Băng Xuyên thiên nữ chưng hửng, nói: “Biểu muội, sao muội lại hỏi thế? Chả lẽ muội đoán đó là một bằng hữu của chúng ta?” Lý Tâm Mai nói:
“Cây ngọc thoa trên đầu của muội cũng bị người đó rút ra, muội... muội nghĩ...” Nàng muốn nói là: “Muội nghĩ người ấy hành động giống như Kim Thế Di.” Nhưng nàng vừa nghĩ như thế thì lòng lại nhói đau nên không nói tiếp. Phùng Lâm khẽ trách: “Con lại nghĩ gì thế? Coi chừng người ta cười bây giờ. Nếu là người quen thì biểu tẩu conđã nhận ra, còn đợi con hỏi?” Băng Xuyên thiên nữ nghe Lý Tâm Mai nói như thế thì trong lòng gợi lên câu hỏi, nàng giật mình suýt nữa thì buột miệng kêu: “Dáng người ấy hơi giống Kim Thế Di.” Nhưng nàng nhìn ánh mắt của Phùng Lâm thì lập tức hiểu ra, Kim Thế Di đã chết, nếu mình bảo dáng người ấy giống Kim Thế Di thì sẽ lại làm cho Lý Tâm Mai đau lòng. Bởi vậy nàng mới nói trớ đi: “Bóng của người ấy chỉ vừa hiện ra đã biến mất, tỷ cũng không thấy rõ. Nhưng dù người đó không phải là bằnghữu thân thiết, đối với chúng ta cũng không có ý xấu. Đã là bạn thì không phải địch, sau này sẽ biết.” Sáng hôm sau vợ chồng Đường Kinh Thiên cùng mọi người xuống núi. Trên suốt quãng đường mọi người không dám nhắc đến Kim Thế Di. Mấy ngàysau, bóng đen trong lòng Lý Tâm Mai dần dần tan biến, nàng chỉ nghĩ đó là một giấc chiêm bao, chẳng qua là mình mong nhớ Kim Thế Di quá mà thôi chứ chàng làm sao còn trên đời? Trên quãng đường từ Thiên Sơn đến Trung Nguyên, mọi người đều nghe rất nhiều chuyện của Mạnh Thần Thông, may mà họ vẫn không gặp điều gì bất ngờ. Hôm nay họ bắt đầu tiến vào vùng núi Mang Sơn. Mang Sơn gần sông Hoàng Hà, lúc này họ đi ngang qua vùng sơn cốc hình tam giác. Hôm nay là ngày chín tháng ba, còn sáu ngày nữa là đến ngày giỗ của Độc tý thần ni, chỉ còn ba ngày nữa thì có thể đến Mang Sơn gặp bọn Tào Cẩm Nhi, thời gian vẫn còn dư nhiều. Nhưng mọi người nghĩ sáu ngày sau sẽ ác đấu với Mạnh Thần Thông thì không khỏi căng thẳng.
Trong sơn cốc hoang vắng, lúc này trời đã về chiều, họ chẳng tìm được nơi tá túc cho nên chỉ đành hạ lều trong núi, ăn xong cơm tối, vừa nằm xuống nghỉ ngơi thì chợt nghe bên ngoài có tiếng quát tháo, Tiêu Thanh Phong bật dậy nói: “Hình như người đó là Giang Nam.” Y đã biết Giang Nam gần mười năm bởi vậy vừa nghe giọng đã nhận ra.
Đường Kinh Thiên nghiêng tai lắng nghe: “Đúng thế, là Giang Nam. Nếu GiangNam ở đây, vợ chồng Trần Thiên Vũ chắc chắn cũng đến.” Thế là vội vàng chạy ra ngoài lều, chỉ thấy ở triền núi có một người Hồi tay chân dài thậm thượt, sử dụng một món binh khí sáng lấp lánh đang kịch đấu với một đôi nam nữ, Giang Nam thì đang hò hét trợ oai. Đôi nam nữ ấy chính là vợ chồng Trần Thiên Vũ, Đường Kinh Thiên cả mừng nói: “Thiên Vũ huynh, đừng lo, tôi đến đây.” Vợ chồng Trần Thiên Vũ đang đánh gấp, chợt thấy Đường Kinh Thiên từ xa chạy tới thì cũng mừng rỡ, nào ngờ vừa mới phân tâm, chưa kịp lên tiếng thì người Hồi tay chân dài thậm thượt ấy vung tới một gậy, đâm vào huyệt Toàn Cơ của Trần Thíên Vũ. U Bình cả kinh mở rộng băng kiếm chém ra, chiêu đó gọi là Băng hà giải đông, đó là một tuyệt chiêu giải vây trong Băng xuyên kiếm pháp, nếu đối phương không rút gậy về chặn lại thì y sẽ bị đâm vào lưng. Nào ngờ người Hồi ấy là Kim Nhật, một quái kiệt võ lâm Tây Vực, y tinh thông võ công các phái của Tây Vực, luyện thành môn Lôi điện bổng pháp, một lòng muốn đến Trung Nguyên tranh hùng, bốn năm trước đã cùng bọn Côn Luân tản nhân, Tang Mộc lão đến Trung Nguyên. Lần đó y gặp phải Cốc Chi Hoa và Kim Thế Di mới biết nhân sĩ võ lâm Trung Nguyên chẳng phải tay vừa cho nên quay trở về Tây Tạng khổ luyện thêm bốn năm nữa, lúc này y tự tin võ công đã có tiến bộ, cho nên đã nhận lời mời của Mạnh Thần Thông đến Trung Nguyên tranh thắng bại một lần nữa.
Chiêu kiếm pháp ấy của U Bình tuy tinh diệu nhưng công lực thì kém xa đối phương, Kim Nhật đánh gậy ấy chính là hư chiêu, y chỉ giả vờ điểm vào Trần Thiên Vũ, nhưng thực sự là đối phó với U Bình. Đó là vì y biết Trần Thiên Vũ công lực tương đối cao, còn U Bình dễ đối phó hơn.
Ngay trong khoảnh khắc điện chớp lửa xẹt, chỉ thấy Kim Nhật trở tay phất lại, ánh hàn quang lóe lên, cây băng kiếm của U Bình đã lọt vào tay y tựa như trao cho y, té ra y đâm tới một gậy, chính là buộc Trần Thiên Vũ vội vàng chống đỡ, đồng thời dụ U Bình lướt tới trước người y rồi thi triển công phu tay không đoạt binh khí, giật mất thanh bảo kiếm của nàng. Công phu này vốn chẳng có gì ảo diệu, nhưng y lại sử dụng rất đúng lúc. Cây băng kiếm của U Bình tuy không bằng Băng phách hàn quang kiếm của Băng Xuyên thiên nữ nhưng người bình thường không thể nào chịu nổi khí lạnh từ thanh kiếm này tỏa ra, Kim Nhật đoạt được thanh kiếm mà chẳng hề chi, khiến cho Đường Kinh Thiên cũng không khỏi kinh hãi.
Kim Nhật đoạt được thanh bảo kiếm thì cũng lập tức trở gậy đánh tới đâm vào U Bình. Trần Thiên Vũ dùng hết khí lực toàn thân, đánh một kiếm gạt ra, U Bình nhảy bật ra đến hơn một trượng, Kim Nhật hình như không muốn đả thương U Bình cho nên đoạt được thanh kiếm, đẩy lùi được vợ chồng Trần Thiên Vũ thì xoay người bỏ chạy.
Trần Thiên Vũ không biết vợ mình có bị thương hay không cho nên quay lại xem, không dám đuổi theo. Giang Nam thì cứ bám riết không rời, vừa chạy vừa quát:“Giặc tay dài, ngươi buông bảo kiếm của tẩu tẩu ta xuống, nếu không ta sẽ cho ngươi biết lợi hại.” Đường Kinh Thiên cả kinh, thầm nhủ: “Chả lẽ Giangg Nam đã nổi điên, sao lại không biết tự lượng sức mình như thế?” Giang Nam còn cách y khoảng nửa dặm, Đường Kinh Thiên muốn giúp nhưng cũng không thể nào đuổi theo kịp, đang định phóng ra Thiên Sơn thần mãng, Giang Nam đã cúi người nhặt một hòn đá quát:
“Xem đây!” Hòn đá phóng vù về phía Kim Nhật.
Đường Kinh Thiên hơi ngạc nhiên, nhủ: “Mấy năm không gặp mà võ công của Giang Nam đã tiến bộ nhiều. Nhưng làm sao có thể trúng được y?” Chàng thấy lúc nãy Kim Nhật thi triển công phu đoạt kiếm, nghĩ bụng võ công của Giang Nam tuy tiến bộ nhưng so với kẻ địch thì còn kém xa, bởi vậy lập tức phóng ra Thiên Sơn thần mãng.
Công phu của Đường Kinh Thiên đương nhiên khác hẳn Giang Nam, Thiên Sơn thần mãng bắn ra sau nhưng tới trước, Kim Nhật vung gậy, trở tay lại phất ra, chỉ nghe keng một tiếng, lửa bắn tung tóe, cây Thiên Sơn thần mãng chạm vào cây gậy thì bắn ngược lên không trung, chưa rơi xuống thì hòn đá của Giang Nam đã đến sau lưng y.
Nhưng chuyện lạ đã xảy ra, chỉ thấy Kim Nhật vung trượng ra, hòn đá của Giang Nam giống như rẽ ngoặt sang một bên, chỉ nghe bốp một tiếng, hòn đá trúng vào khớp gối của y, Kim Nhật khụy gối xuống đất. Đường Kinh Thiên ngạc nhiên đến nỗi trố mắt, Thiên Sơn thần mãng của chàng lợi hại như thế mà cũng bị Kim Nhật vung gậy gạt ra, còn Giang Nam chỉ tiện tay ném ra một hòn đá mà có thể đánh vào gối của y, quả thật là chuyện không thể tưởng tượng nổi! Nhưng vẫn chưa đủ, chỉ nghe Giang Nam quát lên: “Xem ngươi có dám bức hiếp ta nữa không? Hừ hừ, tưởng hành lễ là đủ rồi sao? Mau trả kiếm lại.” Kim Nhật vừa đứng lên thì thấy Giang Nam đã nhảy bổ tới trước mặt, y chợt cả giận vung ra một gậy đánh xuống đầu Giang Nam, Đường Kinh Thiên kêu lên: “Hỏng bét, hỏng bét!” Giang Nam chỉ lo đoạt kiếm, môn hộ đương nhiên mở rộng, xem ra chắc chắn sẽ trúng gậy ấy, Đường Kinh Thiên vội nhìn đi nơi khác, không dám xem thảm trạng ấy, chợt nghe Giang Nam kêu lên: “Hừ, tên tiểu tặc nhà ngươi còn hung dữ được nữa hay không?” Đến khi chàng nhìn lại thì chỉ thấy cây gậy của Kim Nhật trượt xuống cánh tay của Giang Nam, còn cây kiếm của U Bình thì nằm trong tay chàng. Bốp một tiếng, Kim Nhật không thu đà được nên cây gậy đánh thẳng xuống đất, Giang Nam tiện chân đá ra một cước khiến y chổng cẳng lên trời. Đường Kinh Thiên hầu như không dám tin vào mắt mình, thầm nhủ:
“Chả lẽ nhãn lực của mình kém đến thế, võ công của Giang Nam đã lên đến cảnh giới hàng nhất lưu, thậm chí còn hơn cả mình?” Lại nghe bốp một tiếng nữa, lần này là Giang Nam ngã xuống đất, té ra chàng ngã là vì lực phản chấn của đối phương, Đường Kinh Thiên thấy thế thì chẳng hiểu ất giáp gì.
Nếu luận theo lẽ thường, Giang Nam đã có bản lĩnh đánh ngã đối phương thì lẽ nào lại không chịu nổi lực phản chấn của đối phương?
Đường Kinh Thiên lo Kim Nhật sẽ bật dậy rồi nhảy bổ về phía Giang Nam, nào ngờ lần này chàng lại sai nữa, chỉ thấy Kim Nhật bật người dậy, mặt lộ vẻ kinh hãi, chẳng dám nhìn đến Giang Nam, mà co giò chạy thục mạng. Giang Nam cười ha hả: “Giặc tay dài, nay ngươi đã biết Giang Nam ta lợi hại rồi chứ!” Những người trong lều đều chạy ra, tám người chia làm bốn nhóm, chiếm ở bốn hướng, Kim Nhật chạy về phía Lý Tâm Mai và Chung Triển. Chung Triển biết bản lĩnh của Giang Nam, thấy Giang Nam có thể đánh ngã người này thì hơi ghen tị, thế là vung cây trường kiếm tiện tay đánh ra một chiêu Hoành giang tiệt đấu, chặn kẻ địch lại, nào ngờ Kim Nhật vung cây gậy đánh ra như sấm giật điện chớp, Chung Triển chỉ cảm thấy một nguồn lực dồn tới như dời núi lấp biển, hổ khẩu chấn động, cây trường kiếm cong queo suýt nữa rơi xuống. Lý Tâm Mai đánh ra một chiêu Phân hoa phất liễu, mũi kiếm đâm vào chỗ trống, chiêu này rất tuyệt diệu, nhưng mũi kiếm vừa chạm phải người Kim Nhật thì trượt sang một bên, Lý Tâm Mai thâu tay không kịp thế là chồm người về phía trước. Kim Nhật xoay người, thấy có một thiếu nữ thì dừng gậy trên không, vung tay trái chụp lấy nàng. Té ra y là một ma đầu có tiếng ở Tây Tạng, bình sinh rất tự phụ, vì giữ sĩ diện không muốn dùng gậy đánh một thiếu nữ trẻ tuổi mà chỉ muốn bắt sống nàng làm con tin để phá vòng vây.
Đường Kinh Thiên đã sớm để ý, thấy Kim Nhật phóng về phía Lý Tâm Mai thì lập tức thi triển khinh công Bát bộ cản thiềm, chàng đứng ở phương vị trung ương, cách Lý Tâm Mai cũng khá gần, trong chớp mắt đã phóng tới. Kim Nhật thấy đây là người lúc nãy đã dùng thần mãng bắn mình, lòng run sợ, thế là thả Lý Tâm Mai vunggậy và chưởng xoay sang tấn công Đường Kinh Thiên.
Đường Kinh Thiên lia thanh kiếm, đánh ra một chiêu Cử hỏa thiêu thiên, chặn cây gậy của đối phương lại, cây Du long kiếm lợi hại đến thế mà khi giao nhau với cây gậy chỉ nghe một tiếng coong vang lên chấn động lỗ tai. Té ra cây gậy này được làm bằng loại nghiên thạch cứng rắn hơn bất cứ kim loại nào, cây Du long kiếm tuy có thể chém sắt chặt ngọc nhưng chẳng làm gì được cây gậy. Đường Kinh Thiên thất kinh, vội vàng rút kiếm ra, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, hai người đã chạm nhau một chưởng, chỉ nghe bốp một tiếng, Kim Nhật đã thối lui đến ba trượng, còn Đường Kinh Thiên thì không thu được đà cho nên cũng loạng choạng thối lui đến sáu bảy bước.
Đường Kinh Thiên vừa đứng vững thì lập tức giơ kiếm lên xem, thấy cây Du long kiếm vẫn chưa sao thì mới yên lòng. Chỉ nghe Kim Nhật lớn giọng nói: “Tôn giá có phải là Đường thiếu chưởng môn của phái Thiên Sơn không? Võ công giỏi lắm, bội phục, bội phục! Các vị đã đến đúng theo lời hẹn, Mạnh tiên sinh sai tôi đến đây cảm tạ các vị, tiếp đãi không chu đáo, mong được thứ tội!” Giọng nói của y tựa như tiếng kim loại gõ vào nhau nghe rất chối tai, nói xong câu ấy thì đã lướt lên đến lưng chừng núi. Đường Kinh Thiên lạnh mình, thầm nhủ: “Té ra lại là một sứ giả của Mạnh Thần Thông, ma đầu này quả nhiên thần thông quảng đại, danh đồn không ngoa, có nhiều kỳ nhân dị sĩ cam lòng nghe theo y.” Chàng nghĩ chưa dứt thì chợt nghe một tiếng hú dài, Phùng Lâm đã lướt qua người chàng, bà ta thi triển khinh công tuyệt đỉnh phóng vọt người lên như cơn gió, thân pháp của bà ta còn cao hơn Kim Nhật nhiều. Đường Kinh Thiên và Kim Nhật vừa mới giao thủ, tuy chỉ có vài chiêu nhưng đôi bên đều thi triển tuyệt học cả đời, về mặt binh khí thì đôi bên không ai hơn ai, nhưng về nội công thì Đường Kinh Thiên hơi nhỉnh hơn, có điều Kim Nhật cũng chỉ thối lùi hơn Đường Kinh Thiên mấy bước, đủ thấy công lực của y cũng thuộc hàng cao thủ võ lâm. Lúc này Phùng Lâm đã đuổi theo, những người khác thì đều ngừng bước.
Băng Xuyên thiên nữ cười nói với chồng: “Xem ra dì còn háo cường hơn cả người trẻ tuổi, cần gì phải đuổi theo y.” Nàng chỉ nghĩ Phùng Lâm háo thắng nên đích thân ra tay tỉ thí với Kim Nhật.
Đường Kinh Thiên ngẩng đầu kêu lên: “Không xong!” Té ra Phùng Lâm không đuổi về hướng của Kim Nhật, Kim Nhật chạy về phía đông, còn Phùng Lâm thì lại lẩn mất trong khu rừng ở phía tây. Nơi ấy cây cối rậm rạp hơn phía đông. Một hồi sau vợ chồng Trần Thiên Vũ chạy tới đáp tạ Đường Kinh Thiên, Đường Kinh Thiên cũng chào hỏi họ, Trần Thiên Vũ nói: “Chúng tôi cũng nhận được lời hẹn của Tào Cẩm Nhiđến Mang Sơn tụ hội. Lúc nãy người đó tự xưng là sứ giả của Mạnh Thần Thông đến đón chúng tôi, không biết thế nào mà y vừa gặp Giang Nam thì đã biến sắc, đòi bắt Giang Nam, bởi vậy chúng tôi mới động thủ.” Khi chàng đang nói thì Giang Nam chạy tới thở hổn hển, trả kiếm cho U Bình, chàng ta cười hì vì: “Gã này thật lợi hại, tôi đá gã một cước nhưng lại ê cả mông. Nhưng tính ra y thiệt nhiều hơn, tôi té cũng đáng. Hừ hừ, xem thử lần sau có dám bức hiếp tôi nữa không. Ồ, Đường đại hiệp, không ngờ lại gặp ông ở đây, chúng ta đã nhiều năm không gặp.” Đường Kinh Thiên cười nói: “Giang Nam, ngươi tới đây!” Giang Nam nói: “Đường đại hiệp có gì chỉ giáo?” Đường Kinh Thiên nói: “Giang Nam, võ công của ngươi cũng khá đấy.” Rồi nắm lấy tay chàng, trước tiên dùng hai phần nội lực, sau đó lại tăng lên năm phần, Giang Nam đột nhiên kêu ối chao.
Đường Kinh Thiên vội vàng buông tay, Giang Nam kêu lên: “Đường đại hiệp, tôi đâu có đắc tội với ông, làm sao ông vừa gặp mặt đã mạnh tay như thế?” Đường Kinh Thiên cười rằng: “Ta chỉ thử võ công của ngươi, ta phải chúc mừng cho ngươi, không ngờ chỉ trong vòng mấy năm mà ngươi tựa như đã đổi khác, cứ tiến bộ như thế thì không cần mười năm ngươi cũng liệt vào hàng cao thủ nhất lưu.” Đường Kinh Thiên miệng thì khen Giang Nam, trong bụng thì thấy ngạc nhiên. Đúng thế, võ công của Giang Nam quả là có tiến bộ, chàng đã dùng năm thành công lực mới khiến Giang Nam kêu đau, chỉ trong mấy năm mà tiến bộ như thế, đối với Giang Nam cũng là chuyện hiếm có, nhưng Đường Kinh Thiên không thể không hoài nghi, võ công của Kim Nhật chẳng qua chỉ kém mình chút ít, Giang Nam làm thế nào mà đánh ngã được y? Điều đó khiến cho Đường Kinh Thiên nghĩ mãi mà không ra.
Đường Kinh Thiên hỏi: “Giang Nam, tại sao người Hồi ấy muốn bắt ngươi?”
Giang Nam nói: “Cũng là vì Kim đại hiệp, tên giặc tay dài và bọn ma đầu đuổi theo Tàng Linh thượng nhân, bị Kim đại hiệp dần cho một trận, lúc đó tôi đi cùng Kim đại hiệp, sau lần đó Kim đại hiệp cũng truyền võ công cho tôi. Tên giặc tay dài không làm gì được Kim đại hiệp cho nên vừa gặp tôi đã trút giận.” Trần Thiên Vũ nói:
“Giang Nam, đệ làm thế nào mà đánh thắng người ta?” Xem ra Trần Thiên Vũ cũng ngạc nhiên.
Giang Nam cười hì hì: “Đệ cũng đâu có biết, y bắt nạt đệ, huynh cũng biết Giang Nam này, thích mềm chứ không thích cứng, y bắt nạt đệ thì dù y là ông trời, đánh không lại cũng đánh, đệ chỉ dốc hết sức mình liều mạng với y mà thôi.” Nói rồi chàng phủi bụi trên người. Chàng nói tỉnh như không, tựa như chẳng hề biết lúc đó rất nguy hiểm. Trần Thiên Vũ ngạc nhiên, nghiêm mặt nói: “Giang Nam, lần này đệ may mắn thắng được người ta, lần sau phải tự lượng sức mình, đừng đem mạng của mình ra đùa nữa.” Trần Thiên Vũ nói như thế, Giang Nam chỉ đành vâng dạ, không dám trả lời,nhìn bộ dạng chàng hình như là không phục lắm.
Đường Kinh Thiên nhớ lại chuyện lạ xảy ra ở Băng cung, giật mình thầm nhủ:
“Chả lẽ có người ngầm giúp y?” Đang định tra hỏi cho rõ ràng, Giang Nam chợt nói: “Có thật là Kim đại hiệp đã chết không?” Lúc này Lý Tâm Mai và Chung Triển đang chạy tới, Đường Kinh Thiên nhíu mày, nghĩ ngợi rồi nói: “Dì của tôi và biểu muội đã tận tay nhặt di vật của y ở Xà đảo, lại lấy được gậy sắt của y trong bụng cá mập, cái chết của Kim Thế Di khiến cho chúng ta đều đau lòng, nhưng đó là sự thực.” Thực raĐường Kinh Thiên cũng hơi nghi ngờ cái chết của Kim Thế Di, nhưng chàng nghĩ hy vọng sống sót của Kim Thế Di quá mong manh, vết thương của Lý Tâm Mai vừa mới lành, vả lại tình cảm với Chung Triển ngày càng nhiều, cần gì phải cho nàng biết nỗi nghi ngờ của mình.
Lý Tâm Mai nói: “Giang Nam, xin chào. Các người đang nói gì thế?” Đường Kinh Thiên nói: “Không có gì, chúng tôi chỉ đàm luận võ công, mấy năm không gặp mà võ công của Giang Nam đã tiến bộ rất nhiều, chúng tôi đang khen y.” Giang Nam cười hì hì: “Không dám, không dám. Tôi có được một chút bản lĩnh như hôm nay là toàn nhờ Kim đại hiệp và cô nương chỉ điểm. Ồ nói đến Kim đại hiệp, tôi lại nhớ đến chuyện cũ, lúc đó Lệ cô nương lừa cô, bảo là Kim đại hiệp đi Giang Tô tìm chúng tôi khiến cô nương phải đi một đoạn đường khá xa, hôm đó tôi có nhắc nhở, cô nương có còn nhớ không? Cô nương đến Lao Sơn, vậy có gặp Kim đại hiệp không? Có phải đã chứng minh Lệ cô nương đúng là nói dối không. Hừ, Lệ cô nương này thật là xấu!” Đường Kinh Thiên đã lảng sang chuyện khác nhưng không ngờ Giang Nam lại nhắc đến Kim Thế Di, không những thế còn cứ xổ hàng tràng, Trần Thiên Vũ nói: “Giang Nam, đệ bớt nói vài câu có được không!” Chỉ thấy Lý Tâm Mai đã đỏ ửng đôi mắt, nàng khẽ nói: “Đa tạ ngươi đã nhắc ta, đáng tiếc ta đã hiểu ra quá muộn, đến Lao Sơn thì không gặp nữa. Chao ôi, mãi mãi không gặp chàng nữa.” Giang Nam tựa như muốn nói gì đó nhưng thấy Trần Thiên Vũ tỏ vẻ khó chịu cho nên không dám nói tiếp. Lý Tâm Mai đang cơn đau đớn nên nàng không để ý, Đường Kinh Thiên thì lại tăng thêm nỗi nghi hoặc.
Băng Xuyên thiên nữ nói: “Dì đã về!” Lúc này Trần Thiên Vũ mới thở phào, khẽ kéo Giang Nam sang một bên, dặn đừng nhắc đến Kim Thế Di. Trong chớp mắt, Phùng Lâm đã tới, chỉ thấy bà ta rầu rĩ, tựa như đang lo lắng điều gì đó, Giang Nam hỏi: “Có đuổi được tên giặc tay dài không?” Lúc nãy chàng không thấy Phùng Lâm đã đuổi theo ngược hướng của Kim Nhật.
Phùng Lâm lạnh lùng nói: “Tên giặc tay dài ấy đáng cho ta đuổi theo sao?”
Giang Nam nghe thế thì cụt hứng. Đường Kinh Thiên hỏi: “Có phải kẻ địch võ công cao cường không?” Phùng Lâm tiu nghỉu đáp: “Không biết, ta đã gặp ma! Đừng hỏi nhiều nữa!” Bình thường Phùng Lâm rất thích nói đùa với bọn tiểu bối nhưng lúc này tâm trạng lại thất thường, khiến Đường Kinh Thiên cũng ngạc nhiên, không dám hỏi tiếp.
Mọi người đâu ngờ rằng, té ra võ công Phùng Lâm cao nhất, mắt cũng tinh nhất, khi Giang Nam đuổi theo Kim Nhật, bà ta thấy ở trên ngọn núi phía tây có một bóng người, nhìn từ xa thì rất giống Kim Thế Di, bà ta đã đuổi qua hai hòn núi nhưng chẳng phát hiện gì, trái lại còn bị vấp hòn đá té nhào. Với bản lĩnh của bà ta, điều đó không thể nào xảy ra được thế nhưng có hòn đá đã lăn đến chân khiến bà ta ngã nhào.
Đương nhiên Phùng Lâm đoán rằng có kẻ đang bỡn cợt mình, lại không dám khẳng định là Kim Thế Di cho nên đành giấu biệt.
May mà sau đó mấy ngày, chẳng thấy bọn Mạnh Thần Thông quấy rối. Hai nhóm người Phùng Lâm và Trần Thiên Vũ đến Mang Sơn vào ngày mười ba tháng ba. Tào Cẩm Nhi đích thân dắt đồng môn lớn nhỏ ba đời ra nghênh đón, Dực Trọng Mâu cũng tập tễnh chống gậy đi theo phía sau.
Sau khi chào hỏi nhau, Đường Kinh Thiên hỏi Dực Trọng Mâu: “Nghe nói Dực bang chủ bị Mạnh lão tặc đả thương, nếu khí âm hàn trong người vẫn còn, bích linh đơn của tệ phái có công hiệu trừ tà độc, mời bang chủ thử xem.” Đường Kinh Thiên biết Dực Trọng Mâu tính tình hào sảng, hai nhà lại thân thiết nhau, cho nên mới dám hỏi thẳng như thế, nếu là Tào Cẩm Nhi thì khác. Dực Trọng Mâu cười khổ sở: “Đa tạ Đường thiếu chưởng môn quan tâm, ngoại trừ chân trái vẫn còn đau, nội thương đã khỏi. Tu la âm sát công của Mạnh lão tặc quả nhiên lợi hại, tôi chỉ bị y phất trúng mà ngã bệnh đến ba tháng. Giờ đây trong người không còn khí âm hàn nữa. Nếu Đường thiếu chưởng môn vẫn còn bích linh đơn, xin hãy tặng hai viên cho Hàn chưởng môn.” Hàn Ẩn Tiều cũng bị Mạnh Thần Thông dùng Tu la âm sát công đả thương cùng một ngày với y, đến giờ vẫn chưa đi lại được, bởi vậy đệ tử phải dùng kiệu khiêng đến Mang Sơn. Đường Kinh Thiên hơi ngạc nhiên, thầm nhủ: “Hàn Ẩn Tiều là một trong năm người võ công giỏi nhất võ lâm Trung Nguyên, công lực hơn hẳn Dực Trọng Mâu, lẽ nào vẫn chưa thuyên giảm?” Nhưng chàng không tiện hỏi nhiều, bèn đưa hai viên bích linh đơn cho Tiêu Thanh Phong, bảo y mang đến tịnh thất ở phía sau đưa cho Hàn Ẩn Tiều.
Phùng Lâm thì nghĩ trong bụng: “Mạnh Thần Thông vẫn chưa lấy được mạng Dực Trọng Mâu, võ lâm đồn y đã luyện đến tầng thứ chín của Tu la âm sát công, hình như điều này chưa hẳn là thật.” Bà ta nghĩ như thế cho nên tăng thêm mấy phần khinh địch
Lý Tâm Mai nháy mắt nhìn mẹ, sau khi ngồi xuống, Phùng Lâm hỏi: “Đại đệ tử của quý phái ở bảy chi phái đều đã đến đủ rồi chứ?” Tào Cẩm Nhi chưng hửng, theo quy củ võ lâm, người ngoài không nên hỏi chưởng môn của một phái như thế, nhưng Phùng Lâm tuy trạc tuổi bà ta, nhưng vai vế thì hơn bà ta quá nửa bởi vì Phùng Anh, Phùng Lâm và Lữ Tứ Nương đều được người ta gọi là Tam nữ hiệp, song hai chị em họ gọi Lữ Tứ Nương là cô cô, cho nên tính ra thì Phùng Lâm hơn Tào Cẩm Nhi nửa bậc.
Đồng thời bà ta cũng biết Phùng Lâm nói chuyện rất ít câu nệ, cũng không hẳn là có ý ngạo mạn với mình, bà ta chỉ đành đáp rằng: “Đồng môn ba đời lớn nhỏ của tệ phái đều đã đến đủ, không biết Phùng lão tiền bối hỏi như thế là có ý gì?” Phùng Lâm cười nói: “Chẳng có ý gì cả, chẳng qua chỉ muốn tìm hiểu một người.” Tào Cẩm Nhi hỏi: “Ai?” Phùng Lâm nói: “Nghe nói năm xưa Lữ Tứ Nương thu một đệ tử, không biết có đến hay không?” Té ra Lý Tâm Mai rất nhớ Cốc Chi Hoa, vốn tưởng rằng đến Mang Sơn thì có thể gặp được nàng, nào ngờ chẳng thấy đâu cả, Lý Tâm Mai không tiện hỏi cho nên mới nhờ mẹ lên tiếng. Chuyện này nàng đã nói trước với Phùng Lâm trên đường đi. Lúc nãy Phùng Lâm thấy con gái nháy mắt, bà ta đã biết Cốc Chi Hoa không đến. Tào Cẩm Nhi nghe Phùng Lâm hỏi như thế thì rất ái ngại, một lát sau mới nói: “Nữ đệ tử này vì lai lịch bất minh cho nên không còn ở trong tệ phái nữa.” Phùng Lâm giả vờ ngạc nhiên, nói: “Lẽ nào Lữ Tứ Nương lại thu nhận một đệ tử có lai lịch bất minh?” Tào Cẩm Nhi chỉ đành trả lời: “Thật không dám giấu, nàng chính là con gái của Mạnh Thần Thông.” Phùng Lâm nói: “Ồ té ra là thế! Nhưng không biết nàng đã phạm vào điều nào trong môn quy của quý phái, hay là đã từng giúp Mạnh Thần Thông làm ác?” Tào Cẩm Nhi nói: “Điều đó chưa hề có.” Phùng Lâm nói: “Lẽ ra ta không nên hỏi chuyện của quý phái. Nhưng Lữ Tứ Nương chỉ có một truyền nhân, hình như Tào đại tỷ đã xử lý hơi nghiêm khắc.” Tào Cẩm Nhi đỏ mặt, nói: “Bổn môn đã bàn bạc xong xuôi mới đuổi Cốc Chi Hoa ra khỏi môn phái, trừ phi nàng lập công lớn đối với bổn phái, nếu không chẳng thể nào thu lệnh lại được.” Dực Trọng Mâu chợt chen vào: “Đệ đang muốn bẩm cáo sư tỷ một chuyện, lần này sở dĩ đệ may mắn thoát chết là toàn nhờ Thiếu dương huyền công...” Tào Cẩm Nhi tỏ vẻ không vui, cắt lời y: “Ta đã biết. Nay đại địch ở trước mắt, sau này hẵng tính đến chuyện của bổn môn.” Bà ta ngập ngừng rồi tiếp tục nói: “Tôi tuy hơi nghiêm khắc nhưng tự thấy mình chính trực, không hề có thiên kiến đối với đồng môn, ai có công thì tôi sẽ không quên. Sau này chúng ta sẽ tụ tập đồng môn bàn bạc, giờ đây đệ không cần nhiều lời.” Tào Cẩm Nhi lảng sang chuyện khác rồi mời các nhân vật đầu não của các phái khác ra gặp Phùng Lâm. Lúc này trên Mang Sơn đã có chưởng môn của phái Nga Mi là Kim Quang đại sư, chưởng môn của phái Võ Đang là Lôi Chấn Tử, trưởng lão của phái Không Động là Ô Thiên Lang, chưởng môn tạm thời của phái Thanh Thành là Tân Ẩn Nông...
Kim Quang đại sư được xếp đứng đầu trong võ lâm ngũ lão, là nhân vật cùng thời với Mạo Xuyên Sinh, Lữ Tứ Nương, lớn hơn Phùng Lâm nửa bậc. Tân Ẩn Nông là sư đệ của Hàn Ẩn Tiều, đứng cuối cùng trong ngũ lão, nhưng võ công chẳng kém gì sư huynh, trong thời gian Hàn Ẩn Tiều chưa thuyên giảm, y tạm thời nắm giữ chức vụ chưởng môn Thanh Thành, trong đại hội Mang Sơn lần này, đệ tử phái Thanh Thành đi theo đông nhất. Trưởng lão của phái Không Động là Ô Thiên Lang tuổi đã bát tuần nhưng tinh thần vẫn còn tráng kiện, trong số những người dự hội ông ta là cao tuổi nhất, võ công của phái Không Động vốn bắt nguồn từ Tây Vực cho nên có nhiều chỗ khác với võ lâm Trung Nguyên. Ô Thiên Lang là đệ nhất cao thủ trong phái Không Động, người ngoài phái không biết ông ta ra sao. Chưởng môn của phái Võ Đang Lôi Chấn Tử là học trò của Mạo Xuyên Sinh, trong số chưởng môn các môn phái lớn, tuổi tác và vai vế của ông ta tương đối thấp, nắm giữ chức chưởng môn không đầy mười năm nhưng lại chỉnh đốn phái Võ Đang ngày một hưng vượng.
Tào Cẩm Nhi nói: “Có lẽ ngày mai phương trượng chùa Thiếu Lâm Thống Thiền thượng nhân và giám tự Bản Không đại sư cũng sẽ tới.” Ô Thiên Lang vuốt râu cười nói: “Đại hội lần này là chuyện lớn cả trăm năm nay chưa từng có bao giờ trong võ lâm, cao thủ các phái đều tụ tập một nơi, dù có thêm vài ba tên Mạnh Thần Thông cũng không có gì đáng lo.” Ý ông ta tựa như muốn bảo Tào Cẩm Nhi đã chuyện bé xé ra to, bọn Dực Trọng Mâu, Tân Ẩn Nông đã thấy bản lĩnh của Mạnh Thần Thông cho nên rất lo lắng, nhưng Ô Thiên Lang là người cao tuổi nhất, Dực Trọng Mâu không tiện khuyên ông ta đừng khinh địch.
Hôm sau thì đệ tử các phái cũng lục tục kéo tới, tổng cộng hơn năm trăm người, ngoài trừ các nhân vật đầu não của các phái, các bậc danh túc trong võ lâm và đệ tử của các phái có thân phận ở bên trong, phái Mang Sơn còn dựng hơn mười gian nhà tranh bên ngoài để tiếp khách. Đệ tử các phái đều quen nhau, hoặc nghe danh nhau đã lâu cho nên nhân cơ hội này gặp gỡ nhau, núi Mang Sơn trở nên náo nhiệt. Vì Băng Xuyên thiên nữ là con gái của Quế Hoa Sinh, một bậc danh túc tiến bối của phái Võ Đang nên Lôi Chấn Tử đến thăm nàng.
Đến chiều thì anh hùng hai đạo hắc bạch nườm nượp kéo tới, Đường Kinh Thiên và Trần Thiên Vũ dạo bộ trong rừng mộ của Độc tý thần ni, chỉ thấy nhiều người vây quanh nghe Giang Nam nói chuyện, hai người bước tới gần thì thấy mẹ con Dương Liễu Thanh cũng ở trong đám người này. Giang Nam đang kể đến đoạn mình đánh bại kẻ cường địch. Trâu Giáng Hà cười nói: “Muội không tin, huynh đã bảo cả Thiên Sơn thần mãng của Đường đại hiệp cũng chẳng làm gì được tên giặc tay dài ấy mà huynh lại có thể đánh ngã y?” Giang Nam nói: “Không tin thì muội cứ hỏi Đường đại hiệp, lần này huynh chẳng hề khoác lác.” Đường Kinh Thiên cười nói: “Giang Nam đã không như ngày xưa nữa, Giáng Hà, muội đừng coi thường y nữa.” Đường Kinh Thiên vừa nói như thế, Giang Nam đương nhiên cao hứng, Trâu Giáng Hà càng vui hơn, nàng kéo tay Giang Nam nói: “Hay lắm, té ra chỉ mấy năm mà huynh đã luyện được võ công kỳ diệu, vậy mà chẳng hề viết thư cho muội, huynh dùng công phu gì mà đánh ngã tên giặc tay dài, qua đây biểu diễn cho muội xem thử.” Giang Nam vốn là một thư đồng, Trâu Giáng Hà tình đầu ý hợp với chàng, Dương Liễu Thanh vốn không vui vì chuyện này sau đó Giang Nam được Kim Thế Di giúp, đã đánh lui kẻ cường địch cho Dương Liễu Thanh, nhờ đó Dương Liễu Thanh mới thay đổi thái độ đối với chàng, nhưng nếu bảo gả con gái cho chàng thì bà ta vẫn chưa chấp nhận được. Nay nghe Đường Kinh Thiên khen Giang Nam thì không khỏi nhìn chàng với con mắt khác, thầm nhủ: “Anh hùng không màng đến xuất thân, con gái mình thích hắn, mình cũng đành mặc bọn chúng.” Đường Kinh Thiên nói: “Trâu bá phụ thế nào?” Dương Liễu Thanh nói: “Vẫn khỏe, ở nhà không có ai, tôi để ông ta ở lại giữ nhà cho nên lần này không đến. Còn lệnh tôn thì sao?” Đường Kinh Thiên nói: “Gia phụ bảo tiểu điệt và dì đến đây.” Dương Liễu Thanh nghe Đường Hiểu Lan khôngđến thì hơi thất vọng, nói: “Đáng tiếc ông ta không đến, nếu ông ta đến thì chúng ta càng nắm chắc phần thắng hơn.” Té ra thời trẻ Dương Liễu Thanh yêu Đường Hiểu Lan, nhưng sau đó hai người không lấy nhau được, tuy vậy vẫn còn là bằng hữu, Dương Liễu Thanh lại không thể nào quên được Đường Hiểu Lan, tưởng rằng lần này có thể gặp mặt, không ngờ Đường Hiểu Lan chỉ sai con mình đi thay cho nên hơi thất vọng.
Đang nói thì chợt nghe tiếng chuông và trống cùng vang lên, từ xa nhìn tới thì thấy Tào Cẩm Nhi dắt đồng môn lớn nhỏ ba đời bước ra khỏi cửa quy điện, Dương Liễu Thanh nói: “Không biết quý khách nào lại đến, chúng ta đi xem thử.” Khi bà ta đến, Tào Cẩm Nhi chỉ sai bọn Dực Trọng Mâu, Trình Hạo ra nghênh đón, nay thấy thế thì Dương Liễu Thanh hơi không vui.
Nhưng vừa nhìn thì bà ta giật mình, té ra đó Thống Thiền thượng nhân và Bản Không thượng nhân của phái Thiếu Lâm cùng mười tám đại đệ tử. Thống Thiền thượng nhân đức cao vọng trọng, so ra Đường Hiểu Lan cũng không bằng, trong võ lâm ngũ lão, ông ta chỉ kém tuổi Kim Quang đại sư và xếp hàng thứ hai, nhưng võ công thì ngang hàng với Kim Quang đại sư, cả mười tám đại đệ tử của ông ta cũng là nhân vật nhất lưu trong võ lâm, được người ta gọi là Thiếu Lâm tự Thập bát La Hán, Tào Cẩm Nhi ra đón tiếp ông ta long trọng như thế cũng là lẽ đương nhiên.
Điều kỳ lạ là sắc mặt của Thống Thiền thượng nhân rất nặng nề, nhân vật đầu não của các phái thấy bên của Thiếu Lâm đến thì đều vui mừng hớn hở, nhưng Thống Thiền thượng nhân thì rất ít nói chuyện, cả Thập bát La Hán cũng chẳng thấy nở nụ cười.
Nhân vật đứng đầu các môn phái lớn đều hơi lấy làm lạ, bởi vì Thống Thiền thượng nhân là Thái sơn Bắc đẩu của võ lâm, lại là một bậc cao tăng sống khiêm hòa với mọi người, không bao giờ tỏ ra kiêu ngạo, chính vì thế mà mới không hiểu lầm ông ta. Nhưng vẻ mặt của ông ta hôm nay trông rất nặng nề, chuyện gì có thể làm rối lòng một bậc cao tăng như thế?
Thống Thiền thượng nhân thấy Đường Kinh Thiên thì kêu chàng lại hỏi: “Lệnh tôn có đến không?” Đường Kinh Thiên nói: “Không!” Tào Cẩm Nhi nói: “Đường đại hiệp không đến, đang thiếu một người chủ trì đại cuộc, may mà có thượng nhân nên chúng tôi cũng yên tâm.” Lần đại hội Mang Sơn này, hầu như cao thủ các phái đều có mặt, đa số đều nghĩ như Tào Cẩm Nhi trận chiến ngày mai chắc chắn thắng, có lẽ cũng không cần Thống Thiền thượng nhân đích thân ra tay.
Nào ngờ Thống Thiền thượng nhân nói: “Đường đại hiệp không đến, ngày mai chúng ta chỉ đành cố gắng hết sức. Chỉ mong Phật tổ từ bi, đưa chúng ta vượt qua trận hào kiếp này!” Ông ta vừa nói ra như thế thì tất cả mọi người đều kinh hãi, Lôi Chấn Tử hỏi: “Biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Người phe chúng ta đều đến đông đủ cả, nhưng không biết phía đối phương có nhân vật nào lợi hại?” Câu hỏi ấy là vừa hỏi Tào Cẩm Nhi, cũng vừa thăm dò Thống Thiền thượng nhân. Bởi vì Lôi Chấn Tử nghĩ, nếu chỉ có một Mạnh Thần Thông, Thống Thiền thượng nhân chắc chắn không coi trọng chuyện này như thế, chắc là đối phương có cao thủ khác mà Thống Thiền thượng nhân thì đã biết.
Tào Cẩm Nhi nói: “Nghe nói có vài vị chưởng môn đã gặp sứ giả của Mạnh Thần Thông đi lên núi, phía bọn chúng có bao nhiêu người vẫn chưa rõ. Nghe họ kể lại thì những sứ giả này tuy võ công không phải tầm thường nhưng cũng không qua nổi các vị ở đây.” Lôi Chấn Tử nói: “Không biết bọn chúng đang ở đâu?” Theo lẽ thường, nửa năm trước hai bên đã định chiến kỳ, phe của mình đã có mấy trăm người đến, chắc phe của đối phương cũng không quá ít, Tào Cẩm Nhi đã sai người chờ đợi ở núi Mang Sơn, lẽ ra bà ta phải biết đối phương đang ở đâu. Lôi Chấn Tử rất muốn thăm dò kẻ địch trước khi giao chiến. Nào ngờ Tào Cẩm Nhi nghe ông ta hỏi như thế thì đỏ mặt, nói: “Mạnh Thần Thông chưa bao giờ lộ diện, cũng không biết bọn chúng đang ở đâu!” Ô Thiên Lang cười nói: “Nói như thế sứ giả của đối phương coi như cũng xuất quỷ nhập thần.” Tào Cẩm Nhi bực bội nói: “Dù y hẹn bao nhiêu người, chả lẽ hơn được tất cả các anh hùng tề tựu ở Mang Sơn?” Thống Thiền thượng nhân chậm rãi nói: “Ngoài trời có trời, ngoài người có người, chẳng hạn như Mạnh Thần Thông, lão nạp e rằng đối phó không nổi.” Lôi Chấn Tử thất kinh, vội vàng hỏi: “Thượng nhân đã gặp Mạnh lão quái?” Thống Thiền thượng nhân trả lời: “Có thể nói đã gặp qua, cũng có thể nói là chưa gặp. Các vị đều là tông sư của một phái đương nhiên biết, không cần phải đích thân ra tay mới biết được võ công của đối phương thâm sâu đến mức nào.” Mọi người đều cảm thấy ông ta cứ quanh co nhưng cũng không dám hỏi nhiều.
Đường Kinh Thiên quen thân với Đại Bi thiền sư trong Thập bát La Hán, sau khi thủ lĩnh của các phái nói chuyện với nhau, chàng liền tìm Đại Bi thiền sư thì mới biết nguồn cơn, quả nhiên Thống Thiền thượng nhân đã ngầm tỉ thí với Mạnh Thần Thông, nhưng hai bên thực sự là chưa gặp mặt.
Số là khi các nhà sư Thiếu Lâm lên núi, Mạnh Thần Thông sai Cơ Hiểu Phong ra nghênh tiếp, theo lễ tiết trong võ lâm, y phải đưa bái thiếp, Mạnh Thần Thông tự đặt mình lên cao, chỉ có ba người nhận được bái thiếp của y, một người là Kim Quang đại sư của phái Nga Mi, một người là Thống Thiền thượng nhân, còn người kia là Đường Kinh Thiên. Đó là bởi vì Đường Kinh Thiên đại diện cho phái Thiên Sơn, Mạnh Thần Thông không dám sai người đến Thiên Sơn tuyệt đỉnh gây rối cho nên mới gởi thiệp đến Băng cung đồng thời đánh cắp bảo kiếm, chuyện này phía trước đã kể, không cần phải nhắc lại. Nói tóm lại, y gởi thiệp cho Đường Kinh Thiên bởi chàng là con của Đường Hiểu Lan chứ không phải coi trọng võ công của chàng. Ngoại trừ ba người này, cả bọn Phùng Lâm, Ô Thiên Lang, Lôi Chấn Tử đều không nhận được bái thiếp của y.
Thống Thiền thượng nhân là bậc cao tăng, đối phương lấy lễ đối đãi thì ông ta cũng lấy lễ nghênh tiếp, nào ngờ Cơ Hiểu Phong không biết có phải được Mạnh Thần Thông sai khiến trước hay là lúc đó mới ngứa nghề cho nên khi Thống Thiền thượng nhân hành lễ đột nhiên thi triển tuyệt kỹ Diệu thủ không không đánh cắp ba viên niệm châu của Thống Thiền thượng nhân, xâu niệm châu này vốn nằm trên cổ Thống Thiền thượng nhân, nhân lúc đưa bái thiếp y không những cắt đứt tràng niệm châu mà còn lấy ba viên trong đó, khi ra tay thì nhanh như điện chớp, quả là tuyệt kỹ thần thâu từ xưa đến nay hiếm có.
Lúc đó Thập bát La Hán chẳng thể nào phát giác nổi, nhưng Thống Thiền thượng nhân chẳng phải kẻ tầm thường, Cơ Hiểu Phong chưa chạm tay tới hạt niệm châu thì ông ta đã biết, với công lực thâm hậu của Thống Thiền thượng nhân, vừa phát ra hộthể thần công thì Cơ Hiểu Phong không chết cũng trọng thương, đang lúc đó thì bên tai đã nghe tiếng cười rằng: “Trụ trì chùa Thiếu Lâm lẽ nào lại tính toán so đo với một tên tiểu tử hậu sinh?” Thống Thiền thượng nhân ngẩn người, chưa kịp phát ra thần công đã thu lại, trong khoảnh khắc ấy Cơ Hiểu Phong đã lấy ba viên niệm châu của ông ta. Sau khi chuyện này xảy ra, Thống Thiền thượng nhân kể lại Thập bát La Hán mới biết, lúc đó họ chẳng nghe được âm thanh gì. Đó vốn là một loại nội công cao nhất trong tà phái gọi là Thiên độn truyền âm, đại đồng mà tiểu dị với Truyền âm nhập mật của nội công chính phái. Đối với Truyền âm nhập mật, những người đứng bên cạnh có thể nghe thấy, còn Thiên độn truyền âm thì chỉ có đương sự mới biết.
Lần đầu tiên Thống Thiền thượng nhân mới biết loại công phu kỳ diệu này. Ông ta cũng không khỏi thất kinh, chuyện đệ tử của Mạnh Thần Thông Cơ Hiểu Phong đánh cắp ba viên niệm châu quả đúng là chuyện không ngờ, chả trách nào mà đệ tử ThiếuLâm rầu rĩ.”Không cần hỏi cũng biết, kẻ dám phát ra Thiên độn truyền âm đối với Thống Thiền thượng nhân chắc chắn là Mạnh Thần Thông... Giả sử không phải thì người đó chắc chắn đáng sợ hơn.” Đại Bi thiền sư kể xong thì thở dài: “Trước đó trên giang hồ tuy có nhiều lời đồn bảo rằng võ công của Mạnh Thần Thông rất thần kỳ, chúng tôi vẫn chưa tin, nay nghĩ lại thì thấy lão quái này còn hơn cả chúng tôi tưởng tượng!” Hôm sau là ngày đại hội, mới sáng tinh mơ thủ lĩnh của các phái đã tập trung chọn ra một người chủ trì đại hội Mang Sơn lần này. Thống Thiền thượng nhân vàKim Quang đại sư đức cao vọng trọng, được cử làm chánh phó chủ trì. Tào Cẩm Nhi với thân phận là chủ nhân, vì lễ tiết nên mọi người cũng mời bà ta làm hiệp trợ chủ trì. Trong những người tham dự đại hội, Ô Thiên Lang là người cao tuổi nhất nhưng khi mọi người đề cử chánh phó chủ trì không hề nhắc đến tên ông ta, trong lòng thầm không vui nhưng không lộ ra mặt.
Tất cả đều sắp xếp xong xuôi, đệ tử các phái, anh hùng các nơi đều theo sau Thống Thiền thượng nhân và Tào Cẩm Nhi rầm rộ tiến vào khu mộ của Độc tý thần ni, bãi cỏ lớn trước mộ đã trở thành nơi tỉ võ.
Mạnh Thần Thông đã hẹn với Tào Cẩm Nhi vào lúc chính ngọ, bởi vậy còn cách nửa canh giờ, đệ tử các phái đều vội vây quanh mộ Độc tý thần ni và Lữ Tứ Nương, hình thành một trận đồ cửu cung bát quái chờ bọn Mạnh Thần Thông đến. Mọi người đã biết chuyện của Thống Thiền thượng nhân nên lòng nặng nề thêm mấy phần, không ai dám coi thường Mạnh Thần Thông nữa. Trên bãi đất trống im lặng như tờ, đến nỗi cả cây kim rơi xuống đất cũng nghe thấy! Từng giọt thời gian trôi qua, mấy trăm đôi mắt đều nhìn ra lối vào, mặt trời sắp lên đến đỉnh đầu, bọn người Mạnh Thần Thông vẫn chưa lộ mặt. Đệ tử các phái đều không khỏi xì xầm bàn tán, có người nói: “Lẽ nào Mạnh Thần Thông nhát gan, y biết tông sư các phái đều đến Mang Sơn cho nên hoảng quá không dám đến!” Có người nói: “Chắc là không phải, hay là y có ngụy kế gì?” Có người bảo: “Làm sao có thể thi triển được quỷ kế gì? Ta thấy y biết khó nên rút lui.” Mọi người đang xì xầm bàn tán thì chợt nghe đùng một tiếng, đệ tử phái Mang Sơn đã châm trái ngọ pháo đầu tiên! Lúc này vẫn chẳng thấy bóng dáng Mạnh Thần Thông đâu cả.
Đó chính là: Trời long đất lở là chuyện lạ, vạn vật im ắng chờ đợi ai.
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi 30 sẽ rõ.