Bùi Viện chánh quán làng Trình Phố, tỉnh Thái Bình, sinh năm 1839, mất năm 1878 lúc mới 39 tuổi. Theo Gia Phả họ Bùi, ông là con trưởng ông Bùi Ngọc (tức Việp), đỗ Tú Tài năm Giáp Tí (1864), đỗ Cử Nhân năm Mậu Thìn (1868) [28] nhưng không đỗ Tiến Sĩ. Nhiều sách nói rằng khi vào Huế thi Hội, ông đã tập văn và học ông Vũ Duy Thanh (1806-1861) (tức ông Bảng Kim Bồng) nhưng có lẽ chi tiết này không chính xác vì Vũ Duy Thanh đã mất từ bảy năm trước khi Bùi Viện vào đến kinh đô[29]. Tuy nhiên chúng ta không thể không nhìn thấy sự tương đồng giữa họ Vũ và họ Bùi vì cả hai người đều là những nhà nho chuộng thực dụng và nhìn thấy một điểm căn bản là phải đặt lại vai trò của hải quân trong công tác cải cách và canh tân.
Trong bài sớ viết dang dở trước khi từ trần, Vũ Duy Thanh đã tâu:
Hình thế nước ta chỉ có chiều dài, không có chiều rộng. Trừ hai xứ Nam, Bắc kỳ rộng hơn một chút, còn quãng giữa từ Thanh Hóa trở vào, từ Bình Thuận trở ra, mặt trông ra biển, lưng tựa vào núi rừng, mỗi tỉnh ở một đoạn. Nếu thốt nhiên tỉnh nào gặp biến, bị cắt đường giao thông, việc tiếp tế quân lương tức thì bị ngăn trở. Vả suốt từ Bắc đến Nam chạy dài theo mé biển, phỏng như có nước ngoài dòm nom, thì bất cứ chỗ nào họ cũng có thể lọt vào được. Như vậy, việc phòng giữ mặt biển rất quan trọng. Điều cần là phải kíp luyện tập thủy quân, hậu đãi binh lính và giao quyền hành cho các quan võ để họ có uy tín mà điều khiển …[30]
Sau hai khoa Hội thí không đỗ năm 1868, 1869, Bùi Viện ở lại kinh đô và có cơ hội quen biết với một số nhà nho thức thời như Nguyễn Tư Giản (Hồng Lô Tự Khanh vừa đi sứ sang Tàu về), Nguyễn Trường Tộ, Đặng Đức Thuận … là nhóm sĩ phu có chiều hướng cải cách được gọi là Tân Đảng.[31] Tháng 4 năm 1871, ông theo Lê Tuấn ra bắc đánh dẹp giặc khách Cờ Đen, Cờ Vàng là dư đảng của Thái Bình Thiên Quốc và lập được nhiều chiến công. Sau đó ông lại xuống Nam Định giúp cho Doãn Uẩn trong công tác xây dựng cửa bể Ninh Hải (tức Hải Phòng ngày nay).
Tháng 4 năm Quí Dậu[32] (1873), vua Tự Đức được các quan hộ giá ra chơi cửa Thuận An. Trong khi vua đang ngự lãm thì có 9 chiếc tàu buồm vận tải của nha kinh lược Bắc Kỳ chở tiền tài và quân lính vào Huế. Đột nhiên từ ngoài khơi hai chiếc tàu ô tiến đến chĩa súng bắn sang, ta thua chạy, hai chiếc tàu bị giặc cướp mất. Các võ quan ta bắn thần công ra nhưng không trúng được phát nào, bọn giặc bắn giết chán chê rồi lại giong thuyền chạy mất. Bùi Viện đã làm một bài thơ kể rõ việc này, đồng thời chế nhạo sự hèn yếu của thủy binh nước ta.
Biến cố đó ít nhiều khiến cho vua ta nhận chân được sự hủ bại của triều đình và có lẽ vì thế đã chuẩn y đề nghị của Bùi Viện xin được xuất dương xem xét tình hình và tìm cách cầu viện. Một điểm đáng đặt thành vấn đề là Phan Trần Chúc (sau này được tác giả Bảo Vân nhắc lại) đã miêu tả là Bùi Viện “đã phải tự lái lấy một chiếc thuyền nan hết sức mỏng mảnh, trên những ngọn sóng tầy đình, chở ông ra ngoài bể rộng”[33]. Bỏ qua những đoạn thêm mắm thêm muối của nhà văn họ Phan như
“từ biệt các liêu hữu, Bùi Viện cho giương buồm về phía Bắc, vào một buổi sáng quang đãng mà mặt trời mới mọc trồi lên mặt nước gợn sóng, không khác một cái đĩa ngọc lớn để nghiêng trên tấm thảm hồng” (tr. 45)
hay
“Sau mươi ngày lênh đênh trên mặt bể, mười ngày đêm vật lộn với gió bão phải đè lên những ngọn sóng to tầy đình kế tiếp nhau, nhô lên rồi lại đổ xuống như cố ý hành hạ chiếc thuyền mỏng mảnh mà tay ông chèo lái, Bùi Viện trông xa đã thấy đất liền, khoảng đất rọi một tia sáng vui mừng trong khối óc đầy hi vọng của ông” (tr. 47)
chúng ta khó có thể tin tưởng một sứ bộ được cử ra ngoại quốc được đích thân nhà vua tiễn đi lại sơ sài đến thế.
Những năm tháng Bùi Viện đi sứ cũng không rõ rệt. Nếu đúng như Phan Trần Chúc viết, thời gian ông ở Mỹ kể cả hành trình và chờ đợi cũng phải hơn 1 năm, thêm đi lại từ Việt Nam tới Hương Cảng, Nhật Bản, vừa đi vừa về cũng phải cả năm nữa, có thể tin rằng ít nhất khi trở về Huế phải vào năm 1875. Việc ông sang gặp Tổng Thống Grant nhưng không thành công vì không có quốc thư cũng hơi vô lý nếu thực sự vua Tự Đức đã cử ông đi sứ thì ắt phải giao cho ông một giấy tờ gì để làm bằng, đồng thời mang theo những phẩm vật trao đổi và thường thường bao giờ cũng có Chánh Sứ, Phó Sứ và tùy tòng chứ không thể chỉ chơ vơ một người.
Một số tác giả lại chép rằng Bùi Viện chỉ được cử đi Hương Cảng để liên lạc với người Anh vì triều đình biết rằng Anh và Pháp hai bên có nhiều xung đột trong quá khứ. Việc ông ra nước ngoài có lẽ chỉ được coi như một công tác liên lạc và thăm dò, hoặc có khi ông được nghe người khác kể lại cảnh trí nước người mà tò mò nổi máu phiêu lưu nên tự ý ra đi không chừng.
Tuy nhiên khi tới Trung Hoa, ông đã nhận ra được rằng người Anh cũng thực dân không kém, nếu không nói rằng còn hơn người Pháp nên rất thất vọng. Trong thời gian lưu lại đây, ông đã kết giao được với viên lãnh sự Mỹ (?)[34] và có ý sang Hoa Kỳ cầu viện. Ông lập tức quay trở về trình lên vua Tự Đức nhưng nhà vua không mấy sốt sắng với đề nghị này nên ông đã mạo quốc thư và tự chế mũ áo hàng tam phẩm rồi qua Hương Cảng nhờ người bạn Mỹ đưa về gặp Tổng Thống Grant.[35] Tổng Thống Grant bằng lòng giúp nhưng Bùi Viện khi đó lại sợ tội đã tự quyền và mạo quốc thư nên xin được về tâu lại. Đến khi vua Tự Đức bằng lòng cử ông làm chánh sứ thì chính tình nước Mỹ đã thay đổi.[36]
Câu chuyện này xem ra có lý hơn và cũng phù hợp với thời gian ba năm (từ 1873 đến 1876), trước khi ông được chỉ định để tổ chức hải quân. Như vậy có thể ông chỉ qua Mỹ một lần nhưng đi Hương Cảng đến ba lần. Chúng ta có thể đưa ra một vài nghi vấn:
- Ông không có phái đoàn chính thức như một phái bộ quốc gia,
- Ông không đủ tư cách để đại diện triều đình (tuy đỗ Cử Nhân, Bùi Viện chưa giữ một chức vụ gì và khi muốn liên lạc với người Mỹ, ông phải giả mạo quốc thư và mũ áo tam phẩm – một vị trí không mấy gì làm cao). Cũng có thể vì thấy ông xuềnh xoàng quá nên chính phủ Mỹ đã từ chối khéo bằng cách yêu cầu ông trở về trình bày với triều đình để đưa một phái đoàn qua chính thức.
Tuy nhiên chuyện đó không quan trọng ngoài việc ông là người Việt Nam đầu tiên đặt chân lên châu Mỹ ở thế kỷ 19.