VÔ TƯSau khi biết chân lý, những người hiểu biết cố gắng trau dồi tư tưởng của họ để phòng và bảo vệ chính họ. Họ không chấp nhận hoặc bác bỏ cái gì mà có người nói. Khrisnamurti nói những ai lúc nào cũng ỷ lại vào ý kiến người khác là những con người thuộc hạng hai. Không chấp nhận hay tin tưởng bất cứ cái gì được dạy trong phần thực hành tôn giáo và đồng thời không bác bỏ hoàn toàn. Có những điều chúng ta chấp nhận là đúng nhưng sau đó chúng ta khám phá ra những điều ấy lại sai. Ngược lại, có khi chúng ta bắt buộc chấp nhận một số điều ta cho là sai lúc đầu thì cuối cùng là đúng. Cho nên Đức Phật khuyên chúng ta hãy chờ đợi một thời gian để nghiên cứu, suy gẫm , quan sát, điều tra trước khi chúng ta quyết định điều mà chúng ta nghe phải hay không phải, nên hay không nên, chấp nhận hay bác bỏ. Chỉ dựa vào tình cảm hay niềm tin mù quáng hay niềm lo âu, chúng ta có thể chấp nhận một số điều ngay cả khi chúng ta còn hoài nghi. Kết quả của biếng nhác, tâm trí bối rối, chúng ta có thể bác bỏ hay không tin những điều chúng ta nghe thấy. Nhưng chúng ta phải để cho tâm trí chúng ta có dịp may để suy tư, và hiểu được phải hay không phải , đúng hay sai.
NIỀM TINNiềm tin không thôi thì không nghĩa lý gì vì lẽ niềm tin phải được rèn luyện với sự hiểu biết phát xuất từ một tâm trí được rèn luyện. Mục đích chính của tôn giáo là làm sao chỉ cho tín đồ cách sử dụng kiến thức với sự hiểu biết phê phán để đạt được tối đa tình cảm hạnh phúc và nhiệm vụ của chính mình. Dù kiến thức có nhiều thế nào đi nữa, nếu chúng ta không nhổ được gốc rễ những hoen ố và nghi ngờ trong đầu óc chúng ta, chúng ta vẫn còn trong tình trạng không hạnh phúc. Khi chúng ta đạt được thanh tịnh ở mức cao nhất (A-La-Hán), chúng ta hoàn toàn bật được gốc rễ tham dục, sân hận, ảo tưởng sai lầm của chúng ta và chúng ta thiết lập được một trạng thái bình thản trong tâm hồn chúng ta. Rồi khi những “thanh tịnh” đến thì không một tư tưởng xấu xa nào có thể phát sinh được. Chúng ta không thể thốt ra những lời gay gắt hay phạm những hành động tội lỗi. Một người đã thanh tịnh được tâm trí cao hơn cả trăm lần những người có thế lực hay những người chỉ có niềm tin và kiến thức đắm chìm trong những nhơ bẩn của tâm trí. Chúng ta cho rằng chúng ta “văn minh”,nhưng làm sao chúng ta có thể nhận mình văn minh khi đầu óc chúng ta còn hiện rõ những nét nhơ bẩn cùng mức độ như những tổ tiên “cổ xưa” của chúng ta đã có từ hằng ngàn năm qua ?
Trên thế giới, dân chúng chen chúc tại các chùa, nhà thờmgiáo đường và các nơi sùng bái để cầu nguyện, hy sinh các sinh vật, thực thi khổ hạnh. Nhưng khi họ vừa ra khỏi các nơi trên, họ vẫn sân si, tham dục, ganh tị, thù hận, ác cảm như trước. Người dân cho rằng là người có đạo lý khi họ cầu nguyện, lễ bái và thực thi các nghi lễ tôn giáo, nhưng “tâm trí” họ vẫn ích kỷ và bất chánh. Nếu quả họ là những người có đạo lý, họ sẽ không còn kỳ thị lẫn nhau, làm cho nhau đau khổ hay chế diễu lẫn nhau trong việc hành đạo. Đức Phật cố gắng khai thị tâm trí của chúng ta để chúng ta hiểu tường tận mọi điều mà không phát triển niềm tin cuồng tín và kỳ thị.
DỊ GIÁOMột lý do khác tại sao giáo lý của Đức Phật không rơi vào một loại tôn giáo đã đượcthiết lập là vì không có chỗ cho “dị giáo” trong hệ thống giáo lý của Ngài. Dị giáo là cái gì nó thách thức “lời của đấng thiêng liêng”. Đức Phật đã chân thành mời cả đệ tử Ngài lẫn các người chống đối Ngài đến thách thức giáo lý của Ngài từ mọi góc độ để không còn chỗ nào nghi ngờ nữa. Đúng theo lệnh truyền của Ngài, các đệ tử của Ngài đã lý luận về giáo lý của Ngài và ngay khi họ đã thiết lập các trường Phật Học khác theo sự hiểu biết của họ mà khôngxảy ra bạo động hay đổ máu. Hiện nay, trường Đại Học Phật Giáo nổi tiếng Nalanda (đã bị phá hủy bởi bàn tay cuồng tín của tôn giáo khác), những tín đồ của các trường Phật Giáo Nguyên Thủy và Đại thừa, sống cùng nhau, nghiên cứu và bàn bạc các quan điểm dị biệt hoàn toàn trong hoà hài. Đức Phật dạy nếu một ai tin rằng mình biết chân lý thì đừng nên sợ sệt sự thách đố vì lẽ chân lý bao giờ cũng thắng. Hơn thế nữa Ngài còn tích cực khuyến khích bất cứ ai thách đố giáo lý của Ngài. Những giải đáp của Ngài cho nhiều câu hỏi làm giàu thêm giáo pháp trong cánh đồng rộng lớn của sự tu hành được ghi lại một cách trung thực bởi các đệ tử của Ngài. Ngày nay chúng ta có thể trả lời bất cứ câu hỏi nào về Phật Giáo, chỉ việc đơn giản tham khảo các lời giải thích của Đức Phật. Suy nghĩ hợp lý và khích lệ việc phê phán là tối quan trọng trong Phật Giáo.
KHOA HỌCSự thử thách của một giáo lý tôn giáo nằm trong sự thích ứng của giáo lý với các khám phá của khoa học và sự lôi cuốn đạt được trong tâm trí của con người có trí thông minh cao độ. Một vài tôn giáo từng trải nghiệm sự bối rối ở một chừng mực nào đó, vì khoa học tiết lộ các khám phá của các tôn giáo này. Kết quả đưa đến vài sửa đổi hay việc thuyết minh lại thánh kinh của họ trở nên cần thiết. Trên phương diện này, Đạo Phật, với giáo pháp hợp lý của Đấng Đại Giác, không phải đương đầu với các bối rối như trên vì nguyên lý căn bản rất phù hợp với những khám phá của khoa học. Chúng ta hãy nghiên cứu một thí dụ.
Dưới ánh sáng nghiên cứu mới nhất về nguyên tử, khái niệm cổ của thế giới thay đổi giống như khái niệm về nguyên tử cũng tự nó thay đổi. Không còn vật chất giống như đã từng được tin tưởng trong quá khứ; khái niệm về vật chất được giảm thiểu đến mức năng lượng, rồi đến khái niệm về năng lực cuối cùng cũng biến đi , đến mức độ vi tế hơn và chính các nhà khoa học cũng không biết gọi nó là gì nữa. Những nhà khoa học bây giờ đi đến kết luận ngay đến nguyên tử chỉ là một khái niệm, nói rộng ra thế giới cũng không là gì cả mà chỉ là một quan niệm. Các nhà khoa học càng đi sâu vào việc nghiên cứu sự cấu tạo của nguyên tử, họ càng chịu tin kết luận trên.
Trong Phật Giáo, lý thuyết trên đã được trần thuyết từ 16 thế kỷ qua, nếu không phải là sớm hơn. Vào thếkỷ thứ Tư sau Công Nguyên, nhà triết học Phật Giáo Asanga (Vô Trước )triển khai một lý thuyết gọi là Vijnapti_matra hay Citta-matra (Duy thức) căn cứ theo tài liệu nguyên thuỷ cho là thế giới chỉ là một khái niệm, chỉ là một tư tưởng, chỉ là một ý kiến. Ngài Asanga ( Vô Trước ) đã định nghĩa nguyên tử, và định nghĩa của Ngài từ 16 thế kỷ qua vẫn còn giá trị đến ngày nay. Nguyên tử (Paramanu) dược hiểu như không có thực thể (Nissarira). Sự xác quyết thể tánh của nguyên tử được hoàn thành bởi các nhà trí thức qua việc phân tách khối vật chất đến mức độ tối hậu. Dĩ nhiên Ngài Asanga không chú tâm đến vật lý, nhưng Ngài nói về phương diện siêu hình học và triết học. Việc quan tâm của Ngài là bày tỏ thế giới mà người bình thường cho là thực thể, thật ra không có gì cả, ngoại trừ một khái niệm. Theo Albert Einstein (8) khi vũ trụ được đem phân tách không còn gì tồn tại dưới dạng vật chất cả, chỉ còn lại âm ba rung chuyển hay các làn sóng.
Ngày nay, lý thuyết của Phật Pháp vẫn đứng vững, không bị ảnh hưởng của tiến trình thời gian và sự tăng trưởng kiến thức, vẫn giữ nguyên như lúc ban đầu được bày tỏ. Dù cho kiến thức khoa học tăng trưởng đến thế nào trên chân trời trí óc của con người, trong Giáo Pháp vẫn có chỗ để thừa nhận và đồng hoá các khám phá xa hơn nữa. Lý do vì Phật Giáo không căn cứ vào sự dẫn dụ của trên quan niệm hẹp hòi của các tri giác sơ khai hay vì sức mạnh của nó trên tư tưởng tiêu cực.
PHÉP LẠKhoa học ngày nay không bác bỏ sự có thể có được các phép lạ, như đã từng thấy, nhưhg chỉ là bước đầu chấp nhận những cái được biết là phép lạ và những hiện tượng phi thường chưa được biết. Đức Phật tự Ngài đã bày tỏ quan điểm : Với Ngài các phép lạ không được coi là chứng minh được chân lý mà chỉ trình bày thành thạo được một số ít thần thông phát triển nơi một số người. Những người có phép lạ không nhất thiết là bậc giác ngộ hay các bậc thánh.
Như vậy, Đức Phật không những dạy đệ tử Ngài đề cao cảnh giác việc thi triển bất cứ loại thần thông phép lạ nào mà họ đạt được mà còn báo cho quần chúng không nên lưu tâm quá mức tới những việc thi triển thần thông. Cho nên, xét những tôn giáo khác lợi dụng phép lạ đến hết mức để thu phục quần chúng, Phật Giáo coi những việc đó không đáng kể và không thích đáng với nhiệm vụ chính là mở mang tinh thần và giải thoát. Theo Đức Phật, thần thông phép lạ cao nhất phải là : làm sao biến một người ngu si thành một người khôn ngoan.
Liên quan đến việc trên, Swami Vivekananda nói :”Ý tưởng về siêu nhiên lên đến một mức độ nào đó, đem thần thông sức mạnh cho con người, nhưng nó cũng đem lại ỷ lại, sợ hãi và dị đoan. Nó suy thoái thành một niềm tin khủng khiếp trong cái yếu đuối tự nhiên của con người “.
Quan điểm khoa học và nội dung của Phật Giáo đã khiến Albert Einstein (8) tuyên bố :”Nếu có tôn giáo nào có thể đương đầu với nhu cầu khoa học hiện đại, tôn giáo đó phải là Phật Giáo.”
ĐẠO ĐỨC VÀ XÃ HỘIMột phương diện quan trọng khác của Phật Giáo như một tôn giáo của thế giới là quan điểm về những vấn đề xã hội, kinh tế và chính trị. Một số người không am tường thường cho rằng Phật Giáo muốn đào thoát hay rút lui khỏi cuộc sống thực tại, ẩn náu trong một ngôi chùa, trong một hang động hay trong rừng và sống một cuộc đời biệt lập khỏi xã hội. Đó chỉ là sự thiếu hiểu biết mà thôi, chính ngay Đức Phật, Ngài là một người làm việc tích cực nhất chưa từng thấy trên thế giới. Mỗi đêm Ngài chỉ ngủ có hai tiếng rưỡi, và Ngài làm việc suốt thời gian còn lại. Ngài đi bộ ngang dọc khắp Ấn Độ, nói chuyện và dạy bảo dân chúng. Không phải lúc nào Ngài cũng chỉ nói đến Niết Bàn với tất cả mọi người Ngài gặp. Ngài nói về đời sống của họ. Đức Phật nói, Ngài không kỳ vọng người mới vào đạo có thể thi hành ngay được Chân Lý cao thượng nhất. Theo Ngài thì phải tuần tự vi tiến. Cho nên giúp đỡ bằng nhiều cách, phù hợp trình độ và mức tiến triển, là một phần của tôn giáo này. Một cuộc sống xã hội, kinh tế và chính trị tích cực không thể tách xa cuộc sống đạo lý thực sự.
Trong tôn giáo của Đức Phật, ta thấy một hệ thống đạo đức toàn diện và một lý thuyết siêu hình siêu việt bao gồm một tâm lý cao thượng. Nó thích hợp với mọi tầng lớp. Với những người bình dị,nó cung cấp một qui tắc luân lý, một sự thờ phượng đẹp đẽ, một niềm hy vọng cuộc sống tại thiên đường. Với những người nhiệt tình sùng đạo, nó là một hệ thống tư tưởng trong sạch, một triết lý cao thượng, và những lời giáo huấn về đạo đức đưa đến giác ngộ, giải thoát khỏi khổ đau. Nhưng giáo lý căn bản vẫn là sự thanh tịnh hoá con người. Sự tiến bộ về tinh thần không thể có được nơi người không có cuộc sống trong sạch và từ bi.
Trong hình thức thực hành phổ thông cho đại chúng vời những lễ nghi, diễu hành, và các hội liên hoan hoà nhập các tập tục truyền thống, Phật Giáo tạo một động cơ thúc đẩy rộng lớn, kinh nghiệm và thực tế cho nền giáo dục. Những hoạt động trong gia đình, các cuộc lễ trong xóm làng, hoạt động văn hoá và các dịp như sanh, tử, cưới xin, tưởng niệm là những lúc giáo lý được sử dụng bán chính thức để dạy con người. Các em nhỏ học hỏi được nhiều về tập quán, phong tục, giá trị và cả đến những nguyện vọng qua quan sát hay tham dự vào những hoạt động giáo dục bán chính thức này. Thanh niên và các người đứng tuổi cũng được hưởng lợi ích từ các hoạt động này.
Ngoài trình độ cá nhân và sự giải phóng con người, Phật Giáo công nhận gia đình là một đơn vị của xã hội và quốc gia. Cho nên từ một người nội trợ tầm thường mà mục đích tối thượng là đạt được vật chất đầy đủ nơi cuộc đời hiện tại và về với cảnh trời sau này, Phật Giáo cung cấp một qui tắc giáo lý đơn giản -nói trong kinh Sigalovada (Thi-Ca-La-Việt)- sự thực hành làm vững mạnh sự đoàn kết trong cộng đồng. Qui tắc giáo lý này bảo đảm sự liên hệ chính đáng giữa người trong gia đình, giữa chủ nhân và người làm công.
Trong một bài thuyết giảng, Đức Phật đề ra 10 điều khuyên răn dạy ta phải kính trọng và chu toàn bổn phận trách nhiệm đối với cha me., con cái, chồng vợ, những người liên hệ trong gia đình, những bậc cao niên, những người đã chết, thánh thần và để sống hoà hợp trong xã hội không phương hại đến quần chúng và tiến bộ với một cuộc sống không tội lỗi.
Giáo lý trên đem hạnh phúc cho mọi người trong xã hội vì mục đích là đem lại sự thực hành chuyên cần, những hành động thân hữu, đặc điểm của con người thật sự vị tha.
Mặt khác người tiến bộ hiểu được các chướng ngại của cuộc sống gia đình ( con đường hoen ố của dục vọng ) có thể lựa chọn qui tắc giáo lý và đạo đức cao hơn đề cập trong Giới Luật Vinaya ( Luật Tạng). Những phẩm hạnh này giúp cho người đó sống đời thanh tịnh, thánh thiện, từ bỏ mọi xiềng xích của các dục lạc trần tục.
GIÁO LÝGiáo lý của người Phật tử căn cứ vào sự tự do và hiểu biết. Vì lẽ giáo lý phát xuất từ nhu cầu của xã hội, để tự gìn giữ, nó cần thiết phải phù hợp với hoàn cảnh và thời gian, cho nên giáo lý phải tương đối. Thật ra, không thể có giáo lý hay đạo đức nào được chấp nhận nếu nó bắt nguồn từ sự ép buộc hay can thiệp của bất cứ yếu tố bên ngoài nào vào cá nhân đó. Cá nhân phải được hoàn toàn tự do khỏi tất cả ràng buộc để giáo lý được thực sự hữu hiệu.
Tâm từ (Metta) là căn bản của tất cả giáo lý và đạo đức trong Phật Giáo. Do lòng từ bi, phát xuất các giới luật luân lý và đạo đức, các cơ quan xã hội, pháp lý, an sinh. Bình đẳng, tình huynh đệ, khoan dung, thông cảm, kính trọng đời sống, kính trọng quan điểm của người khác, kính trọng tôn giáo khác, tất cả những thứ đó bắt nguồn từ tâm Từ. Dựa theo nguyên tắc cao thượng vĩ đại, Phật Giáo luôn luôn là một tôn giáo hoà bình. Chiều dài lịch sử của Phật Giáo không dấu vết của chiến tranh, ngược đãi hay tranh chấp vì dị giáo. Về phương diện trên, Phật Giáo là duy nhất trong lịch sử các tôn giáo. Gương cao thượng của Đức Phật trong vấn đề này được Swami Vivekananda đề cập trong một thời thuyết giảng về karmayoga (nghiệp trong Du Già ): “Toàn thể nhân loại đã xuất hiện một người như thế, một triết lý như thế, một cảm tình sâu đậm như thế. Nhà triết học vĩ đại thuyết giảng triết lý cao thâm nhất, thương cảm sâu xa đến cả loài vật thấp hèn nhất, và không bao giờ đòi hỏi một chút gì cho mình cả. Ngài là lý tưởng của Du Già Karma, hành động hoàn toàn không động cơ nào thúc đẩy, và lịch sử nhân loại chứng minh Ngài là người chưa từng có, không thể so sánh, một sự kết hợp vĩ đại của con tim và khối óc chưa bao giờ từng có.”
Về phương diện xã hội và luân lý, nhà Triết học Đức, giáo sư Max Muller nói: “Giáo lý căn bản của người Phật tử tự nó là một hệ thống hoàn hảo nhất mà thế giới chưa bao giờ biết đến.”
Về điểm trên, tất cả các lời chứng nhận từ bốn phương chống đối cũng như thiện cảm đều đồng ý; dù họ đã là các triết gia, các nhà thuyết giáo, các nhà siêu hình học tinh tế, các nhà lý luận, vì nơi đâu chúng ta có thể tìm được một hoá thân của tình thương, tình thương không phân biệt giai cấp, tín điều, màu da, tình thương vượt qua biên giới của nhân loại bao gồm tất cả chúng sinh, một tình thương biểu hiện chân lý của lòng thương yêu thân ái bao la (Metta) và không tổn hại ?
Albert Schweitzer nói :”Trên quả địa cầu này, Đức Phật đem ý nghĩa chân lý giá trị trường cửu và tiến bộ đạo đức không chỉ riêng cho Ấn độ mà cho tất cả nhân loại. Đức Phật là một bậc đạo đức kỳ tài vĩ đại nhất chưa từng thấy có trên hoàn vũ.”
Xa hơn nữa, giáo sư Rhys Davids (9) nhận định :”việc nghiên cứu Phật Giáo phải được coi là phần cần thiết của bất cứ một lớp nào về đạo đức và không nên chỉ bàn đến qua loa trong một hay hai trang mà phải có được sự thừa nhận thích đáng chiều sâu lịch sử của sự tiến hoá đạo đức.”
PHÁT TRIỂN KINH TẾTrong phạm vi cơ cấu tổ chức của người Phật tử, khả năng phát triển kinh tế trên căn bản tích cực và hiệu quả nhận được sự chú ý đặc biệt của các quốc gia giàu có cũng như các quốc gia đang phát triển. Lý thuyết phát triển kinh tế hiện đại đã thất bại trong việc kìm hãm mức gia tăng các vấn đề môi sinh và xã hội trong hầu hết các xã hội phát triển thì Phật Giáo có lối thoát khỏi bế tắc này.
Kinh Cakkavatti Sihananda (Ca Diếp Sư Tử Hống) trong Digha Nikaya (Trường bộ kinh) nêu rõ rằng nghèo khổ là nguyên nhân của tội ác và vô luân. Đức Phật và các đệ tử Ngài dạy dân chúng giá trị của cải kiếm được và sự quan trọng của sự phát triển kinh tế cho đời sống hạnh phúc của họ. Trong kinh Kutadanta (Cửu La Đàn Đầu) trong tập Digha Nikaya Đức Phật cũng bày tỏ tội ác như cướp bóc không thể ngăn được bằng hình phạt. Để có thể kiểm soát được hữu hiệu và ngăn chận được những tội ác,phải tạo cơ hội cho họ có công ăn việc làm để họ có được một đời sống thoải mái.
-An ninh kinh tế (atthi Sukha)
-Vui trong sung túc (bhoga-sukha)
-Không mắc nợ (anana-sukha)
-Sống cuộc đời không tội lỗi (anavajja-sukha)
Trên đây là bốn hạnh phúc cho người cư sĩ. Khả năng trong nghề nghiệp (uthana sampada ), gìn giữ được của cải, thân hữu với bạn tốt (kalyana mittata), chi tiêu trong khuôn khổ lợi tức (samajivikata) là bốn điều đem lại hạnh phúc cho dân chúng trên thế giới.
Nhiều ý tưởng mẫu mực cho một xã hội tiến bộ, cũng như nhiệm vụ, bổn phận cho gia đình lẫn xã hội, vì lợi ích qua lại của cả hai, được ghi trong các bài giảng trong kinh Sigalavoda (Thi Ca La Việt), Parabhava (Tác Hữu) và Vasala (Tỳ Xá Li).
Bằng chứng hiển nhiên, từ lời nhận định trong kinh Dhammapada (Pháp Cú) cho thấy Đức Phật chú ý thẳng đến những vấn đề khó khăn của chính phủ với lòng từ bi và một quan điểm khuyến khích một hình thức pháp lý không làm tổn thương đau khổ cho người dân. Pháp lý phải ngăn ngừa đau khổ dưới ách chuyên chế , sưu cao thuế nặng đặt ra bởi các nhà cầm quyền bất chính.
Phật Giáo dạy một nước phải cai trị theo đúng 10 nhiệm vụ của một vị vua theo đúng chánh pháp (dasan raja dharma) :
-Tự do tư tưởng (dana)
-Luân lý (sila)
-Cho tất cả những gì lợi ích cho dân (pariccaga)
-Trung thực và liêm chính (ajjava)
-Ân cần và hoà nhã (maddava)
-Mộc mạc chân phương trong thói quen (tapa)
-Xa lánh oán ghét, ác ý, căm thù (akkadha)
-Bất bạo động (avihimsa)
-Kiên nhẫn, chịu đựng, khoan dung, thông cảm (khanti)
-Không chống đối, không che dấu, nghĩa là không bao che, cản trở bất cứ biện pháp gì mang lại hạnh phúc cho dân (avirodha)
Theo đường lối nầy, Đức Phật và các đệ tử dạy dân chúng các ý niệm quan trọng liên quan đến sức khoẻ, vệ sinh, kiếm tiền cho đời sống, giao tế hỗ tương, hạnh phúc xã hội và một chính quyền công bằng- tất cả vì lợi ích cho người dân.
Bà H.P Blavatsky, chủ tịch hội Thần học vào cuối thế kỷ 18 đã tuyên bố như sau :”Đức Phật là người đầu tiên biểu hiện đạo đức cao thượng ấy trong giáo lý của Ngài cho đại chúng và đã làm cho quần chúng trở thành nền tảng cốt yếu nhất của giáo pháp đại chúng của Ngài. Điều này cho thấy sự cách biệt lớn lao giữa Phật Giáo đại chúng và bất cứ tôn giáo nào khác. Trong khi các tôn giáo khác, nghi thức và giáo điều nắm giữ trước nhất và nằm chỗ quan trọng nhất nhưng trong Phật Giáo đạo đức bao giờ cũng là điều được nhấn mạnh nhất”.
CHÍNH PHỦNgay cả đến hệ thống nghị viện ngày nay cũng mang sắc thái giống hệt như đã thường áp dụng trong Phật Giáo. Hầu tước của Zetland, nguyên phó vương Ấn độ phát giác :”Quả thật theo tài liệu Phật Giáo, chúng ta phải thừa nhận cách thức điển hình về các cơ cấu đại diện tự quản trị lúc sơ khai được chỉ đạo. Có thể là một điều ngạc nhiên cho nhiều người khi họ biết rằng trong các cuộc Hội nghị của Phật Giáo từ trên 2500 năm qua, người ta đã thấy những hoạt động giống như ngày nay của chúng ta thực thi tại nghị trường. Thẩm quyền trong hội nghị được bảo vệ bằng cách bổ nhiệm một giới chức đặc biệt-Viện trưởng đầu tiên trong Hạ nghị viện của chúng ta. Một giới chức thứ hai được bổ nhiệm để kiểm soát khi túc số cần thiết được bảo đảm – theo kiểu nghị viện Chief Whip trong hệ thống của chúng ta. Một nhân viên phụ trách điều động dưới hình thức biểu quyết sau khi vấn đề được mang ra thảo luận. Trong một vài trường hợp, vấn đề chỉ phải làm một lần, và đến ba lần trong các trường hợp khác, thủ tục tại nghị viện đòi hỏi dự án phải được đọc lần thứ ba trước khi dự án này thành luật. Nếu cuộc thảo luận có những ý kiến dị biệt, vấn đề phải được quyết định bằng đa số tuyệt đối trong một cuộc đầu phiếu kín.”
HẠNH PHÚCTôn giáo nầy không phải một tôn giáo để người dân chỉ biết tuân theo mà là để học hỏi, hiểu biết và thực hành để đạt kinh nghiệm vàhạnh phúc.
Một hôm Đức Phật đi bộ trong rừng, Ngài nắm trong tay vài chiếc lá cây và tuyên bố những gì Ngài dạy đệ tử chỉ như chiếc lá trong lòng bàn tay của Ngài. Toàn bộ giáo Pháp giống như tất cả các lá cây trong rừng. Giáo Pháp mênh mông rộng lớn không tưởng tượng nổi, Đức Phật dạy những điều chủ yếu, cần thiết ngay cho nhiệm vụ cấp thời để chấm dứt khổ đau và được giải thoát. Đức Phật dạy chúng ta phải làm thế nào để tự chúng ta thoát khỏi khổ đau. Kiến thức trần tục còn lại không quan trọng. Vì ngu si, chúng ta đã dành thời gian cả cuộc đời cố gắng đương đầu với các khổ đau ấy, như lo lắng, đau buồn và mâu thuẫn. Việc đó là do chúng ta không hiểu bản chất thực sự của cuộc sống và những nguyên nhân của khổ đau. Thí dụ chúng ta hãy lấy ba đặc tính của Pháp là Vô thường (Anicca), Bất toại nguyện (Dukkha) và Không có thực chất (Anatta, vô ngã). Toàn thể vũ trụ này đều chung số phận của ba đặc tính trên. Không có sức mạnh nào có thể ngăn chận được bước tiến của sự thay đổi hiện hữu từ lúc ta sanh ra và trong đó đã ẩn tàng nguyên nhân của đau khổ. Chúng ta chẳng cần gì khác nữa để nhận thức được về nguồn gốc của khổ đau.
Chúng ta muốn gì ngoài đời sống? Làm sao để chúng ta đạt được hạnh phúc? Bất toại nguyện và hậu quả là không hạnh phúc đến từ nơi chúng ta không hiểu mọi vật đều thay đổi và đi đến tan rã. Đó là luật của vũ trụ. Nhưng vì sự ngu si và niềm tin lầm lẫn về cái ngã của chúng ta, chúng ta muốn sinh tồn trong trạng thái luôn luôn không bao giờ thay đổi. Việc đó không bao giờ có thể xãy ra được. Chúng ta muốn giữ của cải tài sản, sức khoẻ và tuổi thanh xuân của chúng ta. Nhưng rồi ngày nào đó tất cả mọi thứ đó đều bị quét sạch như ngọn đèn bị gió thổi tắt. Khi chúng ta nhận thấy những nét đẹp kiều diễm thay thế bằng những nếp da nhăn nheo và tóc bạc, chúng ta lo lắng và trở nên không hạnh phúc vì chúng ta từ chối chấp nhận sự thay đổi bản chất của vạn vật.
Đức Phật dạy chúng ta hãy suy gẫm các điều đó, chúng ta sẽ hiểu và nhổ tận gốc nguồn không hạnh phúc của chúng ta. Giáo lý của Đức Phật soi sáng đường lối cho nhân loại để bước qua thế gian mù quáng bởi dị đoan, căm thù và sợ hãi để tiến tớimột thế giới ánh sáng mới, một thế giới của tình thương, hạnh phúc và phẩm hạnh.
Edwin Arnold (10) mô tả con đường của Đức Phật trong thi phẩm “Ánh sáng Á châu” :
“
Đây hoa nở trên cây nhân loại
Đã bừng nở qua nhiều vạn kỷ
Làm thế giới chan hoà
Hương thơm trí tuệ
Và mật ngọt tình thương”.
VÔ THƯỜNG VÀ CÁI CHẾTKhi chúng ta còn trẻ, chúng ta cũng phải lưu ý đến điều này dù chúng ta đang còn trẻ, theo dòng thời gian, chúng ta sẽ già. Chúng ta đang mạnh khoẻ, chúng ta phải nghĩ đến lúc nào đó chúng ta sẽ phải đau yếu. Khoẻ mạnh không tồn tại mãi. Khi chúng ta sửa soạn cho chúng ta một cách khôn ngoan cho việc suy tàn, già, bệnh và cuối cùng : cái chết, thì chúng ta sẽ không bị khó khăn trong việc chấp nhận các bất hạnh này. Hiểu biết những việc đó là điều kiện trần thế mà mọi người phải đối mặt, chúng ta có thể dũng cảm chịu đựng bất cứ một khổ đau nào. Đó là sức mạnh, nơi “nương tựa” mà Đức Phật hứa khả. Có những kẻ rên siết và khóc than khi gặp bất hạnh. Điều này không là gì ngoài sự thiếu hiểu biết. Than van về các bất hạnh đó không làm cho đau khổ mất đi.
Muốn tránh đau thương và bất hạnh đến với chúng ta, chúng ta phải làm cho tâm trí chúng ta vững mạnh hơn bằng sự thấu hiểu.
Không có gì hay bất cứ ai đến với cuộc sống mà thoát được tiến trình thiên nhiên “đưa đến kết thúc”. Phải có một kết thúc. Nếu không thì mọi thứ không hiện hữu. Chúng ta cần phải không sợ hãi hiện tượng hoàn toàn thiên nhiên ấy. Tất cả chúng ta phải lưu ý ngay cả đến cái chết chưa phải là kết liễu cuộc sống mà là bắt đầu một cuộc sống khác. Chúng ta được biết với thi sĩ Wordsworth :”Linh hồn nổi lên với chúng ta, ngôi sao của đời chúng ta, đã mọc tại nơi nào đó, đến từ xa”. Khi chúng ta biến đi từ thế giới vật chất này, một đời sống khác hiện ra nơi nào đó – tại sao chúng ta phải lo lắng? Phải chăng đơn giản là chúng ta có một giấy thông hành mới trong cuộc hành trình của chúng ta qua ngả luân hồi (samsara) ?
Các dân tộc tiến hoá rồi diệt vong; các đế quốc trỗi lên rồi tan rã; các lâu đài đồ sộ được kiến thiết rồi sụp đổ dưới cát bụi - con đường của thế giới là như vậy. Những bông hoa lộng lẫy quyến rũ khách qua đường; ngày hôm sau đã tàn lụi và héo khô.
Từng cánh hoa rơi và rồi tất cả đi vào lãng quên. Những cuộc vui và những thành quả đạt được tột bực trên thế gian cũng chỉ là trò biểu diễn nhất thời. Kẻ đắm mình trong dục lạc than van khóc hận khi dục lạc không còn và càng chịu nhiều đau khổ. Vì lẽ không có gì trường tồn trên thế gian này nên con người không nên hy vọng đạt được hạnh phúc tối đa của nó. Lời khuyên của Đức Phật là hãy suy gẫm sự tạm bợ của trần gian và những dạng thức bất toại nguyện (khổ) tiềm ẩn trong mọi biểu hiện cuộc sống trần ai.
Thế giới nầy, mặt trời, mặt trăng, dải ngân hà, chính cả vũ trụ, tất cả đều bị chi phối bởi luật bất di bất dịch : Vô thường.
Nếu chúng ta vâng theo lời dạy của Đức Phật, chúng ta sẽ không phiền não trước viễn cảnh chia lìa người thân, tài sản và của cải. Điều này không có nghĩa là người Phật tử không được nếm vui trần tục. Chúng ta phải theo con đường Trung Đạo. Chúng ta vẫn có thể có những thú vui vừa phải mà không vi phạm nguyên tắc luân lý, không trở thành nô lệ cho các thú vui này và hiểu thấu thú vui này phải không gây trở ngại việc phát triển tinh thần.
Chồng vợ, cha mẹ con cái phát triển mạnh mẽ dây thân ái với nhau. Điều này hoàn toàn tự nhiên. Điều này quan trọng cho họ để sống cuộc đời trên trần thế. Tuy nhiên đồng thời chúng ta phải đương đầu với sự thực là chính những luyến ái đó là nguồn gốc của đau thương và khổ não có thể đưa đến sự tự tử nữa. Để loại bỏ điều khó khăn này, luyến ái được chấp nhận nhưng với hiểu biết. Bổn phận của một người là phát triển thương yêu bởi biết rằng ngày nào đó sẽ có chia lìa. Dưới điều kiện như vậy, con người sẽ biết làm sao để đương đầu với trường hợp chia ly khi nó xảy đến. Một người tránh được nóng giận và tự tử vì đầu óc người đó đã được huấn luyện.
Cái mà Đức Phật đóng góp cho nhân loại là an ủi, giúp chúng ta hiểu đượctất cả những khó khăn có thể xảy ra và làm sao để đương đầu với các khó khăn ấy. Cầu nguyện sức mạnh bên ngoài có thể là giải pháp nhất thời cho ta thấy an lạc trong thời gian ngắn ngủi. Nhưng chẳng khác chúng ta nhức đầu mà chỉ uống có hai viên thuốc giảm đau. Sau ba tiếng cơn đau lại tái phát, vì nhức đầu không phải là bệnh mà là triệu chứng mà thôi. Thuôc giảm đau không phải là thuốc để trị bệnh. Những ai hiểu được là có khả năng làm hết nguyên nhân của khổ đau. Giáo lý của Đức Phật cho chúng ta sự hiểu biết đó.
KẾT LUẬNTôi hy vọng rằng việc trình bày này khiến quí vị thấy được Phật Giáo đứng tách rời như một hệ thống tôn giáo thực hành. Đức Phật là một bậc Thầy vĩ đại, đem lợi ích và là một lương y. Ngài luôn nhắc nhở các tín đồ mục đích của Ngài là giảng giải cho con người biết bản chất của khổ đau và bất toại nguyện như thế nào và phải làm sao để đoạn trừ nó. Ngài hứa hẹn hạnh phúc trên đời này cho những ai theo phương pháp cao thượng của Ngài bằng quyết tâm và quán triệt thích đáng.
Thật không may vì trong nhiều tôn giáo hiện hữu, các tín đồ không được khích lệ để kính trọng các bậc lãnh đạo tôn giáo khác. Họ lại được răn dạy là nếu làm như vậy, họ đã phạm tội, và tệ hơn nữa, là họ phải xuống địa ngục vì tội lỗi đó. Đức Phật dạy rõ ràng cho chúng ta là phải kính trọng những ai đáng kính trọng. Mặc dù chúng ta có thể không đồng ý với một vài quan điểm mà họ nắm giữ, nếu họ thành thực cố gắng để phục vụ và nâng cao nhân loại, chúng ta phải kính trọng họ vì lẽ đó. Đạo nào cũng có người cao quí.
Đức Phật không khuyên các đệ tử của Ngài đi cải đạo dân chúng, những người mà (nếu không theo ) sẽ đoạ địa ngục. Đúng hơn là chỉ cho họ thấy trên thế giới này cái gì phải, cái gì trái, cái gì tốt và cái gì không tốt, khuyến khích họ đến xem để tự nhận xét sự thật mà Ngài dạy.
Ngài và tín đồ của Ngài không chỉ trích những người khác đạo là những người “phạm tội” bị đày đoạ vĩnh viễn nơi địa ngục. Theo người Phật tử, cả đến những người “không đạo” nhưng sống trong phẩm hạnh có lòng từ bi và thiện chí có thể “lên thiên đường”, đó là chứng được hạnh phúc.
Khi chúng ta được mãn nguyện, chúng ta ở “thiên đường”. Khi chúng ta đau đớn về thể xác và tinh thần, chúng ta ở “địa ngục”. Chẳng cần phải chờ đến lúc chết mới chứng nghiệm được những trạng thái đó.
Phật Giáo là độc nhất vô nhị vì lẽ chúng ta có thể nói đến “tôn giáo” này cả đến khi không cần nhắc đến thiên đường hay địa ngục. Tôi tin là các người khác không thể nói đến tôn giáo theo cách nầy.
Thông điệp thiện chí và hiểu biết của Đức Phật cho tất cả chúng sanh là một thông điệp vũ trụ. Thế giới ngày nay cần thông điệp cao thượng này hơn bao giờ hết trong lịch sử nhân loại.
Phật Giáo là một tôn giáo duy nhất trình bày chân lý tuyệt đối chỉ dạy con người làm sao sống hoà bình, hoà hợp với chúng sanh đồng loại.
______________
CHÚ THÍCH CỦA DỊCH GIẢ(1)ALDOUS LEONARD HUXLEY : (1894-1963). Một trong những tiểu thuyết gia hàng đầu của thế kỷ 20. Những tác phẩm chính của ông gồm có : Thế Giới Mới Lộng Lẫy, ấn hành năm 1932; Triết Lý Vĩnh Cửu, xuất bản năm 1945 và Những Cửa Ngõ Của Tri Giác, phát hành năm 1954.(2)SARVEPALLI RADHAKRISNAN : Sanh 5 tháng 9 năm 1888 tại Tiruttani, tiểu bang Andhara Pradesh (Đông Nam Ấn độ). Là nhà giáo dục kiêm chính trị gia Ấn. Ông làm giáo sư dạy triết tại Đại học Calcutta từ năm 1921 đến 1931; giáo sư dạy môn tôn giáo và đạo đức Đông phương tại Đại học Oxford (Anh quốc) từ năm 1936 đến năm 1952. Ông giữ chức Viện trưởng Đại học Delhi (thủ đô Ấn) từ năm 1953 đến 1962 và được bầu làm Tổng thống Ấn độ từ năm 1962 đến 1967. Ông qua đời tại Madras (Nam Ấn) ngày 16 tháng 4 năm 1975. Những tác phẩm chính của ông : Triết học Ấn độ, 2 cuốn xuất bản năm 1923-1927; Triết lý Áo Nghĩa Thư ấn hành năm 1924; Tôn giáo Đông Phương và Tư Tưởng Tây Phương.(3)HERBERT GEORGE WELLS : (1866-1946). Là sử gia, nhà văn và cải cách xã hội nước Anh. Năm 1893 ông dạy môn khoa học và làm ký giả. Những tác phẩm của ông gồm có các truyện khoa học giả tưởng : Máy Thời Gian, ấn hành 1895; Con Người Vô Hình, 1897. Cuốnsách nổi tiếng của ông là Lịch Sử Đại Cương xuất bản năm 1920.(4)IMMANUEL KANT : (1724-1804). Triết học gia Đức. Các tác phẩm của ông nhằm vào việc phân tích lý thuyết, lẽ phải tinh thần và khả năng xét đoán của con người. Ông đã gây ảnh hưởng rộng lớn đến các phong trào hoạt động trí thức của thế kỷ 19 và 20.(5)ALFRED NORTH WHITEHEAD : (1861-1947). Toán học gia và Triết gia Anh quốc. Ông tập trung vào toán hợp lý (lô gíc), chứng minh tất cả toán nguồn gốc do một số khái niệm hợp lý. Ông cũng phát minh một hệ thống triết học toàn diện đi đôi với khoa học hiện đại.(6)ANATOLE FRANCE : (1824-1924). Tiểu thuyết gia và Triết gia Pháp. Các tác phẩm của ông thể hiện cả về mặt văn chương trong sáng lẫn phản ánh một sự châm biếm sâu sắc. Ông tượng trưng bộ mặt chủ yếu về truyền thống tự do nhân bản của văn chương Pháp.(7)JAWAHARLAL NEHRU : (1889-1964). Nhà lãnh đạo quốc gia vĩ đại Ấn, tranh đấu độc lập và cải cách xã hội, là vị Thủ tướng đầu tiên của Ấn độ độc lập, giữ chức vụ này đến khi mất.(8)ALBERT EINSTEIN : (1879-1955). Nhà Vật lý học Hoa kỳ sanh tại Ulm (Đức). Năm 15 tuổi, ông nhập tịch Thụy Sĩ. Làm giáo sư Đại học Zurich (Thụy sĩ) năm 1909-1911, Đại học Prague (Tiệp khắc) 1911-1912; Đại học Bá linh (Đức) năm 1914. Năm 1933, ông sang Hoa kỳ, được mời làm hội viên Viện Nghiên Cứu Tiến Bộ Princeton (New Jersey). Năm 1940, ông nhập tịch, trở thành công dân Mỹ. Tác giả thuyết Tương Đối, phổ biến nguyên nhân tổng quát lý thuyết này năm 1916. Được tặng Nobel Vật Lý năm 1921. Tác giả cuốn Ý Nghĩa về Thuyết Tương Đối xuất bản năm 1923 và cuốn Những Nhà Kiến Tạo Vũ Trụ ấn hành năm 1932 v.v(9)RHYS DAVIDS (1842-1922). Sanh tại Colchester, Anh quốc. Tiến sĩ Davids là một học giả nghiên cứu đặc biệt về tiếng Pali và Phật Giáo. Các tác phẩm của ông gồm có : Phật Giáo, xuất bản năm 1978. Phật Giáo từ tiếng Pali, ấn hành 1871, Phật Giáo tại Ấn, xuất bản 1903, và Phật Giáo Nguyên Thủy, xuất bản 1908.(10)EDWIN ARNOLD (1832-1904). Nhà thơ và ký giả nước Anh. Tốt nghiệp Đại học King College ở Luân đôn. Viện trưởng viện Đại học Deccan, Bombay từ năm 1856 đến 1861; Chủ bút báo Daily Telegraph phát hành tại Luân đôn từ 1873-1901; Tác giả tập thơ nổi tiếng “Ánh sáng Á châu” diễn tả cuộc đời và giáo lý của Đức Phật, xuất bản năm 1879.