Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Tôn giáo, Chính Trị >> ĐẠO PHẬT VÀ ĐỜI SỐNG HIỆN ĐẠI

  Cùng một tác giả


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 1650 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

ĐẠO PHẬT VÀ ĐỜI SỐNG HIỆN ĐẠI
Ven. Dr K. Sri Dhammananda

Phần I

LỜI NGƯỜI DỊCH
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không? Một số người khi nghe nói đến đạo Phật thì nghĩ rằng tư tưởng và hành động của tôn giáo này yếm thế, thiếu tích cực vì hình dung đến các thầy tu tham thiền nhập định, ẩn dật tại các chùa chiền hẻo lánh trên núi cao rừng thẳm. Thiển kiến trên đây hoàn toàn sai lầm, không đúng với thực tế. Đạo Phật tuy là một tôn giáo nhưng khác hẳn với các tôn giáo khác. Đạo Phật lấy quan điểm thực tế đối với cuộc đời và thế giới.
Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda, một học giả uyên bác và cũng là Đại Lão Hòa-Thượng Tăng Thống Mã Lai – Tân Gia Ba, tác giả cuốn sách này, chứng minh rõ quan điểm cũng như việc triển khai của đạo Phậttrên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống hiện tại như tư tưởng về xã hội, kinh tế, an sinh, khoa học, môi sinh v..v..
Nhờ thiện duyên chúng tôi được Hòa Thượng tặng cho cuốn sách quí giá này và khuyến khích chúng tôi phát tâm dịch thuật.
Tự biết khả năng yếu kém, kiến thức thô thiển nhưng với tấm lòng nhiệt thành chúng tôi cố gắng dịch ra Việt ngữ hy vọng đóng góp một phần nhỏ vào kho tàng văn hóa Phật Giáo Việt Nam và cũng để đền đáp công ơn sâu dày của các bậc Thầy Tổ trong muôn một.
Chúng tôi xin hồi hướng công đức hoằng pháp này lên Ngôi Tam Bảo và cầu nguyện Hồng Ân Tam Bảo thùy từ gia hộ Quí vi. Cùng Bửu quyến thân tâm thường an lạc và hạnh phúc.
Sau cùng chúng tôi kính mong chư tôn thiền đức, pháp hữu ân nhân, các bậc thức giả cao minh, vui lòng bổ chính cho những sai lầm thiếu sót để cuốn sách được hoàn chỉnh hơn trong kỳ tái bản.
TỲ KHEO THÍCH TÂM QUANG
 
TIỂU SỬ TÁC GIẢ
Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda Maha Nayaka Thera, Trưởng Lão Tăng Già Mã Lai Á, sanh ngày 18 - 03 -1919 tại làng Kirinde, Matara phía nam Sri Lanka (Tích Lan ).
Khi ngài 12 tuổi, Ngài thọ giới Sa Di và tiếp tục chương trình tu học 10 năm trước khi thọ đại giới tỳ kheo ( bikkhu ) vào năm 1940.
Sau 10 năm tu học chuyên về giáo lý của Đức Phật tại các Tu viện Sri Dhammarama, Privena, Ratmalana, Vidyawardhana, tại Colombo, Vidyalankara Pirivena tại Peliyagoda, Kelaniya, một Đại học Phật Giáo rất có uy tín, năm 26 tuổi Ngài tốt nghiệp văn bằng Ngôn ngữ học, Triết lý và Qui tắc Pali.
Năm 1949, Ngài tốt nghiệp cao học triết lý Ấn Độ sau bốn năm học tập tại Đại học Ba La Nại ( Benares ) tại Ấn Độ.
Tại Kotawila ( Sri Lanka), Ngài thiết lập viện “Sudharma” huấn luyện giáo dục, an sinh và nhu cầu tôn giáo xã hội cho quần chúng. Ngài cũng phát hành tam-cá-nguyệt tạp chí bằng tiếng Tích Lan (Singhalese).
Năm 1952, trong số 400 Thầy tu trẻ tại Viyalanka Pirivina, Ngài được tuyển chọn đi phục vụ Mã Lai Á vì nơi đây cần một nhà hoằng pháp Giáo Lý Phật Đà.
Nhờ có sự cố gắng hoằng pháp của Ngài, nhiều người Hoa trong nước nhận thức được giáo lý chân thật của Đức Phật, Ngài nhận được rất nhiều thư của các người Hoa trẻ có học thức rành Anh ngữ trên khắp cả Mã Lai tán dương Ngài vì đây là lần đầu tiên trong đời họ đã hiểu được sự thật giáo lý Phật Đà. Rồi Ngài khai sáng tờ báo “ Tiếng Nói Của Phật Giáo” cho đến bây giờ vẫn đều đặn xuất bản một năm hai kỳ bởi Hội Truyền Giáo. Ngài là tác giả của những cuốn sách rất phổ thông như “ Người Phật Tử Tin Gì “, “ Làm Thế Nào Để Sống Khỏi Sợ Hãi Và Lo Lắng “ ,“ Hạnh Phúc Lứa Đôi “, “ Nhân Loại Tiến Về Đâu”, và “ Thiền Định – Con Đường Duy Nhất “.
Do những thành quả của các hoạt động hoằng pháp và giáo dục của Ngài, Ngài được suy tôn “ Tăng Thống “ Giáo Hội Siam Maha Nikaya, Malwatta, tại Mã Lai năm 1965 và được tặng cấp bằng Tiến Sĩ Danh Dự của các Đại học Dharma Realm, Đại học Đông Phương ( Hoa Ky`), Đại học Nalanda, Đại học Ba La Nại ( Benares), và Đại học Pali của Tích Lan. Ngài cũng được ân thưởng tước vị Hoàng gia Johan Setta Mahkota bởi Hoàng đế Mã Lai.
Kết quả tốt đẹp của Hòa thượng trong việc phục vụ cho cộng đồng Phật giáo không những trong phạm vi Mã Lai mà cũng cho tất cả thế giới bởi những ai cảm nhận được sự nhiệt thành không chút vị kỷ của Ngài để hoằng dương Phật Pháp.
_______________
ĐẠO PHẬT VÀ ĐỜI SỐNG HIỆN TẠI
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc hay có một sự đóng góp hay một đặc tính đáng kể tìm thấy ở Đạo Phật mà các đạo khác không có? Có một trường dạy về tư tưởng nói rằng tất cả các tôn giáo chủ yếu đều giống nhau. Không có gì khác biệt đáng kể. Cái khác biệt duy nhất là trong sự thuyết minh và thực hành. Sau hết, trong phân tích cuối cùng, chúng ta đều đến tại một nơi : thiên đường hay địa ngục. Đó là niềm tin thông thường của hầu hết các tôn giáo.
Đạo Phật có cùng một quan điểm đó không? Để trả lời câu hỏi này chúng ta hãy nghiên cứu tôn giáo được định nghĩa ra sao.
ĐỊNH NGHĨA
Theo nghiên cứu về văn học, từ ngữ “tôn giáo”, một hiện tượng trong lịch sử có thể xét về nhiều mặt khác nhau : như một kinh nghiệm nội tâm, như một khoa thần học hay một công thức tinh thần của một học thuyết, như một nền tảng hay căn bản đạo đức, một yếu tố của văn hoá. Nhiều học giả đã cho những quan điểm và ý kiến khác nhau về bản chất và ý nghĩa.
Theo Aldous Huxley (1), tôn giáo là, giữa các sự việc, một hệ thống giáo dục, bằng các phương tiện, con người có thể tự mình huấn luyện lấy mình, trước nhất là thay đổi cái mình mong muốn cho chính nhân cách mình và trong xã hội, thứ hai là nâng cao lương tri và thiết lập quan hệ đầy đủ giữa con người và vũ trụ mà họ là thành phần trong đó. Những nhà triết học tiên tiến Ấn như Tiến sĩ Radhakrishnan (2) giải thích luận đề cho là tôn giáo không phải một mớ chủ nghĩa, nhưng tôn giáo là kinh nghiệm. Kinh nghiệm tôn giáo căn cứ trên ý thức sự “hiện hữu thần linh trong con người”. H.G Wells (3) cho rằng “tôn giáo là trung tâm của giáo dục xác định luân lý phẩm hạnh của chúng ta”. Nhà Triết học Đức Kant (4), cho rằng “tôn giáo thừa nhận luân lý căn bản như luật lệ không được vi phạm”.
Thông điệp của Đức Phật tức con đường tôn giáo của cuộc đời : “Hãy tránh xa tất cả những hành động tội lỗi, trau dồi cuộc sống bằng những hành động tốt, thanh lọc tâm trí khỏi những ý nghĩ bất tịnh”.
Theo định kiến của chúng tôi, tôn giáo có thể giải thích trong một ý nghĩa rộng như một nền tảng của luân lý và giáo lý triết học được chấp nhận với lòng tin tưởng vào giáo lý ấy. Theo nghĩa trên, đạo Phật là một tôn giáo.
Tuy nhiên, đạo Phật không giống chút nào với các tôn giáo thông thường đại cương nói trên đây. Đạo Phật cũng không có những đặc tính chung với những tôn giáo hiện hữu trong nhiều chiều hướng. Để cứu xét vấn đề sau này, chúng tôi xin được trước tiên nghiên cứu ngắn gọn tôn giáo đã có thể xuất hiện như thế nào.
 
KHỞI ĐẦU
Tại sao tôn giáo đã bắt nguồn? Quí vị có thể đã nghe nguồn gốc tôn giáo nằm trong sự sợ hãi của con người, và trong sự bất an. Vào thời gian trước khi tôn giáo được tổ chức, người dân không đủ kiến thức và cũng không hiểu nổi thực chất của đời sống và cái gì đã xảy ra cho họ sau khi chết. Họ cũng không hiểu nổi cả đến những hiện tượng thiên nhiên hay những biến cố thiên nhiên. Theo sự hiểu biết hạn hẹp của họ, họ nghĩ chắc chắn phải có những sức mạnh “không biết đến” đã tạo thành những việc vừa ý hay không vừa ý. Ngẫu nhiên, họ nhận thấy có một năng lực sau các sức mạnh thiên nhiên mà họ gọi là “shakti”. Họ chứng nghiệm một ý thức kinh hãi, sợ sệt không thể giải thích nổi về những sức mạnh đó mà họ cảm thấy có thể làm hại họ được.
Cho nên họ nghĩ rằng các sức mạnh đó phải được xoa dịu và sử dụng để che chở họ hay ít nhất không đụng đến họ. Không tin về khả năng có thể “nói chuyện” với các sức mạnh đó bằng ngôn ngữ bình thường, họ nghĩ rằng có thể diễn đạt thông điệp của họ trong thầm nín. Cuối cùng những hành động ghi nhận sức mạnh này trở thành nghi thức trong những dạng thức sùng bái. Một số người xem như có thần thông đặc biệt để truyền đạt với các sức mạnh ấy và những người này vui hưởng quyền uy lớn lao trong nhóm.
Sau khi sùng bái và cầu nguyện, những người thưở xưa nghĩ rằng họ có thể kiểm soát được những biến cố có hại và cũng đồng thời bảo đảm được mức độ che chở như một phần thưởng từ những sức mạnh và năng lực vô hình. Để giúp họ có thể mường tượng hữu hiệu hơn đến những sức mạnh ( vô hình ) mà họ đang cố truyền đạt đến, họ đặt tên, hình dung một hình ảnh cho mỗi sức mạnh – hoặc hình dạng giống người hoặc hình dạng kỳ lạ không giống người, nhưng luôn luôn gợi lên một hình ảnh kinh hãi, sợ sệt.
Rồi thời gian qua, họ quên hẳn ý nghĩa thực sự của các hình ảnh tượng trưng ấy và cho những hình ảnh ấy là thực và chấp nhận như là các thiên thần.
Có những văn hoá biến những ý tưởng và quan niệm thành những hình dạng và khai triển các nghi lễ đặc biệt tôn vinh, sùng bái các hình ảnh ấy như các Đấng Thiêng liêng. Dần dà, khi các châu thị định cư lúc sơ khai bắt đầu việc thực hiện an ninh xã hội, thấy cần thiết áp dụng một số thực hành làm căn bản để mở mang luân lý, cư xử và để hướng dẫn người công dân đúng đường lối và đảm bảo hạnh phúc cộng đồng. Do đó các quan niệm như nhân đạo, trách nhiệm của con người, và giá trị nhân bản như thành thực, hảo tâm, từ bi, nhẫn nại, khoan dung, chân thành, đoàn kết và hài hoà được khuếch trương .
Để đảm bảo cho các đức tính đó được nâng cao, các nhà lãnh đạo áp đặt sự kinh hãi vào những đệ tử của mình và hăm doạ họ sẽ bị trừng phạt đời sau này bởi các đấng thiêng liêng nếu không tuân hành. Tôn giáo là kết quả hỗn hợp của phẩm hạnh luân lý và lòng tin tưởng siêu nhiên. Chúng tôi sẽ bàn về luân lý tỉ mỉ hơn ở phần sau.
QUAN NIỆM VỀ THƯỢNG ĐẾ
Trên đây cho thấy sự tưởng tượng và nhân đạo ngẫu nhiên hỗn hợp với nhau tạo thành tôn giáo. Một số người nói rằng thật khó để có thể tin là một đấng thiêng liêng nào đó đã tạo ra tôn giáo. Có lẽ chúng tôi cũng có thể nói con người tạo ra tôn giáo và sau đó giới thiệu quan niệm đấng thiêng liêng vào tôn giáo. Một triết gia Hoa Kỳ, giáo sư Whitehead (5), một lần đã tuyên bố nguyên thủy con người tạo ra đấng thiêng liêng và sau đó đấng thiêng liêng tạo ra người. Cái mà ông ta muốn giải thích là quan niệm về đấng thiêng liêng do con nguời tạo ra và sau đó quan niệm này biến thành thần thánh. Mặt khác, một triết gia Pháp, Anatole France (6), nói nếu quan niệm về đấng thiêng liêng không có, con người phải tạo một vị bởi lẽ rất cần thiết cho tâm linh con người. Thế lực thần quyền cần thiết để làm dịu bớt sợ hãi trong nội tâm, nghi ngờ, lo lắng, bực dọc, băn khoăn, dục vọng. Để tránh các phiền não, chúng ta phải trông vào một tha lực để chúng ta được an ủi. Hiểu biết bản chất tâm linh con người, cho nên Anatole France đã nói nếu không có đấng thiêng liêng, chúng ta phải tạo ra một đấng thiêng liêng.
Trong ý nghĩa ấy chúng ta chỉ như trẻ nít. Khi em nhỏ đang khóc và người mẹ đang bận rộn không bế em được, cái người mẹ làm ngay là đưa vào miệng em một núm vú khiến em thoải mái và em nín ngay. Quan niệm về đấng thiêng liêng cứu giúp con người cũng như vậy. Để con người ngưng phiền muộn và nước mắt khóc than ngưng chảy, người ta đã triển khai mọi cách đem an lạc dưới những hình thức niềm tin tôn giáo và hành đạo.
ĐỨC PHẬT
Trong bầu không khí tôn giáo như vậy, Đức Phật xuất hiện. Là một thái tử sống trong cảnh xa hoa, Ngài bắt đầu suy tư sâu xa tại sao chúng sanh lại đau khổ trên cõi đời này. Cái gì là nguyên nhân của khổ đau? Ngài tự hỏi.
Một hôm Ngài ngồi dưới một gốc cây khi Ngài còn là một thiếu niên, Ngày nhìn thấy một con rắn bất thình lình xuất hiện và bắt một con nhái.Trong lúc con nhái và con rắn đang tranh đấu với nhau, một con diều hâu từ trên trời xà xuống và bắt con rắn trong khi con rắn còn đang ngậm con nhái trong miệng.
Sự việc này là khúc ngoặt của vị thái tử trẻ tuổi để từ bỏ cuộc đời trần tục. Ngài bắt đầu nghĩ ngợi làm sao cho chúng sanh trên mặt đất cũng như dưới nước thoát cảnh làm mồi cấu xé ăn thịt lẫn nhau. Đời sống này đang cố tranh cướp đời sống kia, đời sống nọ đang cố vẫy vùng để thoát hiểm, cuộc tranh chiến bất tận này cứ thế tiếp diễn mãi theo thời gian khi thế giới còn tồn tại. Phương pháp săn mồi bất tận này, và phương pháp tự bảo vệ này là căn nguyên niềm bất hạnh của chúng ta. Đó là nguồn gốc khổ đau. Thái tữ quyết định phải tìm phương thức để chấm dứt khổ đau này.
TỪ BỎ THẾ TỤC
Ngài nghiên cứu học hỏi nhiều thầy của nhiều tôn giáo khác nhau và thấy tất cả những gì các vị thầy đã dạy cũng không thể tìm được phương cách chấm dứt khổ đau. Ngài đã bỏ nhiều năm tháng suy tư về câu hỏi này. Cuối cùng vào năm Ngài 29 tuổi, chứng kiến cảnh già, bệnh, chết và niềm tự do qua việc từ bỏ (thế tục), Ngài quyết định nếu không bỏ mối bận tâm, trách nhiệm và dục lạc của cuộc đời trần tục thì Ngài sẽ không thể tìm được câu trả lời. Cho nên tại sao Ngài rời bỏ cung điện thực hiện cái được gọi là “Sự Từ Bỏ Vĩ Đại”. Sau sáu năm phấn đấu, thời gian tiêu biểu cực điểm của dòng đời bất tận, trau dồi và phấn đấu để mở mang trí tuệ, cuối cùng Ngài đạt được giác ngộ và hiểu được bí mật sự khổ đau của chúng ta. Đó làsự tiên khởi của một “hệ thống tôn giáo” khác. Nhưng đó là một tôn giáo không giống bất cứ tôn giáo nào con người từng biết trong quá khứ.
Thật ra hiện tại có nhiều người không thích gọi đạo Phật là một tôn giáo, vì lẽ chữ “tôn giáo” gợi lên một số lớn các xúc cảm tiêu cực trong tâm trí họ.
NIỀM TIN VÀ SỰ HÀNH ĐẠO TẠI ẤN ĐỘ THỜI CỔ
Không có lý do nào cho Đức Phật lại giới thiệu thêm một tôn giáo nữa vì vào thời đó, 2600 năm trước đây, riêng tại Ấn đã có đến 62 tôn giáo. Những tôn giáo hiện hữu trong thời gian đó đã không thể giải đáp đượccâu hỏi của Đức Phật nên ngài quyết định không dùng các chất liệu hay quan niệm của các tôn giáo đó để trình bày những gì chính Ngài đã đạt được.
Trong thời gian đó, các tôn giáo tại Ấn nghĩ gì ? “Thượng đế tạo ra tất cả mọi người. Thượng đế chịu trách nhiệm tất cả mọi việc. Thượng đế ban thưởng và tha thứ tội lỗi của chúng ta. Thượng đế chịu trách nhiệm về cuộc đời chúng ta sau khi chúng ta chết ; Thượng đế sẽ cho ta lên thiên đường hay bắt ta xuống địa ngục”.
Trên đây là những chất liệu căn bản của tất cả các tôn giáo thời đó và ngay cả hiện tại nữa. Đồng thời cũng có một số tôn giáo tại Ấn dạy các tín đồ mình phải hành hạ thể xác, cho rằng làm như vậy có thể rửa sạch tội lỗi trong cuộc sống và có thể lên thiên đàng sau khi chết. Một số tôn giáo khác lại cổ vũ việc dùng nghi thức, nghi lễ và đem hy sinh các súc vật dâng cúng để làm vừa lòng các đấng thiêng liêng. Những người theo tôn giáo trên tin tưởng là làm như vậy sẽ được lên thiên đường. Một số tôn giáo khác lại dùng cách thức cầu nguyện, lễ bái, xin được tha thứ các tội lỗi họ đã phạm.
Đức Phật không công nhận hiệu quả của các việc hành đạo này.
ĐỨC PHẬT CÓ HỨA HẸN GÌ KHÔNG ?
Đức Phật không hứa hẹn hạnh phúc tuyệt đối hay ban thưởng cho những ai tự nhận là tín đồ của Ngài và Ngài cũng không hứa hẹn cứu rỗi cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài. Với Ngài, tôn giáo không phải là sự mặc cả, mà là con đường sống cao thượng để đạt đến giác ngộ và giải thoát. Đức Phật không muốn các tín đồ của Ngài tin tưởng trong mù quáng. Ngài muốn chúng sanh phải biết suy nghĩ và thấu hiểu. Phật Giáo là con đường cao thượng cho đời sống mà nơi đó, nhân đạo, bình đẳng, công bằng và an lạc chiếm vị trí tối thượng. Cừu hận, ác cảm, chỉ trích, và oán giận hoàn toàn xa lạ với Giáo Lý của Ngài.
Thế giới mang ơn Đức Phật do việc Ngài nêu cao sự hợp lý chống lại những dị đoan trong tôn giáo. Phải chăng chính Ngài đã giải thoát con người khỏi vòng áp chế của các thầy tu? Phải chăng chính Ngài là nguời đầu tiên chỉ con đường giải thoát cho con người thoát khỏi những sợi dây trói buộc của đạo đức giả và của chính sách độc tài trong tôn giáo?
Trong thời gian Đức Phật tại thế không có việc hành đạo nào được coi là cao hơn tập tục lễ nghi và việc đem tính mạng của chúng sanh cúng cho các đấng thiêng liêng ; nhưng với Đức Phật, không có việc hành đạo nào có thể làm mất phẩm giá con người hơn thế . Việcđem sanh mạng làm vật hy sinh không khác gì hơn là việc hối lộ ; và sự cứu rỗi bằng hối lộ, tham nhũng không phải là sự cứu rỗi mà bất cứ con người tự trọng nào lại muốn có.
THUẬT NGỮ TRONG TÔN GIÁO
Nhưng trong khiđem trình bày giáo lý, đức Phật đã dùng những từ ngữ tôn giáo thông dụng tại Ấn thời đó vì lẽ bằng cách này Ngài trở nên gần gũi với những người nghe. Những người này hiểu rõ được Ngài muốn ám chỉ đến gì và Ngài có thể triển khai ý nghĩa căn bản của Ngài từ một lập trường đại chúng.
Pháp, Nghiệp, Niết Bàn, Giải Thoát, Địa Ngục, Luân Hồi, Ngã là những chữ rất thông dụng trong tất cả các giáo phái thời đó. Nhưng trong giáo lý của Ngàiù, Đức Phật đã giảng dạy những từ đó với ý nghĩa độc đáo và hết sức hợp lý .
PHÁP
Chúng ta thử xem chữ dharma hay dhamma (Pháp). Giải nghĩa theo lối cổ, Pháp có nghĩa là luật ban bởi đấng thiêng liêng. Theo niềm tin thời cổ, đấng thiêng liêng hứa thỉnh thoảng, với nhiều hoá thân khác nhau, sẽ xuất hiện để bảo vệ Pháp. Đức Phật không chấp nhận đấng thiêng liêng nào đó có thể ban giáo lý, lời răn, và giới luật tôn giáo. Đức Phật dùng chữ Pháp để mô tả toàn bộ giáo lý của Ngài, Pháp có nghĩa là giữ vững, gìn giữ, hỗ trợ.
Đức Phật dạy Pháp để giúp chúng ta thoát khỏi khổ đau do nguyên nhân cuộc sống và để khỏi mất giá trị nhân phẩm và khỏi rơi vào nơi khổ đau như địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, địa hạt của ma vương. Pháp trình bày bởi Đức Phật, gìn giữ , hỗ trợ chúng ta, và giải thoát chúng ta khỏi cảnh khổ não tại các nơi trên. Pháp cũng có nghĩa là nếu chúng ta theo những phương pháp do Ngài đề ra, chúng ta không bao giờ bị sa vào những trường hợp bất hạnh như bị mù ngay từ lúc mới sinh ra, tàn tật, điếc, câm hoặc điên dại. Cho nên theo phương pháp của đức Phật, Pháp là lời khuyên để giúp chúng ta tranh đấu thoát khỏi khổ đau và cũng để nâng cao phẩm hạnh của con người. Các nhà triết học phương Tây mô tả Phật giáo là một lối sống cao thượng, một “ tôn giáo tự do và hữu lý”
Pháp không phải là một luật lệ phi thường tạo ra hay ban bố bởi người nào đó. Thân thể của chính chúng ta cũng là Pháp. Tư tưởng của chúng ta cũng chính là Pháp; tất cả vũ trụ này cũng là Pháp. Hiểu được bản chất thân thể vật lý của chúng ta, tính chất tư tưởng của chúng ta và những điều kiện trần thế, chúng ta nhận ra Pháp.
Đức Phật dạy chúng ta hiểu bản chất sự hiện hữu của chúng ta một cách hợp lý theo đường lối thực tế. Nó liên quan đến cuộc sống ngay đây và bây giờ, của mỗi chúng sanh và như thếù tương quan đến mọi sự hiện hữu.
Thường thường, khi nói đến tôn giáo, người ta thường hỏi “Tín ngưỡng của Quí vị là gì ?”. Họ dùng chữ“tín ngưỡng”. Đức Phật không lưu tâm đến việc triển khai “tín ngưỡng” theo đúng nghĩa của nó, dù rằng rất là hữu ích trong việc mở mang “tín ngưỡng” để phát triển một tôn giáo lúc ban đầu. Cái nguy hiểm khi chỉ tin cậy vào “tín ngưỡng” mà không có kiến thức phân tích, có thể làm chúng ta trở thành cuồng tín. Những ai để tín ngưỡng kết tinh trong tư tưởng của họ sẽ không nhìn thấy quan điểm của người khác bởi lẽ họ đã khắc sâu vào tư tưởng của họ chỉ cái gì họ tin mới là chân lý.
Đức Phật nhấn mạnh một người không nên chấp nhận cả đến giáo lý của chính họ chỉ trên nền tảng bằng tín ngưỡng không thôi. Một người phải có kiến thức, mở rộng tầm hiểu biết qua nghiên cứu, bàn cãi, thiền định, và cuối cùng : sự suy gẫm. Kiến thức là một việc, hiểu biết là một việc khác nữa. Nếu có hiểu biết, người ta có thể điều hoà cuộc sống theo các trường hợp biến chuyển dựa theo sự hiểu biết mà người ta có.
Chúng ta có thể gặp nhiều người học thức hiểu biết rất nhiều việc nhưng không thực tế bởi lẽ lòng vị kỷ chỉ nghĩ đến mình, ích kỷ, sân hận và ganh tị của họ đã khiến họ không có thái độ tinh thần vô tư và an lạc trong tư tưởng. Khi cần thoả hiệp, chúng ta phải biết thoả hiệp như thế nào. Khi cần khoan dung, chúng ta phải biết khoan dung như thế nào. Khi cần giữ vững lập trường, chúng ta phải biết giữ vững lập trường trong phẩm hạnh.
NGHIỆP
Chúng ta hãy lấy một thí dụ khác, chữ Karma hay Kamma (Nghiệp). Chữ này có nghĩa đơn giản là hành động. Nếu một người có hành động xấu thì người này không thể tránh được hậu quả xấu. Bằng cách này hay cách khác, ông hay bà đó phải đương đầu với hậu quả xấu theo sau.
Đấng thiêng liêng phạt kẻ có hành động xấu, thưởng kẻ có hành động tốt, đức Phật không chấp nhận niềm tin như vậy. Ngài nói không một ai hay sức mạnh nào nắm giữ việc điều động thi hành những tác dụng của nghiệp. Chính nghiệp tự nó phát xuất ra kết quả như một tác động trung lập của luật nhân quả. Ngài nói chúng ta có thể tránh, trong một số trường hợp chúng ta có thể vượt khỏi tác dụng của nghiệp nếu chúng ta hành động khôn ngoan. Ngài dạy chúng ta không bao giờ tự chúng ta đầu hàng nghĩ rằng là định mệnh khi chúng ta đã làm một hành động xấu và không còn hy vọng gì nữa. Các tôn giáo khác dạy là đấng thiêng liêng có thể vô hiệu hoá tác dụng của nghiệp bằng tha thứ nếu tín đồ sùng bái, cầu nguyện và hy sinh. Nhưng Đức Phật dạy rằng chúng ta phải tìm sự cứu rỗi của chúng ta bằng sức cố gắng riêng của chúng ta và sự thanh tịnh tinh thần.
“Đức Phật có thể bảo chúng ta phải làm gì nhưng Ngài không thể làm công việc đó thay chúng ta”. Chúng ta phải tự mình làm công việc cứu rỗi cho chính chúng ta. Đức Phật dạy rõ ràng không ai có thể làm thế việc cứu rỗi cho người khác ngoại trừ chỉ dẫn con đường phải làm. Cho nên chúng ta không nên ỷ lại vào đấng thiêng liêng, và cũng không ỷ lại vào cả Đức Phật nữa. Chúng ta phải hiểu được những gì là phẩm hạnh, nhiệm vu,ï trách nhiệm của một con người. Ngài nói nếu chúng ta phạm một nghiệp xấu, chúng ta không nên phí năng lực quí báu của mình bằng việc trở nên hoảng sợ hay thất vọng trong việc cố điều chỉnh lại cho đúng.
Việc trước tiên phải làm là quyết định chấm dứt ngay việc tái diễn nghiệp xấu đó bởi hiểu rõ nguy hại do nó gây ra. Thứ hai là phải đào luyện nhiều thêm nữa các nghiệp tốt. Thứ ba là chúng ta phải giảm thiểu tư tưởng tội lỗi, ích kỷ, oán ghét, nóng giận, ghen tỵ, thù hận và ác ý. Làm theo con đường này, chúng ta có thể giảm thiểu hậu quả của nghiệp xấu mà ta đã phạm. Đó là phương pháp của Đức Phật để vượt qua các nghiệp xấu.
Ngài không dạy là phải cầu nguyện và sùng bái Ngài để được Ngài tha thứ cho các tội lỗi của chúng ta. Thanh tịnh hay ô nhiễm trong tư tưởng của chúng ta tùy thuộc nơi chúng ta. Không một đấng thiêng liêng nào, Phật hay một chúng sanh nào có thể làm ô nhiễm hay thanh tịnh tư tưởng của chúng ta. Tôi không thể tạo sự bất tịnh cho quí vị, tôi không thể thanh tịnh hoá được tư tưởng quí vị. Nhưng theo lời tôi và hành động của tôi, quí vị có thể tạo thanh tịnh hay bất tịnh chính nơi quí vị. Người ngoài không thể làm gì cho tư tưởng quí vị nếu quí vị có một tư tưởng mạnh mẽ để đối kháng. Cho nên tại sao kiến thức và sự hiểu biết lại quan trọng.
Đức Phật dạy cái cần thiết cho hạnh phúc con người không phải là tôn giáo hay một mớ lý thuyết mà là sự thấu hiểu trật tự , bản tính của vạn vật và tác động đầy đủ của nó theo luật nhân quả. Cho đến khi việc đó được thấu triệt hoàn toàn, sự hiểu biết của con người về cuộc sống và vạn vật vẫn không trọn vẹn và sai lầm. “Con đường mà Đức Phật chỉ cho chúng ta, theo tôi tin, là con đường duy nhất nhân loại phải đi theo để tránh khỏi thảm hoa.”. Jawaharial Nehru (7)
NIẾT BÀN
Đức Phật không bao giờ tuyên bố là đã tạo ra Pháp. Cái mà Ngài khám phá ra là chân lý phổ quát của bản chất xác thực của sự hiện hữu. Thật ra một số từ ngữ tôn giáo đã được biết tại Ấn độ thời đó. Nhưng điều vô song của Ngài là dùng những quan niệm sẵn có, bổ khuyết nghĩa lý sáng suốt hơn và sâu xa hơn.
Thí dụ, trước thời Đức Phật, Niết Bàn ( Nirvana hay Nibbana) đơn thuần chỉ có nghĩa là an lạc hay dập tắt. Nhưng Ngài định nghĩa rộng ra. Niết (Ni) có nghĩa “Không” và “Bàn” (Vana) có nghĩa dục vọng : Không còn dục vọng, không còn luyến ái, và không còn vị kỷ. Chúng ta không thể chứng nghiệm được Niết Bàn vì chúng ta còn dục vọng, luyến ái và vị kỷ. Khi chúng ta đã quét sạch được những tính xấu nhơ bẩn này, chúng ta sẽ chứng nghiệm hạnh phúc Niết Bàn. Thật khó khăn để chúng ta chứng nghiệm được chân hạnh phúc vì chúng ta có những cảm xúc, và chúng ta còn ham muốn dục lạc. Nếu chúng ta sống vướng mắc mãi dục lạc trên thế gian này, chúng ta không bao giờ có thể chứng nghiệm được chân hạnh phúc. Lẽ dĩ nhiên thật ra chúng ta cũng chứng nghiệm được một vài loại hạnh phúc trong cuộc sống, nhưng không phải đúng “hạnh phúc” theo nghĩa tuyệt đối vì lẽ hạnh phúc này không vĩnh cửu.
Chúng ta không thể đạt được hạnh phúc khi còn chứa chấp giận hờn, oán ghét, vị kỷ hay ảo tưởng sai lầm. Đôi khi ở một mức độ nào đó chúng ta chứng nghiệm được một sự thoải mái về tinh thần nhưng bản chất của hạnh phúc đó chỉ như ánh chớp : Nó vừa hiện ra lại biến mất ngay. Hạnh phúc chân thật không phải như vậy. Nếu có chân hạnh phúc, chúng ta sẽ chứng nghiệm cảm giác vĩnh cửu của sự thanh thản, thoả mãn và an tâm. Cho nên mục đích chính của đời sống chúng ta là phải thanh tịnh hóa những tư tưởng mờ ám, sai lầm, lạc hướng của chúng ta và tự chúng ta giải thoát khỏi các lo âu, băn khoăn, bối rối. Chúng ta còn bỏ nhiều thời gian để giải quyết những khó khăn, lúc nào cũng canh chừng, lúc nào cũng lo lắng phải làm cái gì tiếp đây thì chúng ta không bao giờ được an lạc.
MỞ MANG TRÍ ÓC
Lời khuyên của Đức Phật là chúng ta nên thoát khỏi những cuồng loạn đó nếu chúng ta muốn chứng nghiệm hạnh phúc. Tuy nhiên sự giải thoát đạt được là do chính sự cố gắng của chúng ta, đến từ nơi chúng ta. Chúng ta không thể đạt được một sự cứu rỗi từ một Đấng Thiêng Liêng, Đức Phật hay Trời. Chúng ta không thể đạt được sự tự do tối hậu từ những yếu tố bên ngoài. Những đấng siêu nhiên không thể giúp gì cho chúng ta để đạt được trí tuệ và sự giải thoát cuối cùng dù chúng ta sùng bái các đấng này đến đâu đi nữa hay tán dương các đấng này qua những hình thức như khổ hạnh, tán tụng, bùa, chú, cầu đảo hay đem hy sinh các súc vật để cúng.
“Chúng ta gặt được kết quả nơi cái gì chúng ta đã làm và chúng ta sẽ có kết quả nơi cái gì chúng ta đang làm”. Hành động điều kiện hoá hạnh phúc hay không hạnh phúc cho chúng ta, và cuối cùng bảo đảm sự cứu rỗi cho chúng ta. Cứu rỗi hay giải thoát là việc của cá nhân, giống như con người phải ăn, uống, tiêu hoá và ngủ nghỉ cho chính mình. Tất cả những hành động của nghiệp được giữ lại một phần trong việc hình thành tâm trí của chúng ta và lưu giữ ngầm tại đấy. Chúng ta quên đi những hành động quá khứ vì lẽ những hoạt động tinh thần khác che mờ tâm trí nên chúng ta không thể nhớ lại hành động quá khứ. Khi chúng ta mở mang tâm trí qua thiền định, chúng ta ngưng những đắm đuối của năm giác quan. Khi tâm trí trong sáng sẽ giảm đi lo âu, tham dục, nóng giận, ghen ghét và ảo tưởng sai lầm. Tâm trí trong sáng trở nên sung mãn và bén nhạy. Đó chính là khi chúng ta có thể tác động được hoạt động tâm thần và phát ra sức mạnh tiềm ẩn to lớn. Đó là sức mạnh tâm linh. Sức mạnh này hiện hữu trong tất cả chúng ta; chúng ta chỉ cần phải học cách phát ra sức mạnh này qua thiền định. Một cách khác có thể tiến cận những hoạt động tinh thần tàng trữ (trong đầu) là thôi miên. Qua thôi miên một số người có thể phát triển một mức độ sức mạnh tâm linh nhưng môn này không được tiến dẫn vì lẽ thôi miên dựa trên một tác nhân khác và không tác dụng đến việc thanh tịnh hoá tâm trí.
Đức Phật khuyên các tín đồ trau dồi và mở mang sức mạnh tiềm ẩn trong con người và chỉ cho tín đồ làm sao sử dụng hữu hiệu nhất sức mạnh của ý chí và trí thông minh mà không cần làm tôi mọi cho một cá nhân nào để mưu cầu hạnh phúc trường cửu.
Không oán trách ai cả, Phật giáo dạy con người chịu trách nhiệm hành động của chính mình. Con người phải đương đầu với thực tại cuộc đời, gánh trách nhiệm và chu toàn nhiệm vụ, bổn phận với bản thân mình cũng như đối với người khác. Đau khổ hay sung sướng do chính mình tạo nên và chính mình có khả năng quét sạch mọi phiền não đau khổ, giữ an lạc, hạnh phúc bởi hiểu rõ những yếu điểm của chính mình và tự gắng sức để vượt qua những trở ngại đó. Tâm trí của con người không được rèn luyện chịu trách nhiệm về tất cả các rắc rối, tai biến , nhiều loạn, bất hạnh và cả đến những thay đổi của môi trường và vật chất. Trái lại tâm trí con người được rèn luyện có thể thay đổi tình trạng bất hạnh trên thế giới và có thể đem lại hoà bình thịnh vượng và hạnh phúc khắp nơi cho mọi người. Việc đó chỉ có thể làm được qua việc thanh tịnh hoá sức mạnh tinh thần.
PHƯƠNG PHÁP CỦA ĐỨC PHẬT
Kỹ thuật giáo lý của Đức Phật khác hẳn các người khác. Ngài không bao giờ sửa soạn “các bài giảng để nói trước công chúng” hay những “bài diễn thuyết”. Ngài luôn luôn quyết định đề tài căn cứ vào sự việc xảy ra bất ngờ hay từ nhận xét. Một trong những điểm kỳ tài của Đức Phật và tài năng của bậc Mô Phạm này là việc thực hành phương pháp giáo huấn điêu luyện áp dụng từ “cái biết đến cái không biết”. Thí dụ trong một dịp, Ngài cùng các đệ tử đang đi bộ trên bờ một con sông, Ngài nhìn thấy có một khúc gỗ đang bồng bềnh trôi giữa dòng nước, Ngài dừng lại và hỏi :” Các ông nghĩ gì về khúc gỗ này ? Khúc gỗ sẽ ra sao ? Một đệ tử trả lời :”Khúc gỗ sẽ dạt vào hòn đảo giữa sông “. Những đệ tử khác nói :”Nước sẽ vào khúc gỗ và khúc gỗ sẽ bị chìm ” ,“ Khúc gỗ sẽ được người ta lấy , cắt ra để làm củi sưởi “ , “Khúc gỗ sẽ trôi ra biển “. Bây giờ ai là người nói đúng ? Ai là người có thể tiên đoán trúng số phận khúc gỗ ? Rồi Đức Phật giảng cuộc sống chúng ta giống khúc gỗ trôi trên dòng nước hoàn toàn bất trắc. Không ai có thể biết được cái gì sẻ xảy đến với chúng tangày mai hay tháng sau. Phương pháp của Đức Phật là lấy những bài học từ đời sống thường nhật cho nên giáo lý của Ngài luôn rút từ mầm mống nơi này nơi kia và hoàn toàn thích hợp cho kinh nghiệm của con người.
Theo đường lối như trên, Ngài thừa nhận con người hoàn toàn tự do suy nghĩ, sử dụng giác quan thông thường để nhận định. Ngài không trình bày một tôn giáo thực hành vì áp bức, do sợ hãi và ham muốn dục lạc.
Theo Đức Phật, một ý nghĩ, một lời nói cao đẹp mà không có hành động tương xứng theo sau, thì chẳng khác nào như bông hoa đẹp không hương, không kết trái.
Bát chánh đạo trình bày bởi Đức Phật là lớp đào luyện văn hoá và tiến bộ nội tâm. Chỉ tin cậy vào những sùng bái bên ngoài, nghi lễ và cầu nguyện, con người không thể tiến bộ trong việc phát triển nội tâm thích đáng. Chỉ trông vào cầu nguyện để được cứu rỗi, theo Đức Phật, cũng giống như :” đòi hỏi bờ sông bên kia chuyển qua bên này để khỏi phải mất công mệt sức” .
TỰ KHÁM PHÁ
Nhiều tôn giáo cho rằng những thông điệp được khám phá cho nhân loại do một đấng thiêng liêng. Tuy nhiên, một số nhà duy lý luận hỏi nếu chỉ có một đấng thiêng liêng và đấng này đã ban thông điệp lợi lạc cho tất cả nhân loại, tại làm sao có quá nhiều niềm tin trên thế giới ? Nếu thông điệp có ý nghĩa cho toàn thể con người thì điều khó khăn gì cho đấng thiêng liêng này công khai loan báo cho toàn thể để không còn chỗ nghi ngờ và giải thích sai lầm? Mọi người phải chấp nhận thông điệp ấy và sẽ không có sự xích mích giữa các tôn giáo và toàn thể thế giới chỉ cần theo thông điệp của một đấng thiêng liêng là đủ.
Nhiều năm trước, có một cuộc hội thảo về tôn giáo tại Đại học đường Mã Lai Á. Có tất cả năm thuyết trình viên, mỗi tôn giáo một thuyết trình viên. Sau khi trình bày, một sinh viên hỏi :”Khi chúng tôi nghiên cứu tôn giáo của chúng tôi, chúng tôi thu lượm được một số thông tin về thế gian, vũ trụ và cuộc đời. Khi chúng tôi nghiên cứu về khoa học, thông tin thu lượm được hoàn toàn khác hẳn. Thông tin khoa học ngược lại với quan điểm đạo giáo của chúng tôi. Cho nên chúng tôi không biết nên chấp nhận tin việc học hỏi nơi tôn giáo chúng tôi hay nơi khoa học”.
Một thuyết trình viên đáp :”Tôi tin là Thượng đế ban giáo pháp của Ngài dưới hình thức một thông điệp cho một người, người này truyền bá đến những người khác, cho nên chúng ta phải tin lời Thượng đế”.
Nhưng người sinh viên khăng khăng :”Làm sao ông biết được người nhận thông điệp thông suốt được thông điệp đó một cách chính xác ? Có thể thông điệp đã sai lạc và được giải thích lầm lẫn theo tư tưởng của họ và cứ thế truyền lại cho hậu thế “.
Đức Phật, trái lại, không bao giờ cho rằng bất cứ việc gì đều do nhận được từ nguồn tin bên ngoài. Trong suốt quá trình hoằng pháp của Ngài, Ngài luôn luôn khẳng định các người dự thính cứ tự do hỏi Ngài, chất vấn Ngài về giáo lý của Ngài để họ có thể tự mình hiểu được chân lý. Ngài nói “Hãy đến xem và nhận xét” (Ehipassiko). Ngài không nói “Hãy đến để tin theo”.
Bất cứ lúc nào Ngài nói đến việc gì, việc đó đã được đích thân Ngài trắc nghiệm giá trị của nó qua bản thân Ngài như một con người bình thường. Ngài tuyên bố không có thần linh. Ngài thấu rõ mọi sự vì lẽ Ngài biết vì sao Ngài phải chứng nghiệm khổ đau trong nhiều tiền kiếp do những hành động xấu Ngài phạm vì ngu si. Ngài đã khó khăn mới học được. Ngài đã khuyên răn các tín đồ của Ngài qua kinh nghiệm bản thân của Ngài. Ngài đã hoàn tất một việc phi thường cho nhân loại bằng thực hành và nhận xét những sự toàn hảo vĩ đại (perfections) qua nhiều cuộc sống và cuối cùng chứng nghiệm được hạnh phúc tối thượng. Chúng ta phải tự hỏi cái nào đáng tin cậy, lời xác nhận do kinh nghiệm bản thân của một người có thật hay tin cậy vào một người mà họ cho rằng đã nghe thấy từ một người nào đó và người này lúc nào cũng vô hình.
 
TỰ DO TƯ TƯỞNG
Lời khuyên của Đức Phật là không nên tin vào lý thuyết, thờ cúng và các trưởng giáo. Thực sự, bất cứ lúc nào chúng ta cũng phải làm chủ chúng ta qua lòng tự tin. Chúng ta đừng bao giờ chịu khuất phục phẩm giá hay sở thích của chúng ta. Đức Phật cực lực ủng hộ giáo pháp về lòng tự tin, thanh tịnh, nhã nhặn, giác ngộ, an lạc và tình thương đại đồng. Ngài nhấn mạnh sự cần thiết của hiểu biết vì lẽ không hiểu biết, phần tâm linh bên trong đưa đến trí tuệ không thể đạt được. Ngài nói :”Nếu quí vị muốn chấm dứt khổ đau, sợ hãi, hãy triển khai kỷ luật, từ bi và trí tuệ “. Lúc nào chúng ta cũng phải để cho đầu óc chúng ta tự do suy nghĩ và hiểu rõ không cần ỷ lại vào ảnh hưởng bên ngoài. Kẻ nào trông cậy vào người khác thì chẳng khác trẻ nít. Chúng ta hãy theo gương Đức Phật, Đức Phật nói khi Ngài thiền định để đạt giác ngộ thì không đấng thiêng liêng nào đến thầm thì bên tai Ngài để khám phá những bí mật giấu kín của sức mạnh tinh thần. Không một ai cho ngài một điều răn hay giới luật nào. Ngài nói :”Ta không bao giờ có một vị Thầy nào hay một thần linh nào dạy ta hay bảo ta làm cách nào để đạt được giác ngộ. Cái mà ta thành công là do sự cố gắng, năng lực, kiến thức, thanh tịnh của chính ta để đạt được trí tuệ tối thượng”.
Đó là lý do tại sao Ngài nói trí tuệ “trỗi lên” nơi Ngài khi Ngài giác ngộ. Trí tuệ tiềm ẩn trong tất cả chúng ta. Chúng ta chỉ cần tạo điều kiện đúng, trí tuệ sẽ phát sinh.
Tự do tư tưởng, tự do tìm hiểu phát xuất từ nội dung tinh thần và triết lý của Phật Giáo. Không có một tổ chức tôn giáo nào trên thế giới lại tương tự, song hành như vậy. Không bắt buộc, không cưỡng bách để tin theo hay chấp nhận giáo pháp.
Đường hướng của Phật Giáo la` thấy và hiểu. Nó là thái độ khoa học của tâm trí. Giáo pháp vể triết lý căn bản dạy trong Phật Giáo càng ngày càng minh chứng vững vàng bởi những khám phá mới của khoa học.
Phật Giáo ủng hộ lòng tự tin, tự kiềm chế, tự tín nhiệm, tự thanh tịnh cho con người trong xã hội.
Một đặc tính đặc biệt của Phật Giáo là tôn giáo này liên kết chặt với các lý tưởng dân chủ. Các cuộc bàn cãi công khai phải được khuyến khích, cả đến những quan điểm trái ngược cũng được phát biểu đưa đến tâm trí được mở rộng và sung mãn. Những giới của các sư nam và sư nữ được cấu tạo hoàn toàn theo các nguyên tắc dân chủ.
Việc này làm theo Pháp khám phá ra bởi Đức Phật tối thượng, một đấng cởi mở và uy hùng can đảm khích lệ các đệ tử không chấp nhận cả đến những gì Ngài tuyên bố mà không khảo sát và xác tín. Thực ra, Đức Phật đã tuyên bố Pháp là thầy của Ngài và tất cả những gìNgài làm là để tìm ra chân lý của Pháp bao quát đã bị chìm dắm nơi con người vì ngu si. Chúng ta phải để cho tâm trí chúng ta được tự do suy nghĩ không thành kiến và không lệ thuộc.
Trước khi Ngài qua đời, Ngài dặn dò những lới cuối cùng “Hãy tìm nơi nương tựa ngay nơi các con”. Tại sao sau 45 năm hoằng pháp, Ngài lại thốt ra những lời như vậy ? Tại sao Ngài không khuyên mọi người tìm sự cứu rỗi nơi Ngài. Cái Ngài muốn nói là chúng ta không nên tìm sự cứu rỗi ỷ lại vào người khác. Chúng ta phát triển lòng tự tin ngay nơi chúng ta. Lời khuyên răn thật tuyệt diệu và cao thượng biết bao ! Có lẽ bây giờ quí vị có thể hỏi :”Tại sao chúng tôi nói “Buddham saranam gaccami “ ? “(Tôi đến với Đức Phật để nương tựa )
Khi chúng tôi nói như trên không có nghĩa là chúng tôi ỷ lại vào Đức Phật. Chúng tôi muốn nói là nếu chúng tôi theo những phương pháp dạy bởi Đức Phật, chúng tôi sẽ mở mang lòng tự tin để đạt được sự cứu rỗi. Chắc chắn chúng tôi không nghĩ một ngày nào Đức Phật sẽ đến và mang chúng tôi đến “Thiên Đường” trong một chuyến bay vinh quang.
Một số người nói rằng Đức Phật chỉ là một người bình thường không phải là một Thượng đế, tại sao dân chúng lại theo Ngài ? Những người này không hiểu rằng người Phật tử không trông chờ sự cứu rỗi từ nơi Đức Phật mà là thực hành phương pháp cao thượng do Ngài dạy. Phương pháp của Đức Phật ngay từ lúc khởi đầu là chúng ta phải làm thế nào để phát triển lòng tự tin qua việc rèn luyện tâm trí của chúng ta. Tự mình cố gắng, tự mình thực hiện, đó là con đường duy nhất tiến đến sự cứu rỗi.
Bất cứ ai cũng có thể đứng trước Đức Phật trong tư thế một người có phẩm cách chứ không phải trong tư thế một người nô lệ. Với hy vọng và tự tin, một người có thể quyết định vận mạng của chính mình. Đức Phật hoan nghênh quí vị nếu quí vị giữ lập trường như một con người có phẩm cách. Nhưng quí vị phải sẵn sàng tỏ ra phải chăng và chịu nghe các lý luận có ý thức trái ngược với niềm tin của quí vị nhưng lý luận này đáng được chú ý đến. Đó là thái độ của một người hiểu biết. Khi Ngài gần tịch diệt, rất nhiều bậc quyền quí, thái tử, tộc trưởng, và cả đến những thánh chúng với các vòng hoa đến gặp Ngài để tỏ bày lòng tôn kính của họ với Ngài, nhưng Đức Phật sai Anan, thị giả của Ngài, nói với họ rằng nếu họ muốn tỏ lòng tôn kính Ngài, họ chỉ việc theo đúng giáo lý của Ngài, vị thầy của họ. Trên đây cho thấy Ngài không muốn cá nhân Ngài được vinh danh hay đòi hỏi một sự phục tùng tuyệt đối cho uy quyền của Ngài.

<< Phần II |


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 217

Return to top