờ Diêm-Thế-Chương liều mạng ôm cây côn sắt của người Duy giữ chặt nên Đổng-Triệu-Hòa có đủ thì giờ để gỡ cái bao hồng trên lưng tử-thi Diêm-Thế-Khôi ra mà tẩu thoát được.
Thấy Tiêu-Thanh-Đồng rượt theo Đổng-Triệu-Hòa, Diêm-Thế-Chương liền bỏ cây côn sắt đang giằng co với người Duy ra, thúc ngựa thật mau xông tới phóng cây Ngũ-Hành-Luân cản đường kiếm của Tiêu-Thanh-Đồng lại mà cứu nguy cho họ Đổng.
Sau khi Đổng-Triệu-Hòa thoát thân được ôm theo cái bao màu hồng thì Tiêu-Thanh-Đồng và Diêm-Thế-Chương tiếp tục giao đấu. Trao qua đổi lại ít chiêu, cả hai bên đều ngầm khen ngợi tài nghệ tuyệt vời của nhau. Tiêu-Thanh-Đồng vừa đánh vừa nơm nớp lo sợ ‘anh chàng đẹp trai’ ban nãy trở lại giúp sức cho Diêm-Thế-Chương. Nàng vừa đánh vừa đề cao cảnh-giác.
Bỗng nhiên tiếng hồ tiêu từ hai bên triền núi lại vang lên. Tiêu-Thanh-Đồng biết đó là ám-hiệu cho biết phải rút lui. Nàng tin chắc là ‘quân tiếp viện’ của đoàn tiêu xa đã đến nơi rồi. Nàng đảo mắt nhìn qua tứ phía một lượt thì Đổng-Triệu-Hòa vai mang cái bao màu hồng, cỡi ngựa như bay vượt qua khỏi núi.
Tiêu-Thanh-Đồng lập tức dùng ngay ‘Tam Phân Kiếm Thuật’ tấn công Diêm-Thế-Chương tới tấp. Những chiêu kiếm của nàng chẳng khác nào ‘tuyết rơi lá rụng’ khiến cho Diêm-Thế-Chương phải lùi lại đàng sau liên tục.
Tiêu-Thanh-Đồng bỗng bỏ Diêm-Thế-Chương, dùng khinh công bay lên hướng đỉnh núi như bay rượt theo Đổng-Triệu-Hòa. Tiếng hồ tiêu càng lúc càng thêm inh-ỏi. Mộc-Trác-Luân vội lớn tiếng gọi lại:
-Mau trở về thôi con! Đừng rượt nữa!
Tiêu-Thanh-Đồng xưa nay chưa bao giờ dám cãi lời thân phụ bất cứ điều gì, bất luận trong trường hợp nào. Nên khi vừa nghe ông gọi nàng liền vâng lời trở về ngay, không chút do dự. Sau đó, nàng đốc thúc đám người Duy đem tử thi của người bị đánh chết cùng với người bị thương cho lên lưng lạc-đà. Khi tất cả đều lên lưng ngựa hay lưng lạc-đà thì tiếng hồ tiêu lại trổi lên. Đoàn người Duy nhắm chân núi đi thẳng xuống. Mới đi được một đoạn, Tiêu-Thanh-Đồng gặp một đám Thanh-binh chừng vài chục mạng chặn đầu lại. Tăng-Đồ-Nam cầm thương múa, giục ngựa đến trước nạt lớn:
-Bọn thổ phỉ kia thật là to gan lớn mật? Có phải định tạo phản chăng?
Tiêu-Thanh-Đồng chẳng nói chẳng rằng, rút gươm ra đánh Tăng-Đồ-Nam một trận ‘tơi bời hoa lá’. Không đầy mấy hiệp, cây thương của Tăng-Đồ-Nam đã bị Tiêu-Thanh-Đồng đánh văng khỏi tay rớt xuống đất. Mộc-Trác-Luâm cũng dũng mãnh vung đao lên chém ngang chém dọc để mở đường. Cả đám người Duy bỗng hăng lên đánh thật dữ dội, và kết cuộc là đám binh lính của Tăng-Đồ-Nam phải vẹt đường ra.
Từ sau, Diêm-Thế-Chương và Thái-Vĩnh-Minh cũng đuổi tới nơi. Tiêu-Thanh-Đồng không nao núng, một mình múa kiếm như bay đánh cả hai người. Bỗng nhiên từ trong đám người Duy có một người cỡi ngựa phóng ra la lớn lên:
-Nhị muội, em hãy chạy đi! Để chúng nó cho anh!
Người đó chính là anh ruột Tiêu-Thanh-Đồng tên là Tiêu-Y, tay cầm một cây trường thương, một mình xông tới đánh với hai tiêu-sư. Tiêu-Thanh-Đồng cũng hợp sức với anh đánh kịch liệt. Nhưng cả hai anh em với mục-đích chỉ để cản đường cho đám người Duy chạy thoát thôi nên vừa cả hai vừa đánh vừa lui.
Lại thêm một hồi tiêu nữa trổi lên ở hai bên triền núi, cả Tiêu-Thanh-Đồng và Tiêu-Y cùng quay ngựa bỏ chạy.
Diêm-Thế-Chương rượt theo bén gót. Tiêu-Thanh-Đồng liền rút ra một ngọn Thiết-Liên-Tử nhắm đầu Diêm-Thế-Chương mà phóng. Diêm-Thế-Chương cả kinh dùng Ngũ-Hành-Luân mà đóng lất. ‘Keng’ một tiếng, cổ tay Diêm-Thế-Chương nhói lên một cái, đau nhức vô cùng. Cùng lúc ấy, ở hai bên triền núi từng cục đá lớn từ đâu lăn xuống như trời long đất lở. Thừa lúc hỗn độn, đám người Duy kéo nhau chạy đi thật lẹ, an toàn tẩu thoát...
Nhìn thấy tử thi anh ruột chết một cách thê thảm, tử thi thì dập nát, máu thịt tơi bời, Diêm-Thế-Chương bất-giác òa lên khóc. Tiền-Chính-Luân và Thái-Vĩnh-Minh dùng lời an ủi mãi, Diêm-Thế-Chương mới chịu lên ngựa nhưng nét mặt thật ảm đạm u sầu. Những người trong tiêu đoàn thâu lượm tất cả tử thi những người bất hạnh bỏ hết lên xe.
Chỉ có Đổng-Triệu-Hòa là có vẻ đắc ý, khoác lác nói:
-Nếu lão Đổng ta mà không lanh tay thì chắc chắn con bé kia đã đoạt mất cái bao quý này rồi. Lão Đổng đã nói trước là không chắc gì Diêm ngũ gia bảo-vệ được nó. Quả đúng như vậy, không có lão Đổng này thì cái chết của Diêm ngũ gia chỉ uổng phí mà thôi!
Cả đám tiêu-sư nghe Đổng-Triệu-Hòa ăn nói huênh hoang bừa bãi, đã không được một lời chia buồn với người đồng nghiệp vừa chết mất anh ruột lại tỏ ra đắc ý khoe công cướp lại được cái bao màu hồng kia đồng thời thốt lên toàn những lời vô tình bạc nghĩa nên ai nấy đều bất bình. Nhưng đang lúc có chuyện buồn không vui sau cơn nguy khốn nên không ai nghĩ đến chuyện cãi vã hay sinh sự với hắn, nên đành lặng thinh im tiếng...
Còn nhắc về Lục-Phỉ-Thanh thì ông ta được chứng kiến tất cả từ đầu đến cuối, nhưng chỉ làm kẻ bàng-quan mà ngó thôi chứ chẳng theo bên nào chống bên nào.
Lý-Mộng-Ngọc bị lép vế dưới ‘Tam Phân Kiếm Thuật’ của Tiêu-Thanh-Đồng nhưng làm cản trở ‘cô gái áo vàng’ kia không cho cướp đi ‘Khả-Lan-Kinh’ cũng như làm cho kế hoạch của đám người Duy thất bại. Cho đó là một ‘kỳ công’ của mình, nàng ta vênh vênh váo váo, ra chiều rất tự đắc, đinh ninh rằng ai cũng phải tán tụng, mang ơn nàng.
Ngờ đâu Diêm-Thế-Chương đau khổ vì cái chết của anh ruột, đám tiêu-sư mắc bận việc lo thu nhặt những tử-thi và băng bó cho những người bị thương, còn Đổng-Triệu-Hòa thì chỉ nghĩ đến cái bao màu hồng trên lưng kia từ đây thuộc về hắn nên không ai để ý gì đến Lý-Mộng-Ngọc cả.
Cả đám tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục vờ đi, hoặc giả cố tình không biết, không ai nói với Lý-Mộng-Ngọc lời nào, xem như nàng chẳng giúp được gì cho họ cả. Lý-Mộng-Ngọc thấy vậy lòng buồn ruời rượi, tiếc công mình đã ‘vào sinh ra tử’.
Đổng-Triệu-Hòa nhìn thấy Tăng-Đồ-Nam, bỗng nhớ lại vị ‘võ-quan võ-nghệ cao-siêu’ ban nãy chỉ huy đám quan binh chặn đường đám người Duy lại mà phải tổn hại một số binh lính khá đông nên vội vã đến trước mặt vòng tay, lễ phép nói những câu ‘cảm nghĩa’.
Bản ý Đổng-Triệu-Hòa không phải là cám ơn Tăng-Đồ-Nam đã ra tay trợ lực bọn chúng, chẳng qua vì thấy họ Tăng là võ-quan, có thế lực nên chủ tâm muốn thân cận để được nhờ mai sau. Nhưng Đổng-Triệu-Hòa trước sau không được một tiếng nào với Lý-Mộng-Ngọc, ‘chàng thanh-niên tuấn tú’ đã liều thân ngăn cản ‘cô gái áo vàng’ để cho hắn có cơ hội lấy cái bao vải màu hồng còn treo lủng lẳng trên lưng tử-thi Diêm-Thế-Khôi.
Nếu không có Lý-Mộng-Ngọc thì cho đến mười cái mạng như Đổng-Triệu-Hòa cũng phải tiêu tùng dưới tay Tiêu-Thanh-Đồng từ lâu rồi chứ nói gì đến chuyện đoạt lại được ‘Khả-Lan-Kinh’!
Lẽ ra Lý-Mộng-Ngọc muốn ‘dạy’ cho đám tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục một bài học đích đáng nhưng lại nhớ đến lời khuyên bảo của sư-phụ là đừng ỷ tài sinh sự, nhất là đừng ‘nhanh nhẩu đoảng’ can thiệp vào chuyện kẻ khác không liên-quan gì đến mình nên mới đành nén giận làm thinh.
Tuy vậy, chỉ cần nhìn vào nét mặt là Lục-Phỉ-Thanh đã đoán được hết những nỗi bất bình trong thâm tâm của Lý-Mộng-Ngọc. Ông bèn gọi nàng đến gần bảo:
-Đồ đệ! Thầy đã từng nói cho con biết bao nhiêu lần rằng trong giới tiêu-sư kia ‘người thì ít, ma thì nhiều’; tốt hơn hết là đừng đẻ ý gì đén bọn chúng cả! Sao con lại muốn cãi lời thầy mà định sinh sự với họ làm gì vậy?
Rồi Lục-Phỉ-Thanh mắng dồn cho Lý-Mộng-Ngọc một chập, nhất là việc nàng giúp bọn tiêu-sư ngăn cản công việc của đám người Duy khiến cho họ phải thất bại...
Khi vượt qua đỉnh núi thì bóng ác đã lên non dài. Hoàng hôn bao phủ mặt đất một màu vàng nhạt, như báo trước rằng ngày sắp tàn. Đã đến lúc cho đoàn xa tiêu và đoàn xa kiệu phải tìm chỗ nghỉ ngơi. Một khách-sạn nằm chắn ngang đường đi vào thị-trấn. Khách-sạn này thuộc hạng trung-bình, không lớn mà cũng chẳng nhỏ.
Bọn kiệu-phu thưa với Tăng-Đồ-Nam rằng:
-Thưa quan Tham-tướng, ở ngay ngã ba vào các thị-trấn chỉ có khách-sạn An-Viễn này là lớn hơn hết.
Đám tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục cũng dừng lại ngay khách-sạn An-Thông mà vào chọn phòng. Nhưng khi đến cửa chính, không một người nào ra tiếp đón niềm nở như các khách-sạn khác.
Đổng-Triệu-Hòa lên tiếng ầm ĩ mắng to:
-Bộ tất cả người trong khách-sạn này lớn nhỏ gì đều chết toi hết rồi hay sao mà chẳng có một mặt mo nào ra mời mọc chúng ông vào? Hãy coi chừng ông moi ba đời tổ tông chúng bay ra mà chửi rồi rồi phá tan khách-điếm này cho mà biết mặt!
Lý-Mộng-Ngọc nghe Đổng-Triệu-Hòa ăn nói hồ đồ lỗ mãng thì thật tình chỉ muốn xáng cho hắn mấy cát bạt tai để sửa trị. Xưa nay chưa có ai dám đứng trước mặt nàng mà lên tiếng chửi rủa om sòm như vậy cả. Chỉ vì sợ Lục-Phỉ-Thanh mà Lý-Mộng-Ngọc đành bịm môi, nhưng trong bụng hầm hầm.
Một người trong đám gia-nhân của Lý-Khả-Tú định đến ngay cửa để gọi người ra thì bỗng nhiên nghe bên trong có tiếng vũ-khí va chạm vào nhau kịch liệc như đang xảy ra một trận ác chiến ghê gớm. Lý-Mộng-Ngọc day qua nói với Tăng-Đồ-Nam rằng:
-Chắc là có một trận giao phong ác liệt nữa ở đây rồi.
Miệng nói vừa dứt, Lý-Mộng-Ngọc cầm thương xông vào. Bên trong tuyệt nhiên không có một bóng người. Lý-Mộng-Ngọc chạy đến trước một căn phòng bỗng thấy một thiếu phụ đầu bù tóc rối đang chiến đấu kịch liệc với bốn người đàn ông trai tráng khỏe mạnh. Mặt thiếu-phụ đượm vẻ đau khổ buồn rầu, tay trái cầm đao dài, tay phải cầm đao ngắn. Ánh sáng của hai lưỡi đao tỏa ra chói lọi, chứng tỏ đó là hai thanh bảo đao. Mặc dầu phải đánh với bốn người đàn ông lực lưỡng, võ-nghệ cao cường đang vây nàng vào giữa, thiếu-phụ chẳng chút khiếp sợ, liều mình chống cự.
Lý-Mộng-Ngọc đứng ngoài xem hai bên đánh nhau được mấy hiệp thì nhận xét được rằng bốn người đàn ông kia tìm cách đánh dồn cho đối phương phải vào trở lại phòng. Trái lại, thiếu-phụ nhất định ngăn cản, quyết không cho bọn họ đến gần cửa phòng. Nàng giữ vững được vị trí, chỉ có tiến chứ không hề lùi bước.
Bốn người đàn ông này toàn là những cao-thủ giang-hồ cả. Một người sử dụng cây nhuyễn tiên
(#19), một người sử dụng cây hoài trượng, người thứ ba cầm kiếm, và người thứ tư múa câu quỉ đầu đao.
Cùng lúc ấy, Lục-Phỉ-Thanh cùng đám người xa kiệu cũng đã kéo nhau đến trước cửa phòng nơi đang diễn ra trận ác chiến. Lục-Phỉ-Thanh nhìn thấy, trong bụng nghĩ thầm rằng:
_Lạ thật! Sao lần xuất ngoại
(#20) này mình toàn gặp những tay cao-thủ cả?
Lục-Phỉ-Thanh đang ngơ ngác suy nghĩ thì thấy người đàn ông sử dụng cây hoài trượng giá thẳng lên, dùng hết sức bình sinh đánh xuống ngay đầu thiếu-phụ. Thấy tình thế căng thẳng, thiếu-phụ không dám đưa đao ra đỡ, chỉ né mình lách tránh.
Vừa tránh được cây hoài trượng thì ngọn nhuyễn tiên của người kia lại vụt đến ngay hông. Thiếu-phụ tay tái múa thanh đao dài nhanh như chớp, gạt phăng được ngọn nhuyễn tiên ra, đồng thời chém thẳng tới một đao ngay cườm tay địch thủ. Cây nhuyễn tiên bị cây đao dài đánh bạt ra một cái quá mạnh đến dội ngược hẳn lại. Nhưng chủ-nhân cây nhuyễn tiên bỗng nhiên chuyển lẹ nó sang ngay một thế khác định cuốn lấy cây đao. Thiếu-phụ nhanh tay rút kịp đao về làm cho cây nhuyễn tiên kia ‘cuốn gió’ thay vì cuốn lấy cây đao như dự định. Thế nhưng hiểm nguy vẫn chưa thoát khỏi được. Thanh quỉ đầu đao lúc đó từ đâu nhanh như cắt bổ xuống đầu hòa với mũi kiếm đâm thẳng vào hậu tâm thiếu-phụ, hai mặt trên dưới cùng hiệp công một lượt. Thiếu-phụ tay mặt cầm thanh đao ngắn gạt đường kiếm qua một bên rồi khẽ nghiêng đầu qua để né tránh thanh quỷ đầu đao. Mặc dầu thiếu-phục ngăn được nhát quỷ đầu đao kia không để chém trúng đầu mình nhưng phía vai trái thì không tài nào lách kịp, liền bị chém trúng một nhát.
Mặc dầu thọ thương, thiếu-phụ vẫn không chịu lùi bước, cứ ngang nhiên lăn sả vào vòng chiến. Hai cây đao vẫn nhanh nhẹn vô cùng, khi gạt tả, lúc chém hữu chống lại với bốn món binh-khí. Nhưng máu tươi ở bả vai thiếu-phụ vẫn tiếp tục tuôn ra. Nếu tình trạng này còn tiếp tục thì sẽ chẳng bao lâu thiếu-phục sẽ phải gục ngã vì sức sẽ một lúc một yếu dần đi. Người cầm nhuyễn tiên bỗng nhiên la lớn:
-Đừng có giết hắn, mà cố phải bắt sống!
Lục-Phỉ-Thanh thấy bốn người đàn ông vây đánh một thiếu-phụ thì trong lòng hết sức bất nhẫn. Lòng nghĩa-hiệp của ông bỗng dưng lại nổi dậy. Sở dĩ ông còn do dự chưa nhảy vào giúp sức thiếu-phụ là vì lại nghĩ đến cái họa của mình đang vướng phải, đang bị truy nã gắt gao, nếu để lộ tung tích có thể rước họa vào thân như không...
Lúc đó, người cầm hoài trượng liên tiếp dùng những đòn hiểm ác đánh ra bắt buộc thiếu-phụ phải tránh né không ngừng. Đôi khi tránh né không kịp, đao ngắn của nàng ta phải gạt trượng qua một bên. Đao ngắn vừa gạt xong trượng thì đao dài lại phải chống đỡ mũi trường kiếm đâm tới.
Lục-Phỉ-Thanh thầm khen ngợi bản lãnh tuyệt diệu của thiếu-phụ. Đứng trước cường địch đông đảo, người nào người nấy đều là những cao-thủ có hạng trên giang-hồ mà nàng vẫn không nao núng chút nào, dù phải ‘một đối bốn’. Đó là thiếu-phụ đã bị thương, sức lực có phần suy giảm đi ít nhiều...
Cây đao của thiếu-phụ vừa chạm mạnh vào trường kiếm của đối thủ thì ‘ánh lửa’ lóe lên một cái. Chỉ thấy mấy tiếng ‘loảng xoảng’, cây đao đã rơi gọn xuống dưới đất.
Không bỏ lỡ cơ-hội tốt, người sử kiếm quát lên một tiếng đâm tới một thế vô cùng hiểm ác. Thiếu-phụ thấy vậy nhảy vọt sang phía bên mặt, tránh khỏi được ngọn kiếm. Ngay lúc đó, người sử dụng thanh quỷ đầu đao lại bổ xuống đầu thiếu-phụ một cái, chân thì bước lên gần phía cửa phòng, toan xông vào. Nhưng thiếu-phụ hình như không còn quan tâm chi đến việc sống chết nữa. Nàng cúi xuống, vừa tránh được ngọn quỷ đầu đao, vừa nhặt cây đao dài của mình lên, múa cả hai cây đao chém nhầu, quyết ngăn lại không cho hắn bước vào trong phòng.
Tên sử dụng quỷ đầu đao tưởng ba người đồng bọn dư sức yểm trợ được cho hắn cản thiếu-phụ lại nên toan rắp tâm mở cửa phòng bước vào. Chưa kịp mở cửa, hắn chợt nghe ‘vèo vèo’ hai tiếng đàng sau lưng. Cả kinh, hắn vội lách mình né tránh, nhưng đã quá trễ! ‘Phập phập’ hai tiếng, trên ót, trên lưng hắn đã lãnh trọn hai mũi phi đao. Rất may cho hắn là nhờ thiếu-phụ bị thương nên tay có phần yếu sức, vì vậy cả hai mũi phi đao cắm không sâu lắm nên hắn vẫn còn giữ được tánh mạng. Tuy không đến nỗi tuyệt mệnh, nhưng hai vết thương cũng hành hắn đau đớn khôn tả. Hắn kêu la ơi ới, cầu cứu với đồng bọn:
-Mau lùi lại! Rút giùm tôi hai ngọn phi đao ra không thì tôi chết mất!
Thiếu-phụ tuy đả thương được một người nhưng chính bản thân nàng cũng trúng phải một cây hoài trượng khiến cho thân hình lảo đảo muốn ngã xuống. Thời may, ba tên còn lại thấy đồng bọn bị thương thì không hẹn mà cùng nhau lui về mấy bước. Một tên lo rút phi đao cứu nguy cho kẻ bị thương còn hai tên kia đứng thủ thế bảo-vệ.
Thấy cường địch tạm thời lui bước, thiếu-phụ lại liều mạng ra đứng trấn giữ cửa phòng. Lục-Phỉ-Thanh gọi Lý-Mộng-Ngọc lại ghé tai nói nhỏ:
-Thầy cho phép con tiếp tay với thiếu-phụ đánh bọn người kia mà giải vây cho nàng. Nhưng con phải nhớ là đừng làm thiệt mạng bất cứ người nào.
Từ lúc mới đến, Lý-Mộng-Ngọc đã có ý định nhảy vào vòng chiến giúp người cô thế chốn lại bạo tàn chỉ ngặt chưa có phép của sư-phụ nên đành đứng ngoài mà ngó, dù trong lòng cảm thấy hết sức bất bình, tay chân thì ngứa ngáy khó chịu. Nay được Lục-Phỉ-Thanh gọi đến giao phó cho trách nhiệm ‘bảo-vệ’, và giúp đỡ cho thiếu-phụ kia thì quả thật là trúng ý mình. Lý-Mộng-Ngọc cảm thấy vui mừng không xiết, không thể nào mà nói được.
Vụt một cái, Lý-Mộng-Ngọc đã nhảy đến đứng trước thiếu-phụ, nhìn bốn người kia khảng khái lớn tiếng rằng:
-Bốn người đàn ông lại đi bao vây để đánh một người đàn bà! Sao mà đốn mạt thế? Thử hỏi những người có bản lãnh có chút danh tiếng có ai làm như thế không? Tại-hạ giữa đường thấy sự bất bình không thể mắt ngơ tai điếc được, nhất định phải can thiệp vào bênh vực kẻ yếu chống lại đám đông ỷ thế hiếp cô!
Bốn gã kia thấy có người nhảy vào can thiệp lại mạt sát bọn hắn thậm tệ thì giận dữ vô cùng, nhìn Lý-Mộng-Ngọc như muốn ăn tươi nuốt sống. Bọn chúng đang định dàn trận đánh tiếp thì thấy trước cửa phòng của thiếu-phụ từ đâu xuất hiện một số người đông đúc trông rất là hiên ngang vũ dũng. Thêm vào đó là người của tiêu-cục, lại thêm cả quân lính của Tăng-Đồ-Nam đứng đầy, chật ních cả trong lẫn ngoài. Chúng biết là khó đương cự nổi nên rút còi ra thổi một hồi như báo hiệu rồi cùng nhau rút ra khỏi khách-sạn mà chạy trốn.
Lúc ấy thiếu-phụ trông người đã mệt lả, gương mặt xanh xao, mắt thì lừ đừ như chẳng còn chút sinh khí. Nàng dựa lưng vào cửa phòng thở hổn hển.
Lý-Mộng-Ngọc bèn chạy đến sát bên, kề miệng vào tai gọi:
-Tại sao bọn ấy lại bức hiếp tỷ tỷ đến thế?
Thiếu-phụ chỉ lắc đầu mà không đáp. Dường như nàng đã quá đuối hơi, không còn đủ sức để nói. Tăng-Đồ-Nam bỗng chạy đến gần Lý-Mộng-Ngọc nói:
-Thưa tiểu-thư. Thuộc-hạ được lệnh phu-nhân cho mời tiểu-thư về gấp!
Rồi Tăng-Đồ-Nam lại rỉ tai Lý-Mộng-Ngọc nói:
-Sở dĩ phu-nhân muốn gọi tiểu-thư về là vì phu-nhân nghe nói tiểu-thư sinh sự đánh nhau nên lo lắng vậy thôi chứ không có gì quan-trọng cả.
Thiếu-phụ thấy Tăng-Đồ-Nam mặc võ-phục của một vị tướng triều-đình thì bỗng nhiên biến sắc. Nàng chợt thu hết vũ-khí của mình lại rồi đi vào trong phòng đóng chặt cửa lại. Lý-Mộng-Ngọc không hiểu sao thiếu-phụ lại có thái-độ kỳ lạ như vậy, nhưng nàng cũng chẳng chút quan tâm, chỉ day qua Tăng-Đồ-Nam bảo:
-Được rồi! Tham-tướng cứ về trước! Tôi sẽ đến hầu phu-nhân sau.
Nói dứt lời, nàng chạy lại Lục-Phỉ-Thanh hỏi:
-Thầy à! Sao bọn họ lại quyết đấu ghê gớm thế? Thầy có hiểu vì lẽ gì không?
Lục-Phỉ-Thanh đáp:
-Thế đã thấm vào đâu! Giang-hồ đầy rẫy oán thù. Những màn ẩu đả, đâm chém giết hại lẫn nhau vẫn thường xảy ra như cơm bữa vậy! Còn về chuyện này thì thầy chưa thể nào đoán ra được. Nhưng theo thầy nghĩ thì bốn tên nam-nhân kia thế nào cũng sẽ trở lại. Cứ chờ xem sao.
Lý-Mộng-Ngọc còn đang định hỏi tiếp thì bỗng từ ngoài cửa có tiếng ‘mắng vốn’ om sòm, vừa chửi vừa la:
-Ông bà ông vải, mả cha nhà bây dám khinh khi ông à? Bây để phòng trống đặng thờ cúng mả nội ông tằng ông tổ vợ bây chắc? Chắc là bây cho là ông nội bây đây không có tiền trả chứ gì?
Chỉ nội cái giọng điệu ấy thôi, ai cũng có thể đoán được ngay đó là tên tiêu-sư Đổng-Triệu-Hòa chứ không ai khác hơn. Lại nghe tiếng một tên tửu-bảo ở khách-sạn nói như nài nỉ:
-Xin quan lớn đừng giận bọn tôi mà mắng chửi, tội nghiệp. Chúng tôi mở khách-sạn là mục-đích để đón rước quan khách, chiều khách, chứ có lẽ nào lại dám vô lễ với ngài? Thật không dám nói dối ngài, có mấy căn phòng đều có người mướn hết cả rồi!
Đổng-Triệu-Hòa lại hỏi:
-Căn phòng trên kia đã ai mướn đâu? Đưa ta lên đó xem thử!
Đổng-Triệu-Hòa vừa nói vừa chạy thẳng lên thì cùng lúc ấy, một thiếu-phụ mở rộng cánh cửa phòng bước vào bên trong. Hắn nghe rõ tiếng đàn bà nói vọng ra:
-Ca Ca! Em vừa kiếm được cho anh một ly trà nóng đây! Ráng dậy mà uống cho đỡ khát.
Đổng-Triệu-Hòa đã được nhìn phớt qua thiếu-phụ. Thấy dung nhan nàng kiều-diễm, hắn cứ đứng trân người ra mà ngó, mắt không hề chớp. Lửa dục trong lòng hắn bốc lên dữ dội, tâm hồn say sưa ngây ngất.
Căn cứ vào thổ-âm của thiếu-phụ, nàng chắc là người Giang-Nam bắt chước giọng nói của người Giang-Bắc. Tiếng nói của thiếu-phụ trong trẻo dịu dàng êm ái làm cho Đổng-Triệu-Hòa say mê chẳng khác nào bị hớp hồn. Hắn liền lên giọng ‘anh-hùng tự-phụ’, cố ý nói thật to để thấu đến tai thiếu-phụ rằng hắn là một nhân vật có tên tuổi trong giang-hồ:
-Đổng đại-gia ta từ thuở giờ một khi đến đâu, muốn ăn thì ăn, muốn ở thì ở, không ai dám trái ý phật lòng. Thế mà quân chó chết ở đây dám khinh thị đại-gia, cả gan dám nói là hết phòng! Thật là to gan lớn mật!
Miệng nói, mắt thì đăm đăm nhìn vào phòng. Sẵn dịp thiếu-phụ chưa gài cửa, hắn xô mạnh bước sấn vào. Thiếu-phụ bất ngờ nghe động liền quay lại. Nhìn thấy Đổng-Triệu-Hòa, nàng thét lên:
-Ối chao!
Vừa định xô hắn ra ngoài thì vết thương của thiếu-phụ bị động, khiến nàng đau đớn, xây xẩm cả mặt mày. Đó là vết thương nàng bị đánh trúng một cây hoài trượng khá nặng, cộng thêm vết thương bị chém nơi bả vai mất khá nhiều máu.
Đổng-Triệu-Hòa vào được bên trong, thấy trên giường có một thanh-niên đang nằm gối đầu. Trong phòng thiếu ánh sáng nên Đổng-Triệu-Hòa không nhìn được mặt mũi rõ ràng, chỉ thấy đầu và cánh tay người ấy quấn bít bùng vải trắng, khắp mình đều mang thương tích trầm trọng.
Nhìn thấy Đổng-Triệu-Hòa sấn đại vào phòng mình, người ấy lớn tiếng hỏi:
-Huynh đài là ai? Sao lại vào đây?
-Ta họ Đổng, làm tiêu-sư cho Trấn-Viễn tiêu-cục, nhân đi bảo tiêu ngang qua vùng này. Vì hết phòng nên định vào đây nghỉ đỡ. Còn thiếu-phụ kia là ai vậy? Có phải vợ huynh đó không? Nàng đẹp lắm đấy!
Người trên giường cả giận hét lên:
-Ngươi mau ra khỏi đây mau, nếu không thì chết!
Có lẽ vì bị thương quá nặng nên tiếng hét của người ấy không được lớn lắm, nhưng giọng nói rất trang nghiêm oai vệ khác thường.
Đổng-Triệu-Hòa đã được chứng kiến thiếu-phụ ấy đánh nhau trí mạng với bọn người kia thì biết rằng nàng là một người có võ nghệ hết sức cao siêu, mà nếu người này là chồng nàng thì chắc bản lãnh cũng ít nhất phải tương đương như vậy. Vì thế, hắn hiểu là không thể dùng uy vũ mà bức hiếp được. Nhưng khi nhìn thấy cả hai người đều mang thương tích, kẻ thì bất tỉnh, người thì nằm bất động trên giường nên lại đâm ra khinh thường, không sợ. Cho là cơ-hội tốt để chiếm đoạt mỹ-nhân, hắn bèn cười nhạt nói:
-Tốt hơn hết là anh nên để tôi ở chung phòng này thì may ra tánh mạng của vợ chồng anh mới mong được bảo toàn, không bị kẻ thù truy sát. Anh đứng có dại dột đến thế chứ! Sự hiện diện của tôi còn làm kẻ thù kính nể chứ như anh thì còn làm gì được đây?
Người đàn ông trên giường nghe Đổng-Triệu-Hòa nói bằng một giọng vô lễ khinh bạc thì không dằn được cơn thịnh nộ. Uất khí xung lên, mắt chàng trợn tròng, mặt đỏ bừng lên, toàn thân run rẩy.
Bất chợt, thiếu-phụ chạy đến bên giường ôm người đàn ông vào lòng, miệng an ủi rằng:
-Anh à! Thây kệ hắn! Đừng quan tâm tới những lời nói của những kẻ vô lại, vô lương tâm làm gì, cứ lo mà tĩnh dưỡng cho sớm bình-phục. Lúc này chưa phải lúc chúng ta gây thêm oán cừu. Cứ cố mà nhẫn nhịn vẫn hơn.
Đoạn day qua Đổng-Triệu-Hòa, nàng trợn mắt quát lên:
-Mau ra khỏi nơi đây! Tôi không muốn bị ai làm rộn cả. Mong ông hãy tự-trọng, giữ cái giá trị của con người một chút!
Đổng-Triệu-Hòa nham nhở cười đáp:
-Sao nàng lại đang tâm mà xua đuổi thôi thế? Bộ nàng không thích tôi ở đây giúp nàng à?
Người đàn ông trên giường bỗng vùng dậy, thét lên như sấm:
-A, cái tên này láo thật! Ngươi có dám đến gần đây cho ta rõ mặt mũi thế nào mà dám ăn nói hồ đồ xấc xược như thế không?
Đổng-Triệu-Hòa nghĩ là người đàn ông kia đang mang trọng thương khắp mình nên không tài nào làm gì nổi hắn nên ngang nhiên bước thẳng tới cười nói:
-Này đây! Muốn xem thì xem cho biết Đổng lão gia khôi ngô tuấn tú như thế nào!
Người đàn ông dịu giọng, ôn tồn nói:
-Xem chưa được rõ ràng lắm, hãy lại gần thêm tí nữa!
Đổng-Triệu-Hòa cười sằng sặc, tiến lên thêm một bước nữa thiếu chút nữa là đựng vào mình người thiếu-phụ làm nàng bẽn lẽn như hoảng hốt buông người đàn ông trên giuờng ra theo phản ứng tự nhiên. Đổng-Triệu-Hòa đắc ý bảo:
-Xem đi! Xem cho tường tận đi! Nếu được thì nhận ta làm đại ca, ta sẽ giúp đỡ cho. Tội nghiệp... thân xác như thế này thì chỉ làm khổ cho người đàn bà trẻ trung duyên dáng kia mà thôi! Lão Đổng thấy mà cảm khái cho thân phận...
Hắn nói chưa dứt câu thì người đàn ông trên giường ngồi phắt dậy, và nhanh như điện xẹt, tay trái điểm vào ‘Khí Dũ Huyệt’ một cái thật nhẹ nhàng rồi sẵn trớn vận nội công dùng thế ‘Viên Hầu Trịch Quả’ đấm mạnh vào lưng Đổng-Triệu-Hòa. Tự nhiên, Đổng-Triệu-Hòa thấy toàn thân tức khắc nhẹ như lông hồng, chẳng khác ‘đằng vân giá vũ’
(#21), bay văng ra khỏi cửa một cái vụt. ‘Bịch’ một tiếng, cả thân hình Đổng-Triệu-Hòa đã nằm xuống đất một đống ngoài cửa phòng.
Đổng-Triệu-Hòa bị điểm trúng huyệt đạo nên chỉ kêu ‘ứ ứ’ mà chẳng la thành tiếng được. Hắn nằm ngửa dẫy dụa trông giống như một con cá nằm trên cạn bị đánh dập đầu. May thay, có một tên xa-phu trong đoàn bảo tiêu của Trấn-Viễn tiêu-cục đi ngang qua trông thấy hắn liền nâng hắn dậy kêu réo om sòm:
-Đổng đại gia! Rán tỉnh dậy về lại phòng! Đừng nên sinh sự nữa! Các vị tiêu-sư cho biết là cả hai người ấy là cao-thủ của Hồng Hoa Hội đấy!
Đổng-Triệu-Hòa nghe nói bỗng khắp mình tuôn mồ hôi ướt đẫm. Gắng gượng lắm, hắn mới thốt lên được một câu:
-Ối... ối... chết mất rồi! Chân ta bị trật khớp xương không còn cử động được nữa!... Tôn lão tam, mi nói... mi nói... hai đứa... đó là... cao thủ... của... Hồng Hoa Hội thật sao?
Gã xa-phu họ Tôn nói:
-Trong khách-sạn đều xầm xì với nhau như vậy. Vừa rồi có bốn cao-thủ võ-lâm được phái đến để bắt sống cả hai giải về cho Hoàng-thượng nhưng không thành công mà chỉ gây nên một trận ác chiến. Lão gia không nghe chuyện đó hay sao?
Bấy giờ trong khách-sạn đã hay biết việc Đổng-Triệu-Hòa bị điểm huyệt nên tụ họp lại bàn tán xôn xao. Quang cảnh thật là hết sức huyên náo. Diêm-Thế-Chương đi ngang qua thấy vậy bèn hỏi:
-Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?
Đổng-Triệu-Hòa lúc bấy giờ mới hoàn hồn, nhìn Diêm-Thế-Chương như cầu khẩn, giọng vô cùng thảm não:
-Diêm lục ca à! Làm ơn dìu hộ lão Đổng này về phòng trước đi rồi sẽ thuật lại đầu đuôi cho Diêm lục ca nghe. Lão Đổng đã thành phế nhân rồi, đi đứng một mình không vững nữa!
Diêm-Thế-Chương tuy nghe nói vậy nhưng vẫn chưa tin hoàn toàn. Hắn cho là Đổng-Triệu-Hòa ‘nằm vạ’ hoặc giả ‘có ít phít ra nhiều’. Nghĩ thì nghĩ vậy, song Diêm-Thế-Chương vẫn cúi xuống đỡ Đổng-Triệu-Hòa dậy rồi khẽ buông tay cho hắn đứng xuống đất đặng dắt đi. Chẳng ngờ vừa buông tay ra thì thân Đổng-Triệu-Hòa bỗng mềm nhũn như bún thiu, miệng nói lèo tèo mà tay chân như rụng rời ra cả nên khi Diêm-Thế-Chương vừa buông tay ra thì hắn quỵ ngay xuống đất chứ không thể nào đứng vững được.
Đổng-Triệu-Hòa đau đớn la lên:
-Ối trời ơi! Đau chết mất đi thôi! Tôi không thể nào đi đứng được, dường như xụi hết gân cốt rồi! Tôn lão tam đâu, làm ơn đỡ giùm tôi một chút!
Đổng-Triệu-Hòa chỉ còn biết kêu la chứ không còn cựa quậy nỏi. Diêm-Thế-Chương sau khi xem xét kỹ lưỡng thì biết rõ là Đổng-Triệu-Hòa bị điểm huyệt nên hỏi hắn:
-Bị kẻ nào đánh mà ra nông nỗi này?
Đổng-Triệu-Hòa nước mắt chan hòa, mặt ủ mày châu, hướng về phía phòng của thiếu-phụ và người đàn ông thương tích đầy mình mà đánh hắn.
-Diêm lục ca ơi! Trong phòng kia có một tay bản lãnh rất cao-siêu, bọn ta không ai có thể đương đầu với hắn được đâu.
Đổng-Triệu-Hòa trong lúc bị khốn đốn như vậy mà trong lòng vẫn thủ đoạn mánh lới, cố ý khiêu khích dụ cho Diêm-Thế-Chương nổi ‘anh hùng tính’ để đi gặp người đàn ông kia quyết đấu. Nếu Diêm-Thế-Chương hạ được người đàn ông kia thì coi như y cũng mượn được tay người khác trả thù hộ cho hắn. Còn rủi như Diêm-Thế-Chương bại, bị người kia đả thương thì hắn cũng có được một người ‘đồng thuyền’ để khỏi phải bị ‘đau khổ một mình’.
Thấy Diêm-Thế-Chương không mấy gì để ý đến lời hắn, Đổng-Triệu-Hòa bèn nghĩ ngay được một cách khác nói:
-Cái tên điểm huyệt đệ có một con vợ cũng ghê gớm lắm vì cả hai đứa đều là cao-thủ trong Hồng Hoa Hội. Chẳng trách sao Tiêu tam gia không bị chúng ám sát một cách bí mật. Bây giờ chúng lại còn công khai ra mặt khiêu chiến với Trấn-Viễn tiêu-cục nữa. Theo đệ nghĩ thì Hồng Hoa Hội là một đảng phái chống lại triều-đình. Chúng ta phải tìm cách mà diệt trừ chúng đi, vừa để trả thù riêng, vừa lập công với Hoàng-thượng. Huynh nghĩ thế nào?
Diêm-Thế-Chương ghe Đổng-Triệu-Hòa nói thấy cũng có đôi phần hợp lý. Nhưng khi nhớ lại trước đây hắn từng mắng xiên mắng xỏ anh em hắn cùng nhóm Quảng-Đông Lục Ma nên cũng tảng lờ chứ hoàn toàn chẳng buồn có ý kiến gì. Cúi đầu suy nghĩ một hồi, hắn lại tính thầm trong bụng rằng:
-“Người kia có tài điểm huyệt như thế tất võ công phải cao cường, vào bậc siêu đẳng vì từ xưa đến nay, những ai giỏi về khoa điểm huyệt đều là những tay võ-nghệ tuyệt luân cả.
Diêm-Thế-Chương tự lượng sức hắn, nhận thấy không thể nào thắng nổi người điểm huyệt Đổng-Triệu-Hòa kia. Hơn nữa, anh hắn là Diêm-Thế-Khôi đã chết rồi, mà Tiêu-Văn-Kỳ lại mất tích, thành ra uy lực của Quảng-Đông Lục Ma đã mất đi một phần ba. Chẳng những thế, đâu phải há chỉ có hai vợ chồng trên phòng kia thôi, Hồng Hoa Hội còn quy tụ đại đa số những cao-thủ bậc nhất trong các phái võ-lâm, cho đến ngay cả triều-đình kia còn chưa trừ nổi! Nếu vô cớ mà gây thêm oán cừu thì chỉ tạo thêm rắc rối nguy hiểm cho mình thôi chứ chẳng được lợi lộc gì. Còn như không biết tự lượng sức mình thì không khéo rồi đây lại vô tình mắc mưu Đổng-Triệu-Hòa, giúp hắn bảo vệ cái bao hồng đựng Khả-Lan-Kinh kia, để rồi chỉ một mình hắn được hưởng hết tất cả một khi cái bao màu hồng kia được trao tận tay đến Triệu tướng-quân. Cái gương của Diêm-Thế-Khôi, anh ruột hắn vẫn còn sừng sững ở đấy.
‘Cạn nghĩ cùng suy’, Diêm-Thế-Chương vẫn do dự, vẫn không biết phải tính làm sao. Khi đó, tiêu-sư Tiền-Chính-Luân đi ngang qua. Thấy Tôn lão tam, y dừng lại hỏi:
-Trong khách-sạn này có người của Hồng Hoa Hội thật sao?
Tôn lão tam đến gần, kề sát miệng vào tai Tiền-Chính-Luân nói nhỏ:
-Dạ, tôi biết rõ vì lúc bốn người đàn ông vây đánh một thiếu-phụ nọ mà không bắt sống được thì cùng lên ngựa chạy đi. Khi bốn người ấy ra khỏi khách-sạn thì họ có dặn một người lạ mặt đi qua đi lại ở ngã ba đường rằng: “Anh phải ráng mà coi chừng trước cửa khách-sạn này cho kỹ, đừng để con thiếu-phụ kia đưa thằng thanh-niên kia trốn ra được, vì hai vợ chồng đó là khâm-phạm của triều-đình, là hai tay cừ khôi trong Hồng Hoa Hội đó. Bọn tôi được hoàng-đế đặc phái đến bắt cả hai giải về kinh-đô. Nhưng bất ngờ bọn chúng có được nhiều kẻ đến tiếp viện nên thành ra chúng tôi đành thất bại. Giờ chúng tôi phải tức tốc đi báo tin cho quan binh địa phương cùng hợp sức để đối phó thì mới hoàn thành trách nhiệm được”. Chính tai tôi nghe rõ ràng câu chuyện của bốn người kia nói với đồng bọn nên chắc chắn không thể nào sai lầm được.
Tiền-Chính-Luân tuổi ngoài 50, làm tiêu-sư đã lâu, từng trải giang-hồ, võ-nghệ cao cường, lại biết nhìn xa hiểu rộng nên rất được Vương-Duy-Dương tin dùng. Nghe qua những lời của Tôn lão tam, Tiền-Chính-Luân khẽ đưa mắt nhìn Diêm-Thế-Chương láy một cái. Hội ý, Diêm-Thế-Chương liền mau mau đưa giúp Tôn lão tam đỡ Đổng-Triệu-Hòa dậy đưa hắn về phòng nghỉ ngơi. Sau đó Diêm-Thế-Chương ra gặp riêng Tiền-Chính-Luân hỏi:
-Chúng ta nên đối phó như thế nào đây?
Tiền-Chính-Luân đáp:
-Quả đúng là người trong Hồng Hoa Hội! Hiện thời tốt hơn hết là chúng ta khoan đụng đến chúng vội, chờ hỏi lại Đổng-Triệu-Hòa cho rõ ràng bản lãnh của hai người đó ra sao rồi sẽ tùy cơ ứng biến sau.
Rồi Tiền-Chính-Luân lại hỏi tiếp Tôn lãi tam rằng:
-Lão thấy hai vợ chồng người ấy giao đấu với bốn người đàn ông kia chứ?
Tôn lão tam thưa:
-Tôi mê mẩn mục kích, tưởng trong đời chưa bao giờ thấy được một trận ác chiến ghê gớm như vậy. Nhưng chỉ có một người thiếu-phụ giao đấu với bốn người kia thôi chứ không có một người đàn ông nào cả. Người thiếu-phụ kia vừa trẻ vừa đẹp, sử dụng hai cây đao một ngắn, một dài. Bốn người đàn ông kia võ-nghệ cao cường, sức mạnh kinh hồn cùng nhau hợp sức đánh, dùng bốn món binh-khí thật lợi hại thế mà không thắng nổi nàng đấy! Nàng đỡ trước ngăn sau, đón đông né tây, chém trên đâm dưới, thật chẳng khác gi một mãnh hổ tung hoành giữa đàn dê. Ngoài việc đấu với bốn người, hình như nàng còn cố giữ không cho ai vào được căn phòng đó nên có lẽ vì thế mà bị giới-hạn đi sự lợi hại phần nào, nếu không thì bốn người kia còn khốn đốn nhiều nữa!
Tiền-Chính-Luân nghe nói một hồi bỗng kinh ngạc kêu lên:
-Thôi! Bản lãnh sử đao như thế thì đích thị là Thần-đao Lạc-gia rồi!
Day qua Tôn lão tam, Tiền-Chính-Luân lại hỏi:
-Lão thấy thiếu-phụ ấy phóng phi đao phải không?
Tôn lão tam gật đầu lia lịa đáp:
-Đúng vậy! Nàng ta phóng hai phi đao khiến cho một người bị thương đến hai chỗ, một gần ngay ót, và một ngay trên lưng. Phóng xong, nàng thâu phi đao lại nhanh như chớp, chính tôi không tài nào thấy kịp!
Tiền-Chính-Luân nét mặt lộ vẻ lo lắng nhìn Diêm-Thế-Chương nói:
-Nhân vật thứ tư của Hồng Hoa Hội đang có mặt tại khách-sạn này rồi, không còn gì để nghi ngờ nữa!
Không nói thêm một lời nào, Tiền-Chính-Luân bèn theo Diêm-Thế-Chương đi thẳng về phòng Đổng-Triệu-Hòa để lo việc sắc thuốc, cứu chữa cho y. Tôn lão tam cũng nối gót theo sau...
Tất cả mọi việc xảy ra tại khách-sạn đều không qua khỏi được cặp mắt của Lục-Phỉ-Thanh. Ngay cả những việc đám tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục bàn luận với nhau đều lọt vào tai ông cả. Nhất là hai câu sau cùng của Tiền-Chính-Luân nói với Diêm-Thế-Chương là rõ ràng nhất, đáng chú ý hơn cả.
Sau khi người của Trấn-Viễn tiêu-cục đi rồi thì Lý-Mộng-Ngọc lại đến. Vừa gặp Lục-Phỉ-Thanh, nàng đã lên tiếng hỏi ngay:
-Thưa sư-phụ! Bao giờ thầy mới truyền cho con phép điểm huyệt đây? Ôi! Phép ấy thật là hay quá, tài tình quá! Đã không phải phí sức nhiều mà vẫn hạ được địch thủ dễ dàng như lấy đồ trong túi. Chỉ một ngón tay cũng dư sức làm cho địch thủ biến từ con hổ thành ra con trùng.
Như đang bận suy nghĩ điều gì, Lục-Phỉ-Thanh không trả lời câu hỏi của Lý-Mộng-Ngọc. Ông ta tự bảo thầm trong lòng:
-“Nếu thiếu-phụ ấy quả thật là con cháu của Thần-đao Lạc-gia thì ta phải can thiệp chứ không thể làm ngơ được”.
Lý-Mộng-Ngọc lại hỏi:
-Thưa thầy, Thần-đao họ Lạc là ai vậy?
Lục-Phỉ-Thanh đáp:
-Tức là Thần-Đao Lạc-Nguyên-Thông, với thầy là chỗ thâm giao, khi xưa từng thề nguyền sống chết với nhau. Đã lâu rồi, thầy không được gặp lại, mới đây có nghe tin họ Lạc đã qua đời. Tình cờ hôm nay thầy trông thấy thiếu-phụ kia sử dụng đao-pháp giống hệt như của Lạc-Nguyên-Thông. Thiếu-phụ kia nếu không phải là con cháu thì cũng là đồ đệ của Lạc-Nguyên-Thông chứ không ai khác hơn vào đây được. Vả lại, từ xưa đến nay, chỉ có họ Lạc là xuất sắc về phép phóng phi đao mà thôi. Vì vậy, trong giới giang-hồ mới đặt biệt danh là ‘Thần-đao Lạc-gia’. Đã vậy, Lạc-Nguyên-Thông lại rất kén chọn môn đồ nên chưa hề nghe họ Lạc thâu nhận và truyền thụ phép phóng phì đao đó cho ai cả. Theo thầy nghĩ, thiếu-phụ có bản-lãnh phi thường kia chính là ái-nữ của Lạc-Nguyên-Thông.
Lục-Phi-Thanh ân hận về vấn-đề đại-sự của ông ta thất bại đến nỗi phải ẩn-tích mai danh ngót mười mấy năm trời nên bao nhiêu diễn biến trên giang-hồ trong thời-gian ấy không được hay biết gì cả. Mười mấy năm trôi lẹ như mây như gió, nay tái xuất giang-hồ nhìn thấy bao nhiêu điều mới lạ! Đang suy nghĩ, ông nhìn thấy hai tiêu-sư Tiền-Chính-Luân và Thái-Minh-Vĩnh, mỗi người một bên vai để cho Đổng-Triệu-Hòa vịn lên để dìu đi ngang qua mặt ông ta. Lục-Phỉ-Thanh vội vàng quay đi tức khắc để tránh, không cho hai người nhìn thấy mặt mình. Chợt đâu có tiếng của Tôn lão tam vang lên:
-Các vị tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục là Tiền-Chính-Luân, Thái-Minh-Vĩnh, và Đổng-Triệu-Hòa xin đến bái kiến Văn tứ đương-gia
(#22) của Hồng Hoa Hội.
Liền khi ấy, cánh cửa phòng mở ra. Thiếu-phụ bước tới đứng sẵn mé trước nhìn bốn người của Trấn-Viễn tiêu-cục đang chậm rãi đi tới. Tôn lão tam đi đầu, hai tay cầm ba tờ giấy lễ phép hướng về thiếu-phụ kính cẩn trao, nhưng thiếu-phụ không nhận, và cũng không nói rõ lý do nào.
Ba tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục cùng với Tôn lão tam vẫn kiên nhẫn đứng chờ. Thiếu-phụ quay lưng, khép sơ cánh cửa lại, trở vào bên trong đến trước mặt người đàn ông nằm trên giường như thương lượng điều gì đó. Độ một lát sau, thiếu-phụ lại xô cửa bước ra nhìn bốn người nói:
-Xin mời các vị vào bên trong nói chuyện.
Bốn người bên Trấn-Viễn tiêu-cục liền theo gót nàng vào phòng. Thiếu-phụ đứng sát bên người đàn ông đang ở trên giường day mặt ra, không rời xa nửa bước. Người đàn ông vẫn nằm tỉnh bơ, cặp mắt sáng long lanh như gương nhìn đăm đăm vào bốn người mới vào không nháy.
Thấy cả bốn người đều mặc áo dài, không đeo binh khí, mặt không lộ vẻ gì là hung dữ, trái lại còn tỏ vẻ lễ-độ kính cẩn là đàng khác. Nhưng sắc mặt người đàn ông trên giường vẫn không thay đổi, ý chừng còn nghi ngờ đám người kia có thể định giở ngụy kế gì ra. Tiền-Chính-Luân với thái-độ cung kính, vòng tay mở lời trước:
-Người anh em trong tiêu-cục thật có mắt không tròng thành thử không nhận ra được Văn tứ gia nên mới thô lỗ xúc phạm đến oai hùm, tội thật đáng trừng trị tuyệt nhiên không dám thán oán chi cả. Chúng tôi không thể bỏ qua nên cùng nhau đến đây chịu lỗi, mong rằng tứ gia khoan hồng, lấy lượng bao dung mà châm chế cho.
Tiền-Chính-Luân nói xong liền hướng vào người đàn ông trên giuờng vái một cái thật dài. Thái-Vĩnh-Minh và Tôn lão tam cũng bắt chước vái theo, tỏ lòng thành thật và cung kính.
Người đàn ông trên giường vẫn không thay đổi sắc mặt, làm như không nghe thấy gì cả. Thiếu-phụ bèn kề vài tai người đàn ông ấy nói:
-Anh à! Có mấy vị tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục đến xin lỗi về câu chuyện sai quấy của một người ban nãy xúc-phạm đến anh.
Người đàn ông trên giường vẫn ngậm miệng làm thinh không nói. Tiền-Chính-Luân lại nói:
-Thưa Văn tứ nhưng nhưng
(#23), mặc dầu chúng tôi chưa có dịp gặp mặt nhưng lâu nay chúng tôi rất ngưỡng mộ thanh danh của Tứ đương-gia. Vả lại, vị Tổng tiêu-đầu của chúng tôi là Uy-Chấn Hà-Sóc Vương-Duy-Dương với cùng với lão nhân gia của quý hội là vị Tổng đà-chủ tiền-nhiệm Vu lão anh-hùng cũng như lệnh tôn Lạc lão gia xưa nay giao tình rất hậu, có thể nói như người một nhà chứ chẳng phải xa lạ. Tiếc thay, người anh em chúng tôi lại không biết nên mới hành sự hồ đồ mà xúc-phạm như thế, thật là không nên không phải chút nào cả. Mong rằng Tứ đương-gia cùng nhưng nhưng nể tình Vương tổng tiêu-đầu chúng tôi và lòng thật tâm hối cải của người anh em mà tha thứ cho vậy.
Thiếu-phụ cũng lễ phép hướng về đám tiêu-sư đáp lại:
-Quý vị lượng thứ cho vì Tứ đương-gia của chúng tôi bị trọng thương mê man bất tỉnh nên không thể ngồi dậy mà tiếp quý vị được chứ chẳng phải vì căm hờn hay oán giận gì quý vị mà không đáp lễ. Xin để khi Tứ đương-gia của chúng tôi tỉnh lại tôi sẽ đem những lời vàng ngọc kia mà thuật lại. Đã hai ngày đêm Tứ đương-gia chúng tôi khi mê khi tỉnh như vậy đó. Mong quý vị cũng đừng chấp nhặt và phiền trách làm chi.
Thiếu-phụ dùng lời rất nhỏ nhẹ, êm ái hòa nhã mà đối đáp với người của Trấn-Viễn tiêu-cục vì nàng nhận thấy trong hoàn cảnh này thì ‘thêm bạn bớt thù’ vẫn hay hơn. Miệng nàng nói mà mặt thì hiện ra những nét lo âu buồn bã như hoa cúc ủ ê, như cành mai tàn tạ.
Tiền-Chính-Luân trông thấy người đàn ông nằm trên giường toàn thân đều băng bó vải trắng thì biết rằng những lời nói của thiếu-phụ là chân thật chứ không phải điêu ngoa giả trá. Nhân được dịp, hắn bèn nói luôn:
-Chẳng hay Văn tứ đương-gia bị thương ra sao mà trầm trọng thế? Chúng tôi sẵn có thuốc kim thương mang theo bên mình. Nếu nhưng nhưng cần dùng thì chúng tôi nguyện xin dâng lên.
Tiền-Chính-Luân muốn mua chuộc chút cảm tình cho mai sau nên mới chịu đề-nghị biếu thuốc kim thương chứ chẳng phải là tử tế gì. Hơn nữa hắn cũng muốn làm chút ‘ơn mọn’ để có dịp nhờ thiếu-phụ nói hộ, nhờ người đàn ông kia giải huyệt để cứu mạng Đổng-Triệu-Hòa cho khỏi nguy đến tánh mạng đó thôi. Nhưng không ngờ thiếu-phụ lại nói:
-Đa tạ hảo tâm của chư liệt vị, nhưng chúng tôi cũng có mang theo thuốc kim thương theo phòng khi cần đến rồi!
Tiền-Chính-Luân thất vọng. Nhưng hắn nhìn thấy thiếu-phụ có vẻ hiền nhân đức độ nên bèn đề cập ngay đến điều sở cầu của bọn chúng:
-Người anh em của chúng tôi vì xúc-phạm Tứ đương-gia nên bị điểm huyệt tê liệt gân cốt, bủn rủn tứ chi, dám mong nhưng nhưng cứu giúp làm phúc.
Thiếu-phụ ôn tồn nói:
-Tứ đương-gia của chúng tôi khi nóng giận không dằn được, nhưng không có ý làm tổn đến tánh mạng của Đổng tiêu-sư nên chỉ điểm vào huyệt nhẹ mà thôi. Do đó, chư vị cũng không có gì phải lo lắng đâu. Quý vị cứ an lòng về phòng tạm nghỉ, chờ cho Tứ đương-gia của chúng tôi tỉnh lại tôi sẽ yêu cầu người giải huyệt cho ắt hết ngay.
Tiền-Chính-Luân nghe thiếu-phụ hứa sẽ giải cứu cho Đổng-Triệu-Hòa thì mừng lắm, bèn cùng Thái-Vĩnh-Minh và Tôn lão tam đỡ Đổng-Triệu-Hòa cáo từ thiếu-phụ mà thối lui về phòng. Khi tất cả sắp sửa bước ra khỏi cửa, thiếu-phụ như sực nhớ ra điều gì bèn đón lại hỏi:
-À quên! Chẳng hay chư vị làm sao mà biết được tên họ của tôi?
Tiền-Chính-Luân đáp:
-Nhìn nhưng nhưng sử dụng cặp Uyên Ương Đao, lại được thưởng-thức tài phóng phi đao một lần hai cái nhanh như chớp thì đủ hiểu. Trên giang-hồ, trừ Thần-đao họ Lạc ra thì còn ai vào đó nữa?
-Còn Văn tứ đương-gia của chúng tôi thì sao quý vị lại biết được?
-Cái phép điểm huyệt của Văn tứ đương-gia vang dậy như sấm nổ bên tai, chỉ cần thấy qua là nhận được ngay, tưởng nhưng nhưng không nên lấy làm lạ! Nhìn cặp đao với lối phóng phi đao và phép điểm huyệt, chúng tôi tự nhiên phải biết đó là Uyên-Ương-Đao Lạc-Băng với Bôn-Lôi-Thủ Văn-Thái-Lai thôi!
Lạc-Băng (tức thiếu-phụ) mỉm miệng cười. Cái nụ cười ‘ngả quán xiêu đình’ làm cho Đổng-Triệu-Hòa như thây ma chờ chôn bỗng nhiên siêu hồn lạc phách ngã sụm trên vai Tiền-Chính-Luân...
Chú thích:
(1-) Thiên lý tiếp long đầu: ngàn dặm đón đầu rồng, ý nôm na nói rằng: đi xa đón một người ‘rất quan trọng’.
(2-) Người Duy: người gốc Thổ-Nhĩ-Kỳ ở Tân-Cương (Trung-Quốc), nói chung là dân Ả-Rập.
(3-) Cải nam trang: trang sức, ăn mặc giả làm đàn ông con trai.
(4-) Gia gia: thân phụ; (bố, thầy, ba, cha, tía...)
(5-) Ngạn-ngữ Trung-Hoa, nguyên-văn là: “Thiên ngoại hữu thiên, nhân thượng hữu nhân”; ngụ ý nói ở đời không có gì là tuyệt đối cả.
(6-) Mục hạ vô nhân: dưới mắt không người; ngụ ý bảo người ấy lớn lối chẳng xem ai ra gì cả.
(7-) Tổng-Đà-Chủ: một danh-từ khác để gọi người thủ-lãnh của một bang-hội trên giang-hồ.
(8-) Điệu Hổ Ly Sơn: dụ cho hổ rời khỏi núi; một chiến-thuật trong binh-pháp.
(9-) Nguyên-văn là “Ngộ lâm mạc nhập”.
(10-) Đọc đến khúc này, có lẽ hầu hết trong chúng ta đều có thể khẳng-định được “Khả-Lan-Kinh” tức là kinh Q’ran của người Hồi-Giáo. (tiếng Anh và nhiều ngôn-ngữ khác viết là “Koran”, nhưng người Hồi-Giáo lại viết là Q’ran khi dùng mẫu-tự Latin. Vì tôn trọng người Hồi-Giáo nên xin phép được dùng chữ Q’ran)
(11-) Mã nhũ: vú ngựa.
(12-) Lời dịch của Điền-Trung-Tử ghi là “Thánh Kinh”. Thật sự hai chữ đó dịch cũng rất sát nghĩa chứ không phải sai lầm. Tuy nhiên, để khỏi nhầm lẫn với “Thánh Kinh” của Thiên-Chúa giáo, xin được thay thế vào đây bằng ba tiếng “Khả-Lan-Kinh” để phân-biệt rõ ràng. “Khả-Lan” nguyên là phiên-âm Trung-Văn của chữ “Q’ran”.
(13-) Cũng như người Mông-Cổ, người Duy theo chế-độ mẫu hệ nên con cái lấy họ mẹ thay vì lấy họ cha như chế-độ phụ-hệ của chúng ta. Người đàn ông vẫn có quyền lấy năm thê bảy thiếp, nên vì vậy mà tên con cái họ thường hay khác nhau.
(14-) Hồi: một trong 5 sắc tộc của Trung-Quốc (Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng)
(15-) Mạch-Gia: tức Mecca, là thủ-đô của vương-quốc Ả-Rập (Saudi Arabia), và cũng là vùng ‘Thánh Địa’ của Hồi-Giáo.
(16-) Hướng đạo: đi dẫn đường, mở đường.
(17-) Tức Gia-Cát-Lượng Khổng-Minh
(18-) Lần thứ nhất, trong bản dịch ghi là “Tái-Vĩnh-Minh”, ở đây lại ghi là “Tài-Vĩnh-Minh”. Có lẽ là “Thái-Vĩnh-Minh” thì đúng hơn, vì Thái là một họ rất phổ thông của người Trung-Hoa.
(19-) Nhuyễn tiên: roi mềm.
(20-) “Xuất ngoại” đây chỉ có nghĩa là ra ngoài, đi ra khỏi nhà chứ không bắt buộc phải là đi đến một quốc-gia khác.
(21-) Đằng vân giá vũ: cỡi mây cỡi mưa; nghĩa là “đi trên không”.
(22-) Trong Hồng Hoa Hội, người lãnh-đạo toàn bang được gọi là “Tổng-Đà-Chủ”, các thủ-lãnh khác đều đưọc gọi bằng danh-từ “đương-gia”. Câu “Văn tứ đương-gia” đây có nghĩa người này là một lãnh-tụ đứng hàng thứ tư trong Hồng Hoa Hội, mang họ Văn.
(23-) Nhưng nhưng: tiếng gọi vợ của một cao-thủ trên giang-hồ. Nếu thân hơn thì sẽ gọi là “tẩu tẩu”, có nghĩa là “chị dâu”.