Thế là hai chiếc xe đò cũ rong ruổi theo nhau chở chúng tôi đến trại tị nạn Leamsing. Len lỏi qua những phố xá sầm uất, băng ngang những đồng ruộng phì nhiêu, hai con trâu máy càng lúc càng thở hồng hộc cố sức bò lên con đường dốc gồ ghề dẫn đến ngọn đồi cheo leo nằm dọc theo ven biển. Bên đường cây cỏ khô héo xác xơ, lèo tèo vài căn nhà lá trông trơ trọi và khôi hài như những người nộm đang khom mình giữa ruộng.
Cuộc hành trình hơn năm tiếng vòng qua những dãy đồi lởm chởm đất đá, giữa đám bụi đất mù mịt thỉnh thoảng xe lọt xuống ổ gà to tướng làm mọi người đang ngủ gà ngủ gật một phen hoảng vía. Cũng đôi khi có những nhánh cây đưa hẳn ra ngoài làm xe phải lách thật nhanh để tránh khiến mọi người bị dồn lại chồng cả lên nhau. Nhiều người mệt mỏi chẳng buồn há miệng nhưng một số thanh niên thiếu nữ hầu như quên hẳn mọi lo phiền vừa qua thừa dịp trêu ghẹo cười đùa nghiêng ngửa và nằm cả vào lòng nhau.
Tôi ngồi thu hẹp ở một góc sau lưng tài xế; ngang bên kia, Nguyện ôm Trường ngủ vùi. Từ lúc được đám thanh niên cõng từ ngoài bãi về cũng là lúc Nguyện làm mặt lạ với tôi. Vì tự ái nên tôi cố giữ gương mặt lạnh như tiền nhưng trong thâm tâm vẫn luôn tìm cách tạo cơ hội cho Nguyện đến gần làm lành. Tôi nghĩ trước một biến cố quá kinh khiếp thì người đàn ông ích kỷ hẹp hòi như Nguyện khó có thể bình thản chấp nhận ngay được. Nhưng càng có nhiều cơ hội, Nguyện càng làm eo và càng tìm cách hờ hững xa lánh tôi. Ngay cả đến bé Trường, Nguyện cũng muốn giữ độc quyền làm như chỉ có Nguyện mới xứng đáng làm cha của nó. Tại sao Nguyện không nghĩ rằng thằng bé tuy mang giòng máu của bố nhưng hình hài lại chính do tôi cưu mang, tác tạo? Vì vậy đâu phải chỉ có Nguyện mà tôi cũng có quyền thương yêu, ôm ấp cũng như có bổn phận và trách nhiệm phải uốn nắn thằng bé ngay từ hồi nhỏ. Tôi không muốn con tôi trở thành Nguyện thứ hai, thành thứ công tử sống thừa, con cháu của ông bà cai Hòa. Thương con, tôi không thể ôm nó vào lòng như Nguyện mà phải dọn sẵn cho nó một tương lai, một tương lai hoàn toàn không có hình ảnh heo gà chó mèo sống trà trộn chung với người. Ý tưởng chợt đến khiến tôi cười cay đắng. Ngày này sáu năm về trước tôi cũng đã từng nói như vậy để rồi nhu nhược yếu hèn và tình thương thể hiện không đúng chỗ đã giết chết tuổi hoa mộng của mình. Cũng có thể cả một cái xã hội nghèo đói trọng tiền khinh nghĩa đã cùng toa rập đè bẹp những người đàn bà với kiếp sống dở chết dở như tôi...
... Sáu năm trước cũng trên con đường gồ ghề cây cối mọc um tùm hai bên như những bóng ma trơi đuổi theo từng bước khi tôi vừa thoát chạy ra khỏi nhà. Tôi nhớ, nhớ rất rõ sau khi bị mẹ và chồng đánh, nhớ mùi xú uế xông ra kịp lúc đã cứu tôi thoát khỏi đám đông và bị vất vào phòng như con chó chết. Nỗi oán thù bốc lên tận đầu khiến tôi quên hết họ hàng giòng tộc, quên bố, quên mẹ, quên Hằng dù nó đã chết mà chỉ nhớ có một mầm sống vừa tiếp nhận hơi thở đang nằm trong bụng. Không thể sống suốt đời với cuộc sống nhục nhã thế này. Có con tôi phải sống khác. Tôi phải sống với trách nhiệm, nuôi dưỡng và bảo vệ nó.
Đêm xuống chờ cả nhà ngủ, tôi lén ôm quần áo đi tắm rồi mở cổng rào chạy trốn. Con đường từ nhà đến Xóm Củi dài ba cây số, về đêm không một bóng người qua lại ngoại trừ những con chó đi hoang thỉnh thoảng đuổi nhau rầm rập giữa đường. Chúng sủa, chúng cắn và chạy từng bầy như muốn biểu dương lực lượng hùng hậu với những chị chó cái còn bị xích trong rào. Ban đêm đời sống hầu như thích hợp với các loài vật; chúng hồn nhiên đùa giỡn với cây cỏ, say sưa tắm mình dưới trăng, reo hò với gió và bóng tối hầu như cũng đồng lõa với những thú vui bản năng.
Vài con mèo nằm trên mái nhà cất tiếng kêu ngao ngao giọng khản đặc như chế nhạo hình hài thô bỉ tất tưởi và lạ lẫm của tôi. Tôi liếc nhanh xuống khoảng bụng vừa đủ căng chật chiếc áo bà ba lòng tự hỏi đó có phải là kết quả của ái ân? Nếu có tại sao tôi lại trốn chạy người tác tạo ra nó? Còn không, với thể xác không rung động tại sao đứa con lại được tạo hình? Đọc trong sách động vật hay thực vật cũng đều sinh sản giống nhau, có nghĩa là không cần sự rung động. Phấn của hoa cái gặp hoa đực sẽ tự động đơm bông kết trái và con người, trai gái ăn nằm không cần yêu thương đứa con vẫn có thể thành hình. Nếu quả thực như vậy thì đứa con trong bụng của những người mẹ chắc gì đã là chứng tích của hạnh phúc?
Chiếc bụng vừa u lên chứa giọt máu của Nguyện ngoài ý muốn, nó còn nhỏ, nhỏ lắm. Tội nghiệp con tôi, dù trai hay gái nó cũng không có những may mắn hoặc sung sướng như mấy đứa trẻ khác. Bỏ nhà ra đi chưa chắc tôi có thể tạo được cho con tôi một cuộc sống tinh thần khá hơn trong khi vật chất lại phải bôn ba xuôi ngược và điều thiệt hại nhất cho những đứa trẻ ra đời có mẹ mà không có cha. Trong xã hội này, giấy tờ khai sinh con cái mang họ mẹ là những đứa con hoang. Con hoang đều bị đời bạc đãi khinh miệt và những trẻ cùng tuổi xô đẩy xa lánh. Tương lai của con tôi bi thảm như thế nhưng ngược lại nếu bố nó là Nguyện thì cuộc đời nó sẽ ra sao? Tôi hoang mang lo sợ nhưng niềm đau thân xác vẫn mãnh liệt hơn cái viễn ảnh có bố hoặc không có bố. Dù thế nào cũng phải đi, tôi không thể mãi làm con nô lệ...
Tôi đến nhà Thanh Huyền trời đã gần sáng với áo quần dính đầy bụi và ướt đẫm mồ hôi. Từ Xóm Củi xuống nhà nó trên mười cây số, không dám gọi cyclo vì sợ lỡ nó không có tiền trả nên tôi cố gắng đi cho hết quãng đường dù biết là quá dài. Dưới ánh điện mờ hoặc khi băng qua những khúc đường tối, tôi cố men theo lề cắm cúi bước nhanh đốt ngắn thì giờ, thời gian đủ để tôi kiểm điểm lại tài hèn sức mọn của mình. Vẫn chưa có một tính toán nào nuôi dưỡng bản thân và dành dụm chút đỉnh tiền trước khi sanh nở.
- Mày điên quá Phượng ạ! Đi như vậy hư thai thì sao? Huyền lo lắng nhìn tôi.
- Càng tốt, chết con chết luôn cả mẹ.
- Đã vậy sao không nhào ra đường cho xe cán chết? Thật là hết khôn dồn đến dại...
Huyền đang chửi tôi. Mặc kệ, ai chửi thì cũng chỉ đến thế!
- Mày có gì cho tao ăn không?
Huyền đứng lên chiên quả trứng gà và hâm nóng tô cơm nguội đưa cho tôi:
- Bữa qua tao "trúng mánh" thành ra mua mấy ổ bánh mì thịt ăn nên cơm mới dư, gặp như mọi hôm chỉ có nước nhịn đói.
Mặc nó lải nhải giải thích, tôi lùa đũa cơm vào miệng. Ngon. Cả đêm tiêu phí bao nhiêu năng lực, giờ ăn vào để lấy sức trở lại.
- Tao phải ăn hai tô nữa mới đủ no. Lấy thêm đi Huyền.
- Sư khỉ, tao đã bảo hết rồi, chờ trưa nấu một lượt cho đỡ tốn.
Cơm nóng trôi xuống bao tử làm ấm cả ruột gan, bây giờ lời đay nghiến của nó mới lọt vào tai tôi.
- Mày sống no ấm đâu cần biết đến bạn bè khốn đốn.
- Ừ, no ấm lắm. No đến nỗi cái bụng ễnh tướng.
- Tao chả đùa đâu. Cả mấy tháng nay má tao đi theo bạn bè buôn huệ dưới lục tỉnh. Huyền tiếp tục than thở.
- Chuyện động trời. Tao không tin má mày dám bước chân ra khỏi nhà.
- Muốn ăn phải lăn vào bếp. Từ ngày dọn xuống chuồng chim cũng là ngày bị cắt luôn lương thực. Hai chị tao cũng khốn đốn lo cho gia đình họ còn chưa xong lấy đâu mà giúp đỡ. Mày xem nhà tao cả ba người lớn còn không lo nổi mà.
- Thằng em mày to xác thế mà cũng đành bó tay?
- Cả nước bó tay thì đúng hơn. Chiến tranh càng lúc càng lan rộng, dân chúng chạy loạn tứ tán chẳng ai còn thiết làm ăn. Thằng em tao khủng hoảng vì thời cuộc nên nghỉ học nửa chừng tạm thời mua đồng, nhôm, ve chai bán lại cho tụi chệt kiếm tiềm. Tao ở nhà mua sỉ bao ni lông của tụi con nít mang đến.
- Ừ, tụi nhóc di tản từ miền trung vào trong này không có việc làm nên lê la ở những cống rãnh hoặc bới trong những đống rác tanh tưởi lượm giấy cũ và bao ni lông. Tao mua lại rồi rửa sạch phơi khô mang vào Chợ Lớn bán cho hãng.
Tôi nhìn Huyền bằng ánh mắt nghi hoặc.
- Mày không tin là đúng, rúc trong chĩnh gạo còn biết gì đến trời đất chung quanh. Giặc đã chiếm gần hết những tỉnh miền trung làm dân chúng di tản vào trong nam rần rần. Nghe họ đồn ông Thiệu đã cắt đất nhường cho họ chẳng biết có đúng thế không nhưng thiên hạ xôn xao và mình càng lúc càng đói thì cũng đâm hoảng. Dân miền quê đâu còn lòng dạ trồng trọt cày cấy cũng đổ xô lên Sài Gòn lánh nạn. Họ làm như gần dinh độc lập là sẽ an toàn nên đã đói lại càng đói thêm. Mày xem chung quanh đây toàn là những kẻ đang chết đói chết khát. Chết đến nơi rồi Phượng ạ!
Huyền nói một thôi một hồi như kẻ rành rẽ hiểu biết mọi chuyện thế sự rồi bỗng ngừng lại vài giây nhìn tôi:
- Thằng Nguyện đối xử tệ bạc hay sao mà mày phải trốn nhà đi vậy?
- Chuyện riêng giữa tao và cha mẹ chồng.
Tôi không dám kể tất cả ngọn ngành dẫu Huyền là bạn thân, dù sao chuyện kể xấu chồng con vẫn là một điều khó nói và khó nghe.
- Tưởng gì chứ cái đó là lẽ thường, đứa nào lấy chồng mà chẳng phải như vậy. Mày có ngon thì dọn nhà ra riêng...
Nó thao thao mang mấy cái triết lý cùn ra nhai cho đỡ buồn, hình như đã từ lâu nó không được nói nên khi nói mắt nó long lên sự cương quyết khác thường. Mới hơn nửa năm không gặp mà nó thay đổi khá nhiều, cằn cỗi, già dặn và cũng chững chạc hơn xưa.
- Sao mày trông bệ rạc vậy? Trời đất ơi... nó la lên khi nhìn kỹ bộ đồ tôi mặc trên người, rách kiểu gì mà ngộ há, lỗ chỗ như hoa rơi, lại còn hai ống quần...
Huyền đảo mắt nhìn từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên và dừng lại ở hai bàn tay chai sần của tôi rồi chợt nín lặng. Sự im lặng khiến cả hai sượng sùng nhìn nhau và tự dưng đâm ra xa lạ khách sáo. Hình như tôi vẫn cố tình giữ khoảng cách bằng sự che dấu.
- Ra nhà sau tắm đi Phượng, chuyện gì cũng để từ từ giải quyết. Còn hoàn cảnh gia đình tao thì mày cũng đã biết, chỉ sợ không chu đáo làm mày thất vọng.
Tôi thất vọng thật, ngay từ lúc vừa nuốt trôi tô cơm khỏi cổ. Nếu nó không trúng mánh như đã nói thì dù có là bạn bè thân thiết cách mấy tôi cũng vẫn phải nhịn đói. Cơm ăn vào thì thấy ngon nhưng sau đó biến thành những viên mật đắng ợ mãi trong miệng. Tôi cầm bộ đồ ngủ của Huyền băng qua khỏi chái sau. Nhà tắm lộ thiên vuông vức ghép ba mặt bằng những lá dừa khô cao gần tới ngực; cửa ra vào là một miếng nhựa kéo ngang dính đầy những ghét. Bên trong vỏn vẹn mỗi một phi nước đã cạn gần xuống đáy và chiếc gáo dừa với cán dài nằm chổng chơ. Dưới chân đứng, nền được kê cao bằng những thanh gỗ dẹp cách khoảng đủ nhìn rõ những con giun đang ngoi mình trong đống bùn nhầy nhụa. Huyền vén màn cửa đổ thêm thùng nước vừa mới kéo từ dưới giếng:
- Sống ở chuồng chim, không điện, không nước máy riết rồi cũng quen. Có chén xà bông bột để ở trên cao lấy mà gội đầu nếu không sợ rụng tóc. Quần áo vò tay không, đập cho sạch rồi phơi ở ngoài dây.
Người tôi bẩn của suốt đêm lội bộ nhưng vẫn không hứng thú gì khi nhìn nhìn phi nước đục ngầu vì cặn bị khuấy lên. Mùi xà bông hăng hắc của vùng Chợ Lớn chế tạo khiến ruột gan tôi lộn lạo buồn nôn. Không khăn tay khăn mặt, không vòi sen vòi nước, con Cám không có nước Cam Lồ rưới xuống để tẩy rửa ô uế mà ngồi xổm dội bằng gáo dừa với màu nước đục nhưng cũng cố gột rửa những trĩu nặng ưu phiền. Thực tế chung quanh và những cực khổ của bạn bè làm tôi chán ngẫm. Thì ra bao năm tháng tôi ngụp lặn trong ảo tưởng chỉ mơ những xa vời trong khi mọi người đang tranh sống. Giá trị của công việc làm đã khiến tôi thấy mình trở thành hèn mọn, ích kỷ. Từ ngày lấy chồng tôi chỉ ngồi âm thầm nguyền rủa bóng tối, than thở cho số kiếp gian truân lận đận, nuốt cay đắng nhịn nhục của cảnh làm dâu, làm vợ trong khi bên ngoài ai cũng ao ước cái địa vị tôi đang có. Sự đói khát làm quên nhân phẩm con người, như tôi, ai có thể nghĩ tôi đã ăn vụng củ khoai, nhón bốc thức ăn khi đang làm bếp? Có ai nghĩ rằng tôi đã cãi nhau để đi đến sự xô sát với chồng vì một miếng ăn, vì đĩa trứng gà của mình bị dằm nát? Và bây giờ chỉ vì chén cơm nguội mà Huyền lên án tôi sống sung sướng trong chĩnh gạo. Vừa lên án đó rồi chợt lại ngậm tăm khi thấy quần áo tôi rách nát nếu không muốn nói là sợ gánh nặng nếu phải đeo. Ôi cái giá trị con người ở chỗ đó. Kẻ đói khổ đánh giá trị con người qua đồng tiền bát gạo mà xã hội này có mấy ai giàu có dư ăn dư mặc như gia đình Nguyện?
Trong chĩnh gạo mốc tôi chỉ cảm nhận mùi vị khó nuốt chứ nào đã thực sự biết khổ là gì. Từ bao lâu tôi cố thắp ánh sáng trong tâm hồn dù với một hy vọng thật hãi sợ là thoát ly nhưng bây giờ sự hy vọng dù mỏng manh đó cũng đã tắt. Nó tắt chỉ vì cái giá trị hạnh phúc cho mỗi con người không phải chỉ có tôi mới thèm muốn. Kẻ giàu mơ ước thêm sự giàu có, sống hưởng thụ sao cho thật sung sướng, khác người. Gia đình Huyền, bà cô, ông chú đang tìm cách chuyển ngân sang ngoại quốc và chờ thế sự đảo lộn là xa chạy cao bay. Các tướng tá biết rõ vận mạng quốc gia nên vàng dồn chặt rương, quần áo chĩnh chạc sẵn sàng lên đường thoát nạn để ách cho những kẻ nghèo thấp cổ bé miệng, để bọn dân ngu ở lại làm tấm bình phong chống giữ mạng sống cho họ. Kẻ nghèo như Huyền, như những người đói khát chỉ cầu miếng ăn. Còn tôi kẻ đang đau khổ chỉ mong sao có được hạnh phúc và an bình trong tâm hồn. Con người ta ai cũng chất chứa đầy tham vọng và tham vọng nào cũng là cái túi không đáy.
- Mày có thể cho tao ở đây phụ rửa bao, nhặt giấy kiếm ngày hai bữa ăn đến khi sanh nở không? Tôi hỏi bằng một giọng thất vọng hoàn toàn.
- Khùng, bao ni lông bữa có bữa không; mày cũng có thể ăn bữa đói bữa no nhưng con mày, cái bào thai này thì không thể được. Nghe lời tao về đi, đừng vì tự ái cỏn con mà đày đọa nó. Gia đình không chứa mày thì chẳng còn chỗ nào có thể dung thân. Nếu ai thoát ly cũng có chỗ nương tựa thì làm gì có cảnh đĩ điếm, xã hội này đã chẳng nảy sinh ra những bất công nghèo đói...
Tôi không trách Huyền, nó thực tế như vậy là đúng. Nhà chỉ có ba người lớn mà không lo nổi miếng ăn thì chứa kẻ bầu bì như tôi còn hơn mang một của nợ. Suốt buổi sáng ngồi phụ nó rửa bao lòng tôi lo ngay ngáy. Từ lâu tôi chỉ đặt hy vọng có mỗi mình nó vì tin rằng những đứa nghèo sẽ dễ thông cảm và dễ sống ai ngờ đồng tiền đi liền ngay vào khúc ruột. Ruột đói đến nỗi anh em cũng còn tị nạnh miếng ăn thì nói gì bạn bè như tôi. Tôi thở dài khi chợt nghĩ đến chuyện tá túc nhà bố, càng không thể được vì bài học vừa xong ở nhà Huyền vẫn chưa làm tôi hết cay đắng. Chẳng ai muốn chứa của nợ trong nhà, nhất là dì Loan...
Buổi trưa Nguyện chở bố đến tìm. Không giải thích và không đợi Nguyện năn nỉ đến lần thứ nhì, tôi ra nhà sau thay bộ quần áo còn đang phơi trên dây trước đôi mắt ngỡ ngàng của bố, của cả hai thì đúng hơn. Tôi không nhận ra bố, ông thầu khoán Hoàng Báu ngày nào. Đã lâu không gặp, hơn ba tháng từ ngày Hằng chết, trông bố hoàn toàn lạ lẫm, vẻ hom hem tiều tụy và đôi mắt trũng sâu đã nói lên cuộc sống nội tâm bị khủng hoảng chưa từng thấy. Phải chăng những lúc gần đây sự xung đột giữa bố và dì xảy ra thường xuyên?
- Con làm gì mà áo quần ra nông nỗi này?
Tôi không trả lời nhưng bố đã đọc được tất cả sự thật qua ánh mắt tôi, một thiếu phụ tơi tả, khổ cực chưa từng thấy, một người vợ khô héo, èo ọt trong bể khổ tình yêu và một đứa con gái mất hẳn niềm vui sống. Nếu bố nhìn ra những lầm lẫn khi lựa chọn dì Loan thì có lẽ bố cũng đã nhìn thấy sự lầm lẫn của mình qua hình ảnh tôi đang mang. Tôi cũng chẳng khác gì bố ngoài trừ chiếc bụng gồ lên như đám trẻ đói khổ ở Phi Châu bụng õng đít beo. Bố nhìn tôi qua đôi mắt mở trừng đầy kinh hoảng trong khi tôi cố cắn răng cho khỏi bật tiếng khóc để bố đừng kết án thêm về hành động của mình xưa kia, một chuyện đã qua rồi.
- Anh Nguyện, để em nó ở trên tôi vài ngày cho tinh thần khuây khỏa rồi tôi bảo ban nó thêm.
Câu nói làm tôi giật mình. Sự khó khăn ép buộc ngày nào không còn, những cứng rắn lễ giáo bố cũng bỏ quên đâu mất. Tại sao bố lại có thể thay đổi một cách lạ lùng thế? Không lẽ bây giờ bố mới biết thương tôi và uy quyền của bố đã lấy lại nên không cần chờ lệnh của dì Loan? Không, tôi không tin, ngàn đời chẳng thể tin. Tôi nhìn lại bố như nghi ngờ ở tai mình và chợt thấy mủi lòng.
- Bố về nghỉ cho khoẻ vì con thấy bố cần tỉnh dưỡng hơn con.
Tôi nói bằng giọng nghẹn ngào vì thấy bố quá sa sút. Nội lương tâm hành hạ cũng đủ giết bố cần gì những lời tôi hờn trách. Sự giận hờn ngấm ngầm hoàn toàn tiêu tan, cho đến ngàn đời tôi vẫn không thể hờn trách bố cho dù bố sai trái mặc lòng. Có phải tôi là người dễ tha thứ hay tình thương đã làm con người trở thành mù loà?
- Phượng, bố có thể giúp gì được cho con?
Lời bố thống thiết như cố níu kéo phần nào sự hối hận đang dày vò. Tôi hạ thấp mắt tránh ánh nhìn đau khổ của bố và chợt lạnh người khi nhìn thấy đôi dép da bố đang mang nơi chân, nó đã mòn vẹt một bên bám đầy bụi đất với những móng dơ lười biếng cắt tỉa. Như vậy đôi giầy đã không còn nằm trên chân bố ít nhất cũng phải trên một tháng. Không đi giầy có nghĩa là bố đã lánh xa chốn ăn chơi, có nghĩa là tình trạng gia đình đã sa sút cùng cực.
- Cái xe hơi bố bán rồi phải không?
Bố không trả lời nhưng hai vai rung lên, chiếc áo sơ mi chao động làm nổi bật những lằn ố vàng và nhăn nhúm của sự lười biếng ủi. Nó cũng chứng tỏ phần nào sự thiếu vén khéo của bàn tay đàn bà. Tự dưng tôi buột miệng:
- Dì còn ở với bố không?
Bố biến hẳn sắc và khuôn mặt khô dúm lại:
- Sao con lại hỏi thế?
Không trả lời cũng như đã trả lời. Muộn rồi bố ơi, vậy là con không còn một cơ hội nào nữa hết. Dì Loan bỏ đi là chứng tích của sự sa sút tột cùng. Bố đã bị phá sản. Tiền mất, tình bố cũng mất, còn con muôn đời sống trong kiếp tôi đòi nô lệ. Xã hội này chỉ có thể nói chuyện với nhau bằng tiền bạc, không có tiền bố chẳng thể dùng lẽ phải buộc họ phải đối xử tốt với con gái mình.
- Phượng, bố thấy con yếu lắm. Cố gắng giữ gìn sức khoẻ.
Tôi muốn khóc quá, tại sao bố không bảo giữ gìn cái bào thai, dù gì nó cũng là cháu ngoại của bố cơ mà. Thì ra bố đã biết cảnh khốn khổ của con, biết mà không tỏ thái độ vì không còn khả năng? Người đàn bà gớm ghê đã lấy hết tiền bạc lại còn tước đoạt luôn cả uy quyền.
- Có phải dì trốn đi với chú Khánh không?
Hỏi xong tôi mới giật mình, còn bố mặt tối xầm lại:
- Con biết trước sao không nói cho bố?
Nếu bố biết từ dạo ấy, đời tôi chưa chắc đã thay đổi. Khi con người lụy tình bị phản bội, họ sẽ cố tìm đủ mọi cách chinh phục lại, một phần cũng để thỏa lòng tự ái. Muốn chinh phục người vợ sống bằng tiền chỉ mỗi cách gả tôi cho Nguyện hoặc một Nguyện thứ hai để đạt cùng mục đích. Bố tôi vừa học xong bài học đời, tiền học phí quá mắc nhưng bù lại đổi được cuộc sống bình lặng và có ý nghĩa hơn.
- Tuần tới bố phải dọn nhà về quê vì trước khi đi dì con mang giấy tờ căn nhà, vật cuối cùng cầm bán nốt. Không muốn vương vấn vì kỷ niệm với lại không tiền chuộc nên đành để họ lấy thôi.
Tôi đứng nhìn bố chết trân. Vở kịch làm vợ của dì đã hạ màn. Bẩy năm chung sống làm mưa làm gió, giờ gió đã lặng mưa đã ngừng.
- Con chúc mừng cho bố, cắt bỏ cánh tay đang mâng mủ tuy có đau đớn thật nhưng vẫn còn hơn để nó chạy độc hết vào người.
Tôi ôm bố đau xót cho người, cho mình và cho cảnh chia ly. Lúc ấy Nguyện nửa sượng sùng với bố vợ vì tôi quá rách nát tả tơi, nửa bàng hoàng vì sự sa sút mau chóng của một nhà thầu khoán vang bóng một thời. Và cũng hình như đang trầm ngâm suy nghĩ để sắp đặt một kế hoạch nói dối vĩ đại khi dẫn tôi về nhà trình diện cha mẹ. Dù gì tôi cũng phải về..
Xe dừng lại trên một bãi đất cao và trống, phía trong là hàng rào kẽm gai bao bọc những căn nhà lá mọc lởm chởm cái cao cái thấp nằm san sát dưới lòng thung lũng. Hai bên hai dốc đồi sừng sững như hai hung thần kênh kiệu lúc nào cũng chỉ muốn đè bẹp mạng sống con người. Cổng chính có lẽ là nơi chúng tôi đang đứng vì sợi xích sắt vòng qua hai lần thật kiên cố và ghê rợn chẳng khác gì nhốt những tù nhân chính trị. Nghe máy gọi có thêm một toán dân tị nạn đến tạm cư, mọi người trong trại ùa chạy ra dáo dác tìm người quen.
Trời đang choạng vạng tối nhưng đủ soi rõ từng khuôn mặt rạng rỡ nhìn qua dây rào kẽm. Tất cả đều nhốn nháo tuy vẫn đứng trong khoảng cách đã được ấn định rõ rệt. Tôi đưa mắt nhìn họ, xen lẫn những thân mình trần đen đủi của đám thanh niên đang sức ăn sức sống là đàn bà và đàn ông đứng tuổi với quần áo luộm thuộm đủ màu sắc của mọi nước viện trợ. Họ đứng hàng hai dọc theo lối vào như dàn thành một cổng chào vinh dự. Mà vinh dự thật, những kẻ đến đây là những kẻ sống sót từ cõi chết, người thoát trở về khi nào cũng thấy sự sống của mình giá trị và cần thiết.
Sau nửa giờ kiểm điểm và lập thủ tục nhập trại, cánh cổng sắt được mở ra. Tiếng kéo rít nặng nề nghiến trên những thanh sắt rỉ nghe rợn người như một đe dọa. Mặc, dù tụi lính Thái có đối xử tàn nhẫn với người dân tị nạn thế nào thì vẫn còn tốt lành hơn lũ cướp biển. Bằng chứng gần tuần lễ ở Rangsit bọn cảnh sát quá tốt, hơn cả sự tưởng tượng của chúng tôi. Ở đâu mà chẳng vậy, dân có người nọ người kia, lính cũng có trăm ngàn thứ lính, có người tốt kẻ xấu, có kẻ cướp bóc lại có những người chuyên bố thí.
Đèn trong đảo đã bật sáng, chúng tôi hàng một tiến vào trại giữa tiếng cười nói thăm hỏi niềm nở của mọi người. Vài người nhận ra bạn bè, quen biết kêu lên mừng rỡ, ôm nhau chảy cả nước mắt. Con đường đá từng bậc gồ ghề biến thành con đường hội ngộ vang đầy tiếng cười nói vui vẻ đưa chúng tôi xuống tận đình để ngủ qua đêm. Đình chứa được khoảng hơn một trăm người, là nơi hội họp hoặc chỗ tạm ở cho những người vừa nhập trại ngày đầu. Đình và nhà thờ tuy không nằm gần nhau nhưng khoảng sân rộng, gian nhà lớn và nóc tôn cao đã tách biệt tất cả mọi vật chung quanh. Sát cạnh trung tâm nhà thờ là dẫy nhà lá, vách phên cũ kỹ dựng lên cách đây đã ba năm. Lan dần ra chung quanh và ăn đến tận chân đồi, từng căn nhà mới nằm cách khoảng trông khang trang, sạch sẽ và thoáng khí hơn nhưng chỉ dành cho bọn thanh niên trai tráng ở, vừa để canh phòng tụi Thái đen đêm đêm hay lẻn vào bắt cóc con gái đem vô rừng hãm hiếp, vừa làm hàng rào kiên cố chận bắt bọn trộm cướp không cho thoát lên rừng.
Dân tị nạn ở đây, đầu năm 1980, trên dưới chưa được tám trăm người nhưng đàn bà, con gái và con nít đã chiếm hết hai phần ba. Phần còn lại đa số đã xung phong nhận lãnh công việc không công trong thư viện, bệnh xá, thông dịch cho các phái đoàn và ngay cả công tác cắt chia thịt cá được trợ cấp tuần hai lần do chính phủ Thái nhận lãnh từ nguồn tài trợ quốc tế phân phát cho dân tị nạn. Người ít, việc nhiều, cho nên sự canh chừng ban đêm chỉ còn lại khoảng năm mươi thanh niên lực lưỡng chia nhau xoay tua canh gác. Gọi là gác chứ cả hơn hai trăm căn nhà nằm choán hết gần thung lũng về đêm tràn ngập bóng tối, đứng cạnh còn khó thấy mặt nhau thì biết lối nào mà đuổi cướp. Đèn trong trại sau mười giờ là tự động bị cúp lấy cớ theo lệnh trên. Văn phòng Thái chỉ còn hai người ở lại để giải quyết những tệ trạng về đêm. Thực ra họ chỉ bù nhìn vì đôi khi bắt được trộm, cướp không nói rành rẽ tiếng Việt là dân ta cứ tự động nện thẳng tay, xử tại chỗ cho đích đáng chứ mang lên văn phòng chỉ thấy thêm những bất công và cảnh trái tai gai mắt bởi bọn chúng bênh vực và tự động cho nhau quyền tác yêu tác quái trên đám người tị nạn.
Dân sống trong thung lũng như đám tù lỏng. Trước mặt là hàng rào kẽm gai với cánh cổng sắt kiên cố dẫn đến con đường trống trơn cách chỗ dân bản xứ khoảng mười cây số rồi mới đến phố chợ. Mặt sau ăn thông ra biển, nối dài theo những gềnh đá lởm chởm thỉnh thoảng có những con thuyền tị nạn chạy một mạch từ Việt Nam sang thẳng Thái Lan táp vào. Đường biển là lối dễ vào nhưng khó ra nên bọn cướp chưa bao giờ dám dùng tàu lén vào đảo bắt cóc đàn bà. Có thể họ vẫn còn e dè chánh quyền địa phương và cũng có thể quá tốn kém thời giờ lẫn tiền bạc cho nên hai ngọn đồi hai bên đã vô tình đồng lõa với tội ác.
Vụ bắt cóc xảy ra hàng đêm một. Kẻ gặp nạn bị chúng thay phiên hãm hiếp mãi tờ mờ sáng mới được thả về bước thấp bước cao từ rừng lết vào trại. Việc phòng thủ càng lúc càng kỹ càng, người ta báo động cho nhau bằng cách chỉ cần người bị nạn la lên là lập tức nhà bên cạnh có bổn phận khua nồi niêu soong chảo, đập ầm ầm lên thùng phi hoặc đập gõ thế nào tạo tiếng động lớn đánh thức những người chung quanh. Nhà kế bên nghe tiếng động cũng đập, cũng khua và cứ thế chuyền sang những nhà khác. Dĩ nhiên bọn cướp dù có súng cũng phải bỏ con mồi mà mau chân chạy thoát vào rừng. Từ ngày có tiếng gõ giây chuyền thì vụ bắt cóc hãm hiếp đã bớt quá nửa, phần còn lại chỉ vì đang đêm bị tháo dạ phải mò ra tận ngoài bãi biển hoặc những anh chị nào liều mình hò hẹn trên gềnh đá đèn tắt chạy về không kịp.
Ai mới nhập trại nghe tin này đều sợ vì thế nên khi chúng tôi, một bọn mười người, may mắn được bạn quen ngỏ ý nhượng lại căn chòi cũ ở ngay giữa trung tâm với đầy đủ bếp núc, nồi niêu chén đũa giá hai ngàn bát, khoảng hơn chỉ vàng là chúng tôi mừng như được của. Tôi lần trong lưng quần cũ của bé Trường gỡ sợi dây chuyền mỏng dính, sợi dây cuối cùng sót lại trong số mười sợi đã mất thì bị Nguyện cản lại:
- Ai sao mình vậy đừng có bày vẽ.
Tôi không muốn giải thích dài giòng về chuyện đêm hôm tụi Thái hay lẻn vào trại bắt cóc phụ nữ vì biết có nói Nguyện cũng chỉ nhìn bằng ánh mắt khinh mạn.
- Em mượn đỡ chung tiền nhà cho người ta, mai mốt xin được chân phụ bán hàng sẽ mua trả lại anh.
Sợi dây chuyền không phải của Nguyện mà của Trường, thôi nôi thằng bé bà nội sắm cho tôi còn giữ được tới ngày này.
- Vật kỷ niệm cấm bán.
Nguyện nói đúng, vật kỷ niệm chẳng ai đem cầm bán vì đẹp hay xấu nó vẫn có giá trị tinh thần nhưng ngày thôi nôi, một chứng tích nhạo báng bên nội vì họ gửi giấy mời xuống dưới quê mà bố tôi không có mặt. Đó cũng là một dịp và là cái cớ cho mọi người chê cười. Mặt tôi nóng bừng:
- Không mua để ở liệu anh có lên rừng đốn cây làm nhà như mọi người hay lại chui rúc nay nhà này mai nhà khác, đã vậy rồi ăn uống, giặt giũ, tắm rửa ở đâu?
Nói thế nhưng tôi vẫn trả lại Nguyện sợi dây. Nếu đã hỏi thiếu được Nguyện tại sao tôi không thể hỏi vay nợ những người khác? Cầm sợi dây bỏ vào túi áo, Nguyện làm lơ trước sự nóng giận quá trớn của tôi, có thể cũng là phương pháp cố đấm ăn xôi, mặc tôi tự xoay sở lo liệu. Việc mượn nợ trong trại cũng dễ dàng vì ai cũng hiểu lá lành đùm lá rách. Giờ tôi mới thấm thía câu miếng khi nói bằng gói khi no; có ra đời mới biết xã hội có kẻ xấu người tốt, có kẻ trọng nghĩa khinh tiền và ngược lại. Hôm sau dọn nhà mới, vì nhà sàn nên khá cao phải lên hết bốn bậc cầu thang mới vào được bên trong. Nền nhà đóng bằng gỗ dùng làm chỗ ăn, nghỉ và ngủ, có ép qua ép lại cách mấy cũng vẫn còn chỗ cho bọn chúng tôi gác chân gác tay. Để phòng bị, đám đàn ông con trai phải dồn về một phía gần bếp, ngay cửa ra vào phòng cướp, vậy mà đám con gái vẫn sợ tụi Thái rạch bức tường phên chui vào.
Nhà lợp lá chung quanh ghép bằng phên mỏng choán hơn phân nửa chiều cao. Phần còn lại là những thanh tre cách khoảng cho gió lùa vào. Mùa hè tương đối mát mẻ vì nhà tôi ở cao hơn những nhà chung quanh nên hứng trọn luồng gió và bóng mát của tàng cây cổ thụ xòa ngay mái. Phần bếp, mái thấp hơn nên tấm phên che cũng hạ xuống do đó đứng nấu nướng có thể nhìn ra ngoài mà ở ngoài nhìn được mỗi khuôn mặt mình, âu cũng là một cách sáng chế tài tình của những người đàn ông bị làm bếp.
Đồ đạc mỗi người chúng tôi chỉ vỏn vẹn có mỗi túi xách gác lên kệ nên không đầy năm phút mọi người đã cùng ngồi lại chia công tác và vị trí chỗ ngủ. Đàn ông lo xách nước, chẻ củi, lãnh lương thực còn đàn bà lo việc nấu nướng, dọn dẹp bếp núc trong ngoài. Như vậy cũng nhàn hạ vì lương thực tuần lãnh hai ngày, nước phát mỗi người mười lít, thừa thiếu muốn tắm rửa giặt giũ thì phải tự túc mua lấy. Đám con gái chia ra mỗi người nấu trọn một ngày, cũng hơi mệt nhưng bù lại ba ngày sau chơi không. Tôi là người tiên phong bữa đầu, nồi niêu soong chảo phải lau chùi lại một lượt vì cáu bẩn, chén đũa cũng loại ra, cái thì mẻ cái bị móp méo cong queo, cũng may có sẵn nước và dụng cụ nên việc quét dọn không đến nỗi quá vất vả.
Hôm đầu chưa quen cách xếp đặt nên tôi cứ leo lên leo xuống cầu thang cả mấy mươi lần; nguyên do chỉ vì bếp ở trong nhà mà nơi chứa nước và chỗ làm tôm cá thì ở bên ngoài, qua khoảng sân nắng sát với phòng tắm trên có mái che và cửa căng bằng miếng vải nhựa xanh, vừa để tắm, thay quần áo và cũng vừa để chứa nước của mọi người trong nhà. Buổi tối sau khi cơm nước đánh răng, phần nước còn lại vẫn phải được trùm và buộc giây cẩn thận vì sợ mất cắp.
Chiều đến mới thấy Nguyện lững thững về nhà, tay xách chiếc nồi con và cái chén cũ. Tôi đưa phần cơm trưa cho Nguyện:
- Nếu không đói anh chờ vài phút nữa ăn cho ngon vì cơm sắp chín rồi.
Tờ báo được mở ra lộ khúc cá chiên vàng ngậy nhưng Nguyện thờ ơ:
- Kể từ bây giờ anh nấu cơm riêng.
Tôi cảm thấy nghẹn trong lồng ngực:
- Công tác đã chia hồi sáng ai cũng chấp nhận sao khi không trở chứng như vậy?
- Những con ngựa đau đều bất bình thường. Ăn riêng cũng là hình thức tập luyện cho con người một cuộc sống không bị lệ thuộc.
Ít khi Nguyện có lối lý sự ba xu như thế. Bình thường, chuyện gì không vừa ý chàng hay la toáng lên hoặc hò hét đập phá để lấy oai. Mà chẳng thà làm thế để mọi người nghĩ mình nóng nẩy bực dọc còn hơn thốt ra những lời này, nó chứng tỏ con người nhỏ nhặt ích kỷ, chỉ vì một xích mích cá nhân, gia đình mà xa rời tập thể.
- Nhưng làm sao anh có thể nấu cơm được chứ?
Câu hỏi khá dịu dàng và đầy lo lắng không ngờ lại va chạm tự ái của Nguyện.
- Đội đá vá trời còn làm được nói gì đến chuyện cơm nước.
Giọng Nguyện đầy gay gắt bực bội khiến tôi nghĩ chàng muốn thực hành điều mạnh ai nấy sống như đã nói hôm nọ. Đã muốn vậy thì lơ luôn, mặt tôi cũng biến sang lạnh lùng:
- Tùy anh.
Nguyện lẳng lặng ra ngoài kiếm ở đâu được ba cục đá kê làm bếp. Không có vật gì che cho gió bớt tạt để mồi lửa, mà kê sát vách lại sợ cháy nhà, cuối cùng Nguyện xé chiếc áo cũ làm khung che...
- Anh ấy nấu cái gì vậy chị? Mây nhìn tôi dò hỏi.
- Chắc sắc thuốc cho vợ chứ gì. Trang không nhìn ra nhưng cũng chen vào.
Tôi không trả lời, bê nồi cơm đặt lên phản múc đều mười phần, cá kho khứa bự nên cũng dễ dàng chia.
- Chan nước cá luôn nghe chị Phượng.
Tâm từ ngoài leo lên chưa hết bực thang cũng nói vô. Hình như mọi người lởn vởn gần chung quanh nên vừa đến giờ cơm cũng đã có mặt đầy đủ. Nguyện ngồi khuất gần nhà tắm vì thế không ai để ý nếu không từ trong nhà ngó ra.
- Chan nước kho rồi bắp cải chấm với cái gì? Hãn cau có hỏi Tâm như sợ mất phần nước cá của mọi người.
- Bắp cải chấm nước mắm mới đậm đà. Tâm trả lời.
- Có mày hoặc ma ăn.
- Sợ ma ăn nên dành phần trước.
Mỗi người nói một câu và đề tài nước cá được mổ xẻ dữ dội. Ăn uống chung đụng chia phần phức tạp là thế nhưng nhờ nấu chung mà thức ăn dư giả để chia chứ nếu không, phần lương thực cho mỗi người trong hơn ba ngày chỉ có thể ăn được một bữa.
- Có gì đâu, chia cá xong còn bao nhiêu nước cá tôi múc hết ra tô chế thêm nước mắm ai muốn chan thì chan, chấm thì chấm.
Tôi giải hòa nhưng Thục không chịu:
- Cá kho đã mặn còn bị đổ thêm nước mắm ăn đâu thấy mùi vị nữa. Em đề nghị chia làm mười phần.
- Mấy người đàn ông đừng có xen vào chuyện cơm nước, người nào nấu thì người đó được quyền chia.
Mây lên giọng làm mọi người bật cười, một người ra chiều dễ dãi:
- Ăn cá kho với nước mắm là cha ở đây rồi. Chúng mình dân tị nạn ăn cơm chực mà đòi hỏi chi nhiều, tôi nhường phần nước cá của mình cho cậu Tâm.
Phần cơm cuối cùng còn dư lại, phần của Nguyện, nằm ngay giữa phản. Tôi định lấy cất lên cao thì Tâm lại ré lên:
- Chị Phượng chia ăn gian lỗ phần cơm của em.
- Lại cũng nó nữa, coi bộ hồi xưa đông anh em lắm hay sao mà dành ăn dữ vậy. Trang bực dọc xen vào.
- Bà Trang im dùm cái coi, ai nói với bà mà cứ xía vào.
- Không xía cũng không được, ăn tham nên mắt mờ, bộ không thấy anh Nguyện ngoài kia chưa vô lấy phần sao?
Vô tình Nguyện làm mục tiêu cho mọi người nhìn ra. Cái bếp khổ sở được dịp khói um, mảnh vải che trông tơi tả trước gió.
- Nấu gì vậy anh Nguyện? Chưa gì đã tính ăn riêng, bộ sợ bà con ăn ké hả?
Mặt tôi sượng trân, cái kim dấu trong bọc vải cũng có lúc lòi ra đâm vào tay. Nguyện đâu có ngờ hành động tự túc của chàng cho tôi một nỗi tủi nhục sâu xa. Chuyện trên tàu tôi vẫn chưa thể quên được, chuyện thằng Hãn vác tôi trên lưng vẫn chưa xóa nhòa trong đầu óc mọi người và bây giờ lại công khai ăn riêng có khác nào chứng minh cho mọi người biết chuyện tình cảm giữa chúng tôi không còn? Miếng cơm vừa nuốt đã nghẹn ngay ở ngực, từ ngày lấy Nguyện có mấy thuở tôi được ăn bữa cơm cho ngon lành trôi chảy, có bao giờ được nở nụ cười trọn vẹn hay chỉ gượng ép vá đắp?
- Vào ăn đi anh Nguyện ơi. Tâm nhận ra bộ mặt lầm lì của tôi nên gọi với ra.
- Ổng sắc thuốc hay nấu cao gì đó mà, thây kệ đi.
Mây gỡ thế bí nhưng có lẽ mọi người đều biết sự trở chứng bất thường của Nguyện nên lờ đi chuyển sang đề tài trửng giỡn, chọc phá khác. Bữa cơm rồi cũng xong, khoảnh khắc sau ai nấy tản mát mỗi người mỗi nơi, kẻ dạo bãi biển, người lên chợ xem hàng vải, uống cà phê hoặc tụm năm tụm ba trước cầu thư viện. Bé Trường theo Trang xuống nhà bạn; còn mình tôi dọn dẹp rửa chén và Nguyện ngồi trên phản bên soong cơm nhỏ khét khê.
- Anh ăn cơm như vậy rồi có lãnh nước chẻ củi như mọi người không?
Tôi vẫn còn ấm ức nên không ngăn được câu hỏi. Nguyện lùa cơm vào miệng không thèm trả lời, miếng cơm khô hình như vướng ngay ở cục xương cổ. Nhìn Nguyện khó nhọc nuốt miếng cơm tôi đâm thương hại
- Đang tự dưng chỉ bày vẽ, anh chê cơm em nấu thì mai đến phiên con Trang cũng phải ăn vậy.
Tôi dặt dĩa cơm để dành khi nãy ngay xuống phản cạnh chỗ Nguyện. Mùi cá kho pha trộn mùi cơm khét làm chàng nuốt nước miếng. Yếu điểm của Nguyện là ở chỗ đó, sống với nhau đã bao nhiêu năm tôi đọc được cả những tính nết xấu của chồng. Tự dưng tôi thấy lòng nao nao, sáu năm rồi, dù không tình cũng có nghĩa, cái nghĩa đâu phải cứ chờ lúc ốm đau bệnh tật mới trả được. Ngồi xuống cạnh Nguyện, không còn là sự gượng ép mà tôi nói với cả tấm lòng:
- Vượt bao sóng gió và thử thách, qua được bến bờ tự do mình đặt lại vấn đề sống sao cho có hạnh phúc và vươn lên anh nhé!
Nguyện không trả lời, mắt vẫn liếc chừng miếng cá. Hiểu ý, tôi gạt phần cá vào chén cho Nguyện.
- Mọi chuyện quá khứ mình bỏ qua hết để làm một cuộc đời mới nghe anh.
Không có tiếng trả lời, miếng cá mầu nâu xậm với chất nước sền sệt hớp mất hồn Nguyện, tôi biết chàng đói.
- Có giận có hờn mình cũng đâu thể bỏ nhau được. Từ mai đừng nấu cơm riêng nữa cho cực, anh xem vừa sống vừa khê...
Tôi chợt khựng lại vì thấy Nguyện và lấy và để, từng hột cơm dính nơi khóe mép cũng không biết lấy ra, cá chiên cá kho không từ, cơm sống cơm khê cũng vét sạch, một hành động rõ ràng tự trả lời không muốn nấu riêng ăn một mình.
- Anh uống nước không?
Nguyện vẫn cắm cúi ăn. Bây giờ tôi mới nhận ra mình hoàn toàn đang nói chuyện với một cái bóng, cái bóng của lạnh nhạt dửng dưng và bữa cơm dù có ngon lành cách mấy cũng không thể giảm được sự ghen hờn và làm tiêu tan tính ích kỷ nhỏ mọn trong con người Nguyện
.
Mặt trời đã khuất tận chân núi tự bao giờ và đèn trong trại dù đã được bật sáng nhưng hơi nóng của một ngày vẫn còn lẩn quất trong những bụi cây lùm cỏ. Gió ngập ngừng đứng lại chẳng muốn ở mà cũng không nỡ rời nên cái oi bức và nồng mùi nước biển vẫn bốc lên ngột ngạt. Ánh đèn trong nhà không quyến rũ nổi mấy con thiêu thân và ngay đến cả loài người cũng không thể gợi cho họ chút hào hứng để ngồi đọc sách, viết thư hoặc đánh cờ.
Cùng theo chúng bạn tản mát tìm chút gió mát, tôi và Trang dẫn Trường lên gò mả. Gọi là gò mả cho có vẻ ghê rợn chứ thực ra chỉ là một gò đất cao và bằng mặt sát ngay nhà thiêu xác. Chung quanh toàn những cây cổ thụ xoè rợp bóng tối và xa xa gồ lên vài nấm mộ của người Thái đã có từ lâu đời. Hình như đảo này thuộc đất của một gia tộc nào đó vì những ngôi mộ cùng họ với nhau. Gò mả cắt ngang đường đi lên chợ và nối liền với văn phòng Thái nên khá an toàn. Trời tối chợ tan, các tiệm cũng đóng cửa, thỉnh thoảng mới có vài ba người đi tắt ngang để xem ti vi lén qua cửa sổ ở các hàng quán ngủ đêm tại đó. Từ trên cao nhìn xuống dốc, những ánh đèn vàng vọt tỏa ra từ những mái lá như những con đom đóm lạc loài trơ trọi trong bóng đêm, loại đom đóm đã bị gió mưa làm tơi tả cánh phải bám vào những cuống lá ẩn náu giông bão. Vật và người trốn chạy giông bão vẫn luôn mang cảm giác bất an dù đã có tạm nơi nương náu. Trại tị nạn chỉ là một bến tạm, một trạm dừng bấp bênh, một số phận trôi nổi như con thuyền chưa tìm được bãi đậu. Tương lai thì mờ mịt mà tình cảm tôi cứ vẫn mãi trôi nổi mặc những cơn mưa bão, sóng gió của Nguyện. Tôi ngồi bó gối thẫn thờ nhìn bé Trường chạy lăng quăng gần đó nghịch ngợm những chiếc lá khô to hơn bàn chân. Xấp lá khô cứ dầy lên mãi trong bàn tay nhỏ bé của nó. Cuối cùng Trường đưa cả hai nắm tay lên trời tung cao. Lá không có gió rơi nhanh như diều đứt dây; thằng bé tiu nghỉu giây lát rồi lại cúi xuống lượm tiếp tục trò chơi.
- Nghĩ gì vậy chị Phượng?
Không quay đầu lại, hình như những chiếc lá khô, định mệnh oan nghiệt của mỗi con người đã thôi miên lấy hồn tôi.
- Buồn ngủ.
- Ngủ gì giờ này, chưa tám giờ mà?
- Cũng có thể người đang muốn bệnh.
- Chị lúc nào chả thế, cái tay em phình to chỉ vì ngày nào cũng bóp đầu cho chị. Người gì đau đầu kinh niên.
- Bé Trường bóp đầu cũng khá lắm tại Trang dành phần đó chứ! Tôi trả lời quanh co như muốn dấu tâm sự mình.
- Đâu ngờ sợ thằng bé đấm đầu đau tay, chị lấy vải bọc vào cái muôi bắt nó gõ. Ai nhìn mà không sợ điếng hồn? Gõ như thế có bữa long óc ra mà chết.
Trang chợt im lặng vì thấy không có sự đối đáp nồng nhiệt của tôi. Hình như câu chuyện chẳng có gì hứng thú để tiếp tục ngoài trừ những phong cảnh buồn nản chung quanh. Thật xa vẳng lại tiếng sóng vỗ như thôi thúc nỗi buồn mỗi lúc một loang nhanh.
- Chị đau làm sao, hay là có bầu?
Trang bỗng hỏi giựt giọng làm tôi giật mình nhưng vẫn trả lời dù bằng giọng gượng gạo:
- Bầu bì gì, cứ tưởng tượng mãi cho khổ vào thân.
- Chị biết không nỗi sợ hãi nhất của tụi em là chuyện đó. Có bầu với hải tặc là cả một vết dơ, một vết nhục không sao gột rửa.
Tôi gục mặt vào lòng bàn tay, tại sao lại khơi vào lòng nhau niềm hãi sợ mà đã từ lâu tôi cố quên đi. Phải chăng sự cố quên chỉ là hình thức che đậy và bây giờ Trang đã mở nắp che, gỡ tấm vỏ cứng của con ốc sên yếu đuối?
- Đừng nói đến chuyện đã qua, hãy coi như một cơn ác mộng. Tương lai chúng ta phải khác hơn.
- Phải khác hơn nếu ta quên được nó. Chị đã quên được chưa, trả lời em thật đi?
Tôi tránh ánh mắt long lanh của Trang; thì ra đâu phải chỉ mỗi mình tôi để chuyện quá khứ ảnh hưởng tới mình mà còn thêm Trang và biết đâu chừng lại chẳng có Mây, có Thịnh, có Khánh và tất cả mọi người chung quanh.
- Mình không nghĩ đến tức là nó đã chìm sâu trong quá khứ.
- Nếu được như vậy thì nói làm gì. Chị nhìn quanh đây đầy rẫy mọi người ai cũng như mình. Dĩ vãng của họ phơi bày trong hồ sơ lý lịch và hỏi chị xem có chiếc tàu nào bị cướp dưới ba lần không? Có người con gái nào thoát được cảnh hãm hiếp nếu họ không tự mang cái tiết trinh con gái để che đậy mặc cảm của mình? Chị vào bệnh xá mà coi, đứa thì phá thai, đứa thì tự tử, có đứa bị bệnh hoa liễu. Chị tin không, con gái mà bị bệnh hoa liễu thì lũ quỷ đâu phải một thằng mà một toán, một tiểu đội, một trung đoàn mang vi trùng bệnh xâm nhập vào. Em thù bọn Thái đến muôn đời.
- Đừng Trang, càng thù họ thì càng kết án mình nặng hơn.
- Chị có kết án chị không?
Tôi rùng mình, những câu nói như những vết dao đâm tận trong ruột gan, không kết án sao đau khổ, sao có mặc cảm với cả chồng con và mọi người? Không kết án sao lại chấp nhận sự hờ hững của chồng như một định mệnh? Như thế có nghĩa là tôi vẫn đang căm thù những kẻ để lại vết nhơ trong đời tôi?
- Thôi đừng nói chuyện không vui.
- Nhưng em thấy cách cư xử của anh Nguyện mà đâm bất mãn. Suốt thời gian trên thuyền cho tới khi cặp bến mọi hành động đốn mạt của anh ấy đều không thoát qua đôi mắt phê phán công bằng của em. Người gì quá hèn, ở không được thì bỏ, sợ gì phải bấu víu vào con người ích kỷ nhỏ mọn như thế.
- Ghen, đàn ông ai chả ghen.
- Đúng, đàn ông ai lại chẳng ghen nhưng chị có tạo ra nó không hay tai họa giáng xuống mọi người chúng ta? Một cái tang chung cho xã hội đã không chia sẻ thì cút đi đừng bới lông tìm vết, đừng vác cứt ném vào mặt từng người. Tồi, tồi...
Mặt Trang đầy vẻ căm phẫn khi nói những lời đó, nó cũng làm mặt tôi nóng bừng, nửa thương thân mình nửa chua xót cho Nguyện.
- Người ta không có mặt ở đây, nói như thế có khác nào nói xấu kẻ khác. Mỗi người có một cá tính, một lối suy nghĩ riêng, Trang không phải là Nguyện làm sao biết được anh ấy đã nghĩ gì?
- Nghĩ gì? Nghĩ vì có con vợ bị hiếp nên mang nhục với mọi người. Thứ chồng như vậy đem bắn bỏ.
Tôi đứng phắt dậy ôm vội Trường rồi tất tả chạy xuống dốc như trốn chạy sự yếu hèn của mình. Con ốc sên không chịu nổi những ngọn roi dù chỉ quất trên chiếc vỏ. Biết Trang có lòng tốt nhưng tôi không đủ sức chịu đựng sự chà xát vết thương trước khi băng bó; một lần chà là một lần đau rát, một lần chà là một lần chết đi sống lại mà chắc gì sẽ khỏi. Con dốc trơn tuột khi chạy xuống lại có thêm Trường ẵm nặng trên tay như cùng xô đẩy lôi cả cuộc đời tôi lao nhanh theo đôi chân. Nếu không tìm cách ghì lại chắc chắn chúng tôi sẽ rơi xuống hố. Con mày đó Phượng ơi, giết đời mày chưa đủ hay sao mà lại định chôn vùi cả đời nó? Tại sao mày hèn, khiếp nhược và ngu ngốc thế hả Phượng? Hãy đối diện mặt chồng, hãy chấp nhận một sự thật dù bỉ ổi để cuộc đời vươn lên. Ra đi mày nghĩ thế nào? Mày mơ ước thế nào? Một cuộc đời đổi mới, một cuộc sống thực thụ của con người, của con người với quyền làm người chứ không phải con vật...
Hết đoạn dốc tôi bỏ Trường xuống và lầm lũi đi men theo con đường nhỏ cắt ngang bệnh xá và thư viện. Thư viện được cất chênh vênh trên gềnh đá nối liền bờ bằng chiếc cầu gỗ. Dọc theo thành cầu thiên hạ đứng đầy để hóng mát. Giờ này bệnh xá đã đóng cửa, hành lang tối thấp thoáng những bóng người. Tiếng hò hét trửng giỡn của đám trẻ, tiếng cười đùa hồn nhiên vô tư của đám thiếu nữ đang tuổi yêu làm tôi nao nao. Qua rồi tuổi hoa mộng, hết cả thời yêu đương, bổn phận và trách nhiệm đã cay đắng phủ chụp xuống đầu tôi nhưng liệu tình trạng níu kéo này có mãi tồn tại, có làm Nguyện thay đổi hay càng chứng tỏ sự khiếp nhược và ngu muội của tôi? Hai mươi lăm tuổi, còn trẻ lắm nhưng sự trẻ trung chỉ đến khi người ta có sự sống; còn tôi, một cây khô không tưới, một cây chết không thể đâm cành lá, sống giữa đời như một thứ phế thải. Có điều dù là cây chết, cây khô nhưng khi được mưa tưới ướt nó vẫn trở nên bóng bẩy, làn nước mỏng gợn trên những nhánh khô vẫn tạo cho nó sự linh động và cựa mình; còn tôi người có tim óc chẳng lẽ không khác hơn loài cỏ cây? Nhiều khi tôi hoang mang với nhiều dấu hỏi trái ngược lòng mình. Biết đâu hạnh phúc lại chẳng đến với những người khác vì có ai nghĩ rằng bên ngoài cái vỏ sần xùi gai góc là múi sầu riêng béo ngọt, bên ngoài lớp vỏ chát đắng nham nhám có thể là lớp nhãn dòn ngọt lịm. Ngược lại bên trong trái ớt chín đỏ mời mọc kia chẳng cay xé lưỡi và bên trong quả chanh vàng mọng chẳng chua chảy nước mắt? Tôi đang nghi ngờ ở số kiếp và cảm tưởng mơ hồ số kiếp đôi khi vẫn được hóa giải vì nhiều người chết đi vẫn được cứu sống bởi dụng cụ máy móc, khoa học của loài người. Như vậy có phải nếu tôi không hiểu giá trị quyền làm người và tự cho mình làm chủ thân xác mình tức là mình đã chối bỏ quyền sống?
Trong tôi đôi lúc có những mâu thuẫn rõ rệt vì đầu óc là cả một sự hoạt động tranh sống nhưng khi hành động lại đầy tính chất khiếp nhược sợ hãi vì phải đối diện với những khó khăn. Ranh giới tuy phân định nhưng tâm hồn tôi luôn bị giằng co xâu xé, càng xâu xé bao nhiêu thì thân xác càng bất động ù lì bấy nhiêu. Nhiều khi tôi nghĩ nếu mình đừng khiếp nhược và dám đứng lên đòi quyền làm người thì có lẽ cuộc đời tôi đã hoàn toàn đổi khác, đổi ngay từ thuở vừa có trí khôn.
Đúng mười giờ tối, một hồi còi dài hú lên và điện loé hai lần cách khoảng năm phút trước khi tắt hẳn báo hiệu cho mọi người ai về nhà nấy. Trại nằm khuất giữa hai dãy đồi cao, khi điện tắt đứng cách xa một thước không nhìn rõ mặt nên dù sóng biển có đập ầm ầm trên gềnh đá mời mọc những đôi trai gái nán lại thêm cũng khó lòng vì họ không muốn là những cái mồi ngon dâng đến tận miệng lũ cướp người. Tuy nhiên không phải vì thế mà không có những cuộc ăn nằm bất chính. Có những đứa con gái vượt biên một mình ngủ cả đêm trong nhà bạn trai không về và cũng có những ông lớn tuổi đêm đêm bò lộn sang nhà bên cạnh. Cuộc sống ở đây như một chỗ dừng chân cho những kẻ còn đang rong ruổi bước đường dài, cũng là nơi hấp thụ tư tưởng mới từ những cánh thư và hình ảnh, sách báo ngoại quốc do thân nhân gửi sang hỗ trợ thêm cho sự tự do tuyệt đối. Cái tự do được hiểu quá rộng pha trộn cả trụy lạc, ăn chơi, đua đòi. Một số yêu cuồng sống vội thu gọn chân trời hồng bằng sự hưởng thụ niềm vui xác thịt; một số quên mục đích chính của sự ra đi đã để đồng tiền điều khiển con người; một số diện kiến trước những cái chết bi thảm trên biển cả hoặc quá gian khổ trong cuộc hành trình đã đắm mình trong sa đọa để vớt vát lại những gì đã mất; một số xa gia đình, vợ, chồng, con cái đã tìm hơi ấm khác để an ủi nương tựa; cũng một số ngấp nghé giữa văn hóa cũ và mới nửa muốn bước vào nửa lại rụt rè. Cái thiên đàng tự do chỉ mới qua thư từ hình ảnh nhưng lại bị hiểu sai lệch hoặc cố tình làm cho nó sai lệch đã làm chấn động lòng mọi người...
Khí hậu ở đảo nóng cả ngày lẫn đêm. Gió lúc nào cũng mang hơi nồng thổi từ biển vào nên da thịt rít mồ hôi. Dù sao biển vẫn là nơi quy tụ niềm vui và quyến rũ nhất đối với mọi người ngoài trừ đàn bà con gái. Chẳng cô nào, bà nào dám tắm biển mặc dù trời nóng như đổ lửa, cái nóng mà đàn vịt vừa nhìn thấy nước là đã muốn đằm mình xuống. Chỉ cần nhìn ánh mắt thèm muốn khi họ đứng ngắm bọt nước bắn tung tóe cũng đủ nói lên điều đó. Họ sợ là phải vì trên ghềnh đá lúc nào cũng lởn vởn một vài tên Thái lạ mặt. Đa số người Thái buôn bán trên đảo đều là những người hiền lành tốt bụng, vì công ăn việc làm của họ và cũng có thể vì quyền lợi thì đúng hơn. Bọn lạ mặt thường từ những tàu đánh cá ghé lại bán tôm cá hoặc mua nhiên liệu thực phẩm, phần còn lại từ trong tỉnh chạy xe gắn máy ra dò dẫm tình hình để đêm tối đỡ mất công vào lộn nhà. Ở đảo, ban ngày dân bản xứ được quyền ra vào tự do buôn bán hoặc vào quán nhậu nhẹt trong khi dân tị nạn lại bị bó giò bó chân. Thỉnh thoảng một vài người bạo gan lén trốn ra ngoài xem cuộc sống dân Thái có gì lạ nhưng bị cướp cạn chặn ngay ở cổng lấy tiền, đồng hồ hoặc những thứ không đáng giá như cây viết, cuốn tập. Một người trốn ra cũng bị cướp, cả bọn đi chung cũng bị cướp mà vẫn phải đứng chịu trận vì chúng có khí giới và chúng là kẻ được chính phủ dung túng. Riết rồi không ai còn tơ hào sẽ trèo qua cánh cổng sắt, tách rời khỏi tập thể để tạo cho mình niềm vui riêng.
Biển hữu tình nhưng không dành cho mọi người kể cả những đêm rằm. Khi trăng vượt lên khỏi đỉnh đồi thì đã quá nửa đêm. Cảnh dưới thung lũng lúc bấy giờ mới trở nên huyền ảo nhưng không thể ngấm vào da thịt loài người ngọt mát trong màu sữa tươi vì những mái lá che kín, một hình thức ngăn chặn sự kích thích, dẹp lòng tà dục của những kẻ khác phái và cho cả chính mình như người con gái đang tuổi dậy thì cần phải mặc áo trong áo ngoài cho thật kín đáo. Trăng cũng không thể mời mọc những đôi nhân tình quên đi sợ hãi đứng bên ghềnh đá ôm nhau say đắm, cho nhau những lời mật ngọt, âu yếm vì an ninh chung quanh. Ban đêm một mình tác quái, trăng được thể càng lộ sự lẳng lơ. Nó bò xuống tận biển rộng mênh mông, trải đều những hạt tấm vàng trên mặt sóng, mê hoặc cả những ngư nhân dù đã lặn sâu dưới đáy nước. Biển trăng thơ mộng và quyến rũ muôn người, muôn vật đến cùng tận nhưng chẳng ai dám tơ màng và cũng chẳng thể thức đến giờ đó để ngắm trăng. Có chăng chỉ những kẻ cô đơn mất ngủ nằm trong chòi buồn bã đưa mắt qua những khe vách hở nhìn trăng sáng mà ray rứt nhớ thương về quê nhà.
Nửa đêm trăng đang làm tê liệt mọi sinh hoạt thì nghe báo động. Tức thì những tiếng khua giây chuyền thi nhau loảng xoảng vang rền. Đám thanh niên canh gác rọi đèn pin nhớn nhác theo những cánh tay chỉ trỏ lần tận đến nhà người bị nạn. Thì ra lão Hạnh, một chủ tàu nhập trại được hai tháng đang mây mưa với cô Trọng quên trời quên đất đã ngã lăn gô xuống sàn đụng vào những thùng thiếc dùng để xách nước phát ra tiếng động lớn làm mọi người tưởng cướp Thái lẻn vào. Hú hồn. Ai cũng thở phào như trút gánh nặng nhưng lại khoan khoái mỉm cười mát lòng mát dạ vì khi khám phá ra sự thật thì lão cũng đã bị nện oan một trận tơi bời, bán sống bán chết.
Lão Hạnh đã ngoài năm mươi nhưng thân thể trông còn khoẻ mạnh tráng kiện nên nhìn rất phong lưu và bắt mắt; có thể cái nhãn hiệu chủ tàu với số vàng mang theo đã thăng hoa thêm cho lão không biết chừng. Ban ngày người ta hay thấy lão ngồi trong quán ăn với chiếc cặp da căng phồng luồn bằng sợi xích nhỏ qua lưng quần và ổ khoá nặng nề đeo lủng lẳng trước bụng. Chẳng biết lão có được bao nhiêu tiền nhưng nguồn tài trợ từ Mỹ do bà vợ qua trước tiếp viện hàng tháng cũng đủ gợi lòng thèm muốn của mọi người. Nghe nói xưa kia nhờ mối lái đưa người vượt biên, lão chuyển ngân sang Mỹ cả ngàn lượng vàng nên giờ vợ lão có tài trợ cũng là tiền công sức của lão. Có điều nếu vợ lão biết rằng tiền đó chẳng những nuôi riêng lão mà còn cho cả một phần tư số phụ nữ ở trại thì có lẽ dù thương chồng cách mấy cũng phải cắt tiếp viện ngay.
Tàu lão đưa người đi là tàu lớn ngót nghét cả trăm, kẻ trả vàng trước người trả sau nhưng dù trước hay sau thì lão cũng đã dùng đồng tiền mê hoặc mà ngủ lần lượt hầu hết bằng đó đàn bà con gái trên tàu. Người thứ ba mươi, người cuối cùng là một bà già nhà quê trạc ngũ tuần, miệng lúc nào cũng bỏm bẻm nhai trầu và hầu như mỗi khi lão sáp lại gần dụ khị là bà chỉ chực nhổ nước bã trầu vào áo để tỏ thái độ khinh bỉ. Ngủ với đàn bà ngoài cái thú xác thịt ra lão còn khoái ngồi ghi chép thành tích và sưu tầm quần lót của họ dồn vào thùng như một thành tích vẻ vang. Đôi khi ngồi trò chuyện, lão nhắc lại hồi còn bốc người dưới vùng Cần Thơ đã bỏ quên thùng quần lót phụ nữ có trên vài trăm chiếc.
Ai cũng ghê tởm lão, coi lão như một thứ heo nọc, một con thú đực mang lớp người nhưng lại bị quyến rũ bởi cái túi da lúc nào cũng lủng lẳng xách trên tay. Càng nhìn họ càng bị ma lực cuốn hút vì tuy khóa dính vào người phòng bị chuyện cướp giựt nhưng lúc nào trông nó cũng nửa kín nửa hở, nửa hời hợt chỉ chực mở ra như hứa hẹn một cuộc sống đế vương nếu được làm chủ. Như thế những người đến với lão rõ ràng chỉ vì tiền và chính lão cũng biết điều đó cho nên lại càng mang tiền ra để nhử, để làm kích thích lòng thèm muốn của mọi người. Ở trại thiếu tiện nghi, đói khát ăn uống, ngay đến vấn đề vệ sinh tối thiểu là tắm cũng phải dùng đến tiền. Một "bát" mua được thùng nước nhỏ cố gắng lắm cũng chỉ gội sạch được một mái đầu, mà nào đã xong, đã là phụ nữ thì hàng tháng ai cũng phải xài những thứ mà không thể không xài được. Tuy ghét lão nhưng người ta cứ xắn lăn vào vì nhiều nhu cầu đòi hỏi.
Nược lại, lão chỉ dám phung phí cho đàn bà con gái còn đối với anh em con cháu thì keo kiết chi li từng đồng. Căn chòi lão ở là của người cháu đến trước hai tháng. Để khỏi mang tiếng ở nhờ, lão nhường hẳn số thực phẩm lãnh được hàng tuần cho nó vì tới bữa lão ăn ngoài quán. Tối đến muốn đuổi thằng nhỏ sang nhà bạn ngủ để được tự do hú hí, lão moi nắm bạc lẻ vừa đủ mua ly cà phê. Ở đảo cà phê và thuốc lá là thứ xa xỉ chỉ những người có thân nhân ở nước ngoài mới dám đụng đến. Thằng cháu cầm tiền của chú cho hí hửng mua gói thuốc lá phì phèo với đám bạn cả đêm để nhà cho lão muốn biến thành ổ heo ổ chuột gì cũng được.
Lão Hạnh khôn ngoan và quỷ quyệt không thua bất kỳ ai vì luôn tính chuyện ăn bánh xong mới trả tiền. Bù lại đám con gái cũng không kém, trước khi hò hẹn cũng đã đớp của lão hai tô mì và ly cô ca căng cứng bụng hết mười bát, khi ra khỏi quán còn đòi mua thêm quả xoài hoặc chùm nhãn bày bán ở lối đi hay cũng có khi đòi cả nải chuối xiêm mập ú. Lão thản nhiên móc tiền ra trả chẳng nhăn nhó khó chịu vì nghĩ của chui vào đâu thì cũng vẫn còn nằm đó, lão có cho họ ăn no tối đến mới đủ sức mà nằm chịu trận mặc cho lão vần vò suốt đêm. Lão cũng biết sức khỏe mình càng lúc càng yếu theo thời gian nhưng lại có tự hào về kinh nghiệm gối chăn, gừng càng già càng cay, người càng già càng dẻo càng dai, càng lắm mánh khóe kéo cưa đến giờ phút chót, nghĩa là mãi đến gần sáng lão mới tự cho phép cả hai đi ngủ để tương xứng với đồng tiền bát gạo đã bỏ ra.
Sở dĩ tôi biết rõ một phần cũng vì lão Hạnh ở ngay sát vách gần bếp nấu ăn. Buổi trưa sau giấc ngủ muộn, lão hay vạch kẽ phên nhìn trộm sang đám chúng tôi hoặc lén nghe những lời chuyện trò to nhỏ. Chẳng ai ưa gì lão, ở đảo tuy đồng tiền cần thiết và có giá trị nhưng cũng tùy người, tùy lòng ham muốn và tùy hoàn cảnh. Có lần lão đã mua chuộc Trang một cách lộ liễu, khả ố. Lão quan niệm người ta chỉ giữ gìn tiết trinh khi chưa bị xâm phạm còn đàng này mười cô đã bị Thái hiếp đến tám thì việc ngủ với lão một đêm để có tiền chi dùng đâu lấy gì là khó khăn hoặc lỗ lã. Tán tỉnh Trang không được, lão lại la cà sang Mây bị nó tát cho hai cái sưng vếu cả cặp môi dày xám xịt sau khi quất vào bụng hai tô mì đầy những thịt thái bên trên. Mọi người cho là Mây khôn vì đã dậy lão một bài học đích đáng nhưng đối với riêng tôi, Mây quá liều lĩnh. Bao nhiêu người thân bại danh liệt chỉ vì cái miệng ăn, hôm nay tránh được vì đã no bụng nhưng ngày mai, ngày mốt liệu có quên hẳn mùi vị thơm ngon của hai tô mì trong khi mỗi bữa lúc nào cũng toàn bơ với cá hộp, khá hơn thì được miếng thịt gà kho mặn còn không thì cứ cơm rang với nước mắm.
Trong nhà ai cũng ghét lão Hạnh nên chỉ chờ có dịp là cho lão một bài học về nhân phẩm con người. Có lẽ giờ đã điểm vì ngay khi cả hai vừa té đánh huỵch xuống đất đụng vào thùng thiếc là Tâm đã nhỏm dậy khua gõ ầm ầm. Tâm còn nhỏ tuổi nhưng lớn xác không khác gì một thanh niên, vấn đề sinh lý cũng có thể vì vậy mà nảy nở sớm. Hằng đêm nó ngủ rất trễ và làm gì thì làm cũng nhất định dành nằm ngay sát vách, gần giường lão Hạnh để nghe lén chuyện ăn nằm của người lớn. Thỉnh thoảng lão mới dám dẫn gái về nhà, không phân định rõ giờ giấc vì sợ người chung quanh rình mò chọc phá. Vì thế năm thì mười họa Tâm mới được nghe những lời trơ trẽn và khả ố của họ. Đêm nay, lão Hạnh dở khóc dở cười, đồng thời Trọng cũng sượng sùng không kém. Trong bóng tối mặt Trọng cúi gầm khi phải trả lời những câu hỏi để điền vào hồ sơ giấy tờ. Những ngón chân di động vô nghĩa nhưng lại cho người nhìn có cảm nghĩ nếu có thể chạy được, Trọng đã chạy ngay từ lúc đầu. Nhìn qua khe vách, tôi cảm thấy xót thương cho Trọng, người đàn bà chỉ vì tiền đã đánh đổi nhân phẩm, làm trò hề trước mặt mọi người.
Đàn bà, hình như hoàn cảnh nào cũng chỉ là trò mua vui cho đàn ông, ngay đến cảnh làm vợ cũng ai oán não nề. Cái hạnh phúc đến với họ khó như mò kim dưới đáy biển vậy mà khi gẫy đổ, gánh nặng và thiệt thòi hoàn toàn trút lên thân phận người vợ. Chồng còn sống dù là phường giá áo túi cơm, mèo mả gà đồng, dù đã dẫn vợ bé xa chạy cao bay, tạo dựng một tổ ấm khác tận phương trời nào thì người vợ vẫn bền chí ở nhà làm lụng nuôi con và tâm hồn luôn hướng về Thượng Đế với lời cầu khẩn xin ơn trên vọng xuống cho chồng hồi tâm trở về. Có người cay đắng hơn trong cảnh chờ đợi nên đã tự an ủi bằng cách đay nghiến: "Cóc chết ba năm quay đầu về núi". Trong đời này có mấy người dám áp dụng "ông ăn chả bà ăn nem"? Miệng lưỡi kết tội của người đời là bản án nặng nề được truyền từ đời con đến đời cháu: "Mẹ nào con nấy". Gia đình đàng trai nhìn tư cách người mẹ để chọn dâu, nhìn tư cách bà để đoán đức hạnh tính nết đám cháu chắt. Người mẹ, người vợ tự mang trong mình một trách nhiệm nặng nề mà không được biết đến, đã tự vứt bỏ tuổi xuân, niềm mơ ước của riêng mình mà sống cho chồng con, cho gia đình nhưng nào ai hay. Nhìn Trọng đâu ai đọc được những cay đắng chôn dấu trong lòng ngoài trừ gương mặt nếu không muốn ghép cho hai tiếng trơ trẽn. Việc làm nào cũng đều có lý do nhưng lý do đối với người đàn bà dẫu đúng hay sai cũng bị cho là ngụy biện.
Mọi người đều giải tán ai về nhà nấy. Trong bóng tối và trong sự yên lặng gượng ép, tôi trở lại chỗ nằm nhưng cứ trăn trở với nỗi thương cảm trong lòng. Tôi thương Trọng, thương bộ mặt xấu hổ cúi gầm và thương cả đôi mắt không dám ngước lên nhìn ai. Nếu người ta đối xử tốt với nhau thì đâu xảy ra tình trạng mua bán, đổi chác sống sượng như vậy. Nếu lão Hạnh đừng dùng đồng tiền mồi chài thì cuộc ăn nằm dù là bất chính vẫn có lý lẽ bào chữa của tình yêu, mà tình yêu nào chả đi đến mục đích tốt đẹp của sự gắn bó?
Thương người rồi lại nghĩ thương thân mình, chuyện giữa tôi và Nguyện vẫn chưa có gì thay đổi hoặc sáng sủa khả quan hơn dù chàng đã hết đốc chứng nấu cơm riêng; hình như cả hai chúng tôi vẫn còn cái hố vô hình ngăn cách. Trong suốt quá trình làm vợ, ngoài vai trò cu li tôi vẫn chỉ là người đàn bà ù lì, chỉ biết than thở hoặc nguyền rủa, trách móc vận số cho lòng vơi đi nỗi tủi hờn uất ức chứ chưa dám có một chống đối ra mặt hoặc một đường hướng rõ rệt cho tương lai. Ước chi có một động lực hoặc sức mạnh nào đó nhập vào để tôi vùng lên. Phải chăng cái vai trò, cái uy quyền của người chồng đã quá lớn mạnh trong tâm trí tôi và phải chăng hình ảnh mẹ Hoài cùng những thua thiệt đã như một đóng ấn trong tủy não? "Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh", người xưa nói quả thật không sai. Tôi giống mẹ y hệt, giống ở sự khuất phục nhu nhược, giống ở những phục tùng nô lệ. Có điều mẹ bằng lòng chấp nhận nên yên phận còn tôi như những đợt sóng ngoài biển khơi, khi lắng dịu, khi lại cuốn mình bung cao. Mẹ chấp nhận yên phận nên cuộc đời ngắn gọn, đầu hàng định mệnh bằng cái chết, còn tôi tuổi sống chưa bằng mẹ nhưng cuộc đời sóng gió tủi nhục chắc chắn phải hơn. Mẹ chỉ có mình bố, chỉ chiến đấu tình cảm riêng tư vợ chồng; còn tôi, ngoài Nguyện ra, cả gia đình chồng và những khắc nghiệt họ hàng chụp xuống như người ta tròng chiếc bao vào người con chó đem trấn nước trước khi cạo lông làm thịt. Mẹ khổ tâm nhưng bù lại thân mẹ nhàn hạ ra vào thảnh thơi còn tôi đầu tắt mặt tối làm hoài không hết việc. Chỉ bằng đó thứ suy ra cũng đủ biết tôi có rất nhiều nghị lực để chịu đựng và dư thừa khả năng phấn đấu sống. Nhưng trên đời này có người đàn bà nào nhận ra được giá trị của mình?
Nhiều khi tôi nghĩ nếu không có những ngày Nguyện bị bắt đi học tập cải tạo thì muôn đời tôi vẫn mãi cho rằng mình chỉ là loại dây leo ăn bám. Ba ngày học tập là ba năm chồng tôi trong trại tù. Đâu ai ngờ trong khi mọi người than khóc vì cảnh chia lìa chồng vợ thì tôi lại cảm thấy thoải mái nhẹ bỗng như người vừa thoát ách dù cái bụng mỗi ngày một nặng nề khó chịu thêm ra. Tôi nhẹ người vì tin chắc rằng sống trong lao tù và những đối xử dã man, ti tiện của bọn cai tù sẽ làm Nguyện thay đổi để nhận biết thế nào là con người và quyền sống, sẽ cho Nguyện thấy cái tình người cần thiết với nhau như thế nào, nhất là Nguyện có đủ thời giờ nhìn ra những sai trái, khiếp nhược của mình xưa nay. Tôi cũng hy vọng trong lao tù Nguyện nhìn lại tình cảm mình, với những năm tháng sống thiếu sót bên vợ, với những lỗi lầm ích kỷ sẽ nhìn được từ kẻ khác như chiếc gương phản ảnh. Sự tù tội của Nguyện gần như một hình thức gột rửa và dù gột rửa bằng cách nào cũng vẫn làm cho tâm hồn Nguyện lớn mạnh thêm ra, từ sự lớn mạnh sẽ có những thay đổi cả về đường hướng sống và cung cách đối xử với vợ con. Yên chí là thế nên tôi chỉ còn tự tranh đấu với bản thân và cố gắng hội nhập những khó khăn đang xảy đến từ khi đất nước thuộc vào tay cộng sản và chính sách cai trị Mark, Lénin.
Khoảng năm tháng, sau ngày Nguyện đi học tập. Cơn hoảng sợ của mọi người vẫn chưa lắng đọng thì lệnh đổi tiền ban hành và mỗi hộ khẩu, dù một hay mười người cũng chỉ được đổi hai trăm. Hình như lệnh đổi tiền không thu hoạch được kết quả khả quan, chỉ làm cho kẻ giàu bớt giàu đi chút đỉnh nên chính sách thi hành kiểm kê tư sản mại bản được tung ra khoảng hơn nửa năm sau đó khiến chẳng ai trở tay kịp. Gọi là tư sản mại bản chứ thực ra nhà nào có tí máu mặt trong phường, khóm đều bị đột nhập lục soát. Kẻ được lệnh ngang nhiên vào khám xét là nhóm cách mạng ba mươi phối hợp với các học sinh, sinh viên xưa kia có người thân đi tập kết hoặc những gia đình nào có công với cách mạng được bí mật huấn luyện học kiểm kê mấy tuần liền. Gia đình Nguyện cũng kẹt trong đó chỉ vì gian nhà to lớn tạo sự tham muốn cho chính sách và chế độ, thêm vào ao cá phi, heo bò và cái tên tuổi chủ hãng xưa kia đã không ngăn cản được đầu óc chiếm đoạt vì họ nghĩ đã có của nổi là chắc chắn phải có của chìm. Trong nhà bà cai, ngoài những vật đáng giá như vàng bạc kim cương tiền mặt, ngoài những bình cổ, ảnh tượng chạm trổ cần phải tiếp thu tại chỗ để làm tang vật còn thì bao nhiêu liệt kê hết vào sổ sách.
Dù đã hơn hai mươi năm di cư vào Nam nhưng những vụ đấu tố địa chủ vẫn còn ám ảnh ông bà vì chính bố mẹ họ cũng là nạn nhân. Bây giờ ông bà có con đi lính lại bị ghép thêm tội hút máu hút mủ của dân nên việc tra hỏi cật vấn kéo dài cả hai tuần vẫn chưa hoàn tất. Họ liệt ông bà vào thành phần ngoan cố chống đối chế độ do đó quyết chí lục lọi, tìm đủ mọi cách hăm dọa, ngay cả sự dọa nạt ấu trĩ là mang máy đến rà vàng.
Suốt thời gian làm thủ tục kiểm kê, kẻ ra người vào với đầy sổ sách giấy tờ, kẻ dọa câu này người hù câu kia đủ làm bà sợ phát sốt nên sụt đi hết gần chục cân. Ông cai cũng chả còn oai phong mà cứ trốn ra sau vườn nhặt cái này, vứt cái kia, đôi khi còn mang cuốc xẻng ra đào xới cho đất xốp lên để rắc phân càng làm cho họ nghi là đem của đi chôn. Vì thế chẳng những bà mà ông cũng bị theo dõi rất gắt ngay cả việc tiêu, tiện. Công nhận lề lối làm việc kéo dài ngày giờ thế mà lại gây ảnh hưởng tác hại. Hàng đêm bà cai ngủ không ngon giấc; những lời hỏi cung tra tấn bằng sự đe dọa còn làm bà khủng hoảng sợ hãi hơn là lôi ra nện cho một trận nhừ tử rồi thôi. Ăn không ngon ngủ không yên bà ngã bệnh và cứ thế lải nhải trong giấc mơ. Từ khi cơn mơ bộc phát thì những hàng ngói trên mái nhà bị lục soát cặn kẽ, một góc chuồng heo cũng bị đào lên, hồ cá phi nhộn nhịp kẻ bơi người lặn dưới đáy sâu nhưng ghê sợ nhất vẫn là bồn cầu, từng mảng xi măng để ngồi được cạy bung lên và cả bọn gồm đủ thành phần cao cấp phường xã đến thanh tra. Hố phân bốc mùi thum thủm lẫn lộn với dòi bọ bò lúc nhúc cùng ruồi nhặng bay vo ve, có con xà cả xuống, mút mát căng một bụng rồi lại cất cánh bay lên đáp ngay vào mặt những người đang ngưỡng mộ chúng.
Dù nhặng dù ruồi chẳng ai đặt vấn đề vì của cải trong trí tưởng tượng của họ thơm phức, ngon ngọt hơn nên kẻ thọc gậy, người múc, cứ thế quần quật thay phiên nhau moi móc từ sáng sớm cho đến tối mịt. Sở dĩ họ cố công đào không phải là không có lý do. Trên Chợ Lớn đa số những thương gia người Tàu đúc tượng thờ bằng vàng hoặc để cả khối đem dấu, chỗ dấu duy nhất không ai ngờ chính là cái nhà cầu dơ bẩn. Có người khôn ngoan hơn dấu ngay trong những chậu kiểng đặt tênh hênh sau nhà vì giữa lộ thiên ít ai dòm ngó mà vẫn bị lộ.
Riêng nhà bà cai, có nơi bà khai đúng cũng có nơi sai, có chỗ đào được vàng và cũng có chỗ chỉ thấy phân. Họ thay nhau canh gác, rình mò từng cử chỉ của bà như người ta rình bắt kẻ gian bài. Hễ bà để mắt chỗ nào hơi đáng nghi là chỗ ấy có người đào xới, ngay heo gà cũng bị giết lần mòn mà bà có dám nhìn chúng đâu. Con Bạch con Vàng giữ nhà đã đến hơn mười năm, khôn ngoan là thế nhưng giống chủ cụp tai cúp đuôi sợ họ vành vành mà không thoát, vài bữa sau cũng bị làm thịt vì nghe nói máy rà vào bụng nó kêu bíp bíp. Bà không tin con chó bị ai dụ nuốt vàng, có bắt hoặc đè cổ banh miệng bỏ vào nó cũng chẳng thèm của cứng ngắc chẳng có mùi vị ấy. Bà nhớ từ hôm kiểm kê hai con chó bị bỏ đói, ngay heo cũng bữa được bữa không. Cặp chó to như hổ ăn giành cám heo không đủ no chúng phải lang thang ra ngoài xóm lân la ở những đám trẻ con bò lê bò càng trước nhà chờ được ăn vàng từ ruột già trẻ nít phế thải ra. Bà lại càng không tin có máy rà vì nếu có họ đã chẳng lục lọi loạn xạ mất thời giờ như vậy. Âu cũng là một đòn tâm lý mà những kẻ nhát gan ngay từ phút đầu không đánh đã khai. Tội đôi chó, ăn vàng nào thì cũng phải chết vì chúng có tướng chết bất đắc kỳ tử. Nhất bạch nhì vàng tam khoang tứ đốm, hai con đứng ở hàng nhất và nhì nên thoát thế nào được. Bà không xót thương cho chúng vì người còn không biết sống chết thế nào nói gì đến con vật.
Ở đời, có tật giật mình; quen sống cảnh giàu sang giờ sa cơ bị kẻ ngu xuẩn dốt nát hù vài câu cũng đủ sợ. Chẳng cần suy đi nghĩ lại bà cai tự động dâng hiến bầy heo gọi là ủng hộ anh em ăn mừng chiến thắng, hy sinh luôn cả căn nhà đồ sộ cùng tất cả bò gà, vườn tược, ao cá gọi là chuộc tội với cách mạng chỉ xin giữ lại khung chuồng heo sửa chữa tu bổ để ở vì bà nghĩ vừa có chỗ nương thân già, vừa tránh khỏi cảnh bị đuổi đi vùng kinh tế mới như những nhà tư sản khác. Kể ra nhút nhát và qụy lụy như bà cai cũng có cái hay; các cán bộ khỏi phải ra mặt chiếm đoạt lại còn có người để sai vặt thì tội gì không khoan hồng cho ông bà ở lại làm tôi tớ. Đã vậy họ còn tuyên bố thả lỏng tôi, vợ một tên lính ngụy mang đầy tội ác, nợ máu với nhân dân được lên xuống cơm nước và trông coi vườn tược. Tôi thấy tội cho Nguyện, dù có mặt ở đây anh cũng không dám cãi là chỉ có tội với vợ con, với lương tâm và tổ quốc vì anh là một tên hèn nhát trốn lính, trốn trách nhiệm làm chồng nhưng thôi, tội với ai thì anh cũng đã bị tù; nhà tù cải tạo sẽ gột rửa anh thành một con người khác và dù gì tôi cũng vẫn cứ nuôi hy vọng anh sẽ thành người, một con người thực sự sau khi đã lột bỏ cái nhu nhược thấp hèn của mình.
Từ khi dọn xuống nhà heo, tinh thần của ba mẹ Nguyện sa sút thấy rõ, cả ngày cứ ngồi ủ rũ. Rõ ràng cái oai phong ông bà chỉ có khi còn tiền, con người ta lúc trần truồng ai cũng như ai, cũng có những cái đáng thương đáng tội nghiệp. Nhìn ông bà tôi thấy chua xót cho thân phận kẻ chỉ biết sống dựa vào đồng tiền. Tiền hết, cái hách dịch, khí phách chẳng còn mà giờ như một xác khô chờ chết. Tiền bạc nó làm sầu não ông bà, thằng con trai trong tù là mối đau thương cắn xé ngày đêm và mỗi ngày ra vô nhìn mặt tôi có lẽ ông bà lại thẹn vì lối đối xử khi xưa.
Từ ngày buôn bán ngoài chợ trời có chút đỉnh tiền ra tiền vào bố mẹ Nguyện ân cần tử tế với tôi thấy rõ. Cũng có thể từ lúc bị mất hết tài sản ông bà mới nhận ra rằng trên đời chẳng có gì bền vững, quý báu bằng tình cảm con người nên những hà khắc mắng chửi đã thay thế bằng những lời nỉ non tâm tình. Riêng tôi tình cảm đối với gia đình chồng trước sau như một, vẫn lễ phép, tử tế với bậc cha mẹ nhưng những gì đã xảy ra, những kinh nghiệm sống bắt buộc tôi phải e dè và luôn luôn phòng bị. Cái quá khứ đau thương không thể biến mất dễ dàng bởi nó đã thành vết sẹo to lớn chai cứng trong óc. Quạ đen muôn đời vẫn là quạ đen; tôi biết cái hổ thẹn chỉ là một hình thức che đậy bên ngoài để gợi trong tôi sự tha thứ. Khi đã có sự tha thứ thì đâu ai nỡ ẵm con ra đi như bao nhiêu kẻ đã làm và sẵn sàng chấp nhận làm hầu tớ như ông bà đã biết làm hầu tớ từ khi xuống nhà heo. Có điều ba mẹ Nguyện không hề nghĩ hầu tớ của tôi phát xuất từ luân lý xã hội, từ ràng buộc vợ chồng, từ liên hệ máu mủ, cái hầu tớ phát xuất từ tình người chứ không phải như ông bà đã hầu tớ cách mạng, một hầu tớ lúc nào cũng chờ thời để vùng lên để làm chủ lại họ. Tôi hiểu cái thâm ý của ông bà. Chờ thời. Vâng. Hy vọng là sự sống của con người; ai sống mà chẳng nuôi hy vọng? Quanh xóm tôi và mỗi phường xã đều có những người lén lút bỏ trốn vào trong rừng thành lập đội kháng chiến quân. Toàn dân miền nam giờ chỉ trông vào đoàn quân kháng chiến hợp với sự trợ lực mạnh mẽ từ hải ngoại chờ ngày quật khởi. Không ai giết được niềm hy vọng của con người ngoài trừ họ tự giết nó.
Những ngày tháng sống trong khốn khổ đói khát, tôi vẫn không nghĩ mình sẽ trở thành tay buôn bán vì không có kinh nghiệm lại nhút nhát sợ hãi. Không ngờ túng quá cũng phải liều vác mặt lên Sài Gòn bán vài ba cái quần áo tốt của Nguyện còn lại. Vài ngày sau ăn hết tiền bán đến mắt kiếng, đồng hồ và cứ thế những gì có thể bán được là cứ bán. Bán riết quen mặt, nhờ đó tôi biến thành dân buôn bán chợ trời lúc nào chẳng hay, có nghĩa là tay kẹp cái áo, chân đạp xe dừng lại vỉa hè, gạ bán cho những người từ Bắc vào Nam chơi hoặc mua lại của những kẻ cần tiền mang đồ ra bán như tôi khi xưa.
Buôn bán làm tôi mạnh dạn và vững tin hơn ở mình. Tôi không còn thấy cái bụng bì bì là một đại nạn khi bị công an rượt bắt vì chẳng ai muốn bắt một bà sắp sanh mang nhốt cho tốn cơm gạo và tốn cả tiền đỡ đẻ. Ngày sanh bé Trường, con so mà tôi chỉ rặn có ba hơi. Thằng bé bị lôi ra lẹ làng sợ quá khóc thét lên. Khóc được là tốt, không vừa lòng chuyện gì cứ khóc cứ gào, đừng câm như mẹ nó, đừng khiếp nhược, hèn như bố nó và cũng đừng cay độc như ông bà nội nó. Nhìn Trường tôi nửa mừng nửa tủi, thằng bé không đến nỗi giống y hệt Nguyện như tôi đã nghĩ, nửa mang vẻ tài tử phong lưu như bố tôi, nửa giống ở mẹ Hoài làn da ngăm đen duy có một điều đáng tiếc là giống ở bà nội cái môi trề. Sự ra đời của Trường cho tôi thêm sức mạnh tinh thần phấn đấu và ý nghĩ vượt biên lo cho tương lai bắt đầu lan rộng. Đồng thời nhờ sự thay đổi của ông bà, có thể chỉ là tạm thời, cũng đủ cho tôi hãnh diện phần nào và tự tin vào khả năng của mình hơn. Tôi mang hết sự khôn ngoan tháo vát và tận dụng cả sinh lực trong người để kiếm tiền hầu mong đảo ngược hoàn cảnh.
Sáng sáng đạp xe đi, nhiều khi tối mịt tôi mới mò về với đầy giỏ thức ăn, cũng có hôm cồng kềnh nửa chục hộp Similac, loại sữa bột nhập cảng cho bé Trường. Kể ra thằng bé còn may mắn lắm, thời này trẻ con nếu không có sữa mẹ đành phải uống nước cháo hoặc khá hơn là sữa con chim, sữa ông thọ, sữa mẹ bồng con. Con tôi vẫn phong lưu sung sướng như bố nó thuở nào vì với xã hội nghèo đói ít ai dám bỏ gần cả số lương tháng của cán bộ để chỉ mua một hộp sữa cho con mình. Tôi làm lụng cực khổ vất vả cốt vì thằng bé thì nó phải được hưởng món quà vật chất lẫn tinh thần đó. Nhìn con mút chùn chụt chất sữa ngọt lịm mà lòng tôi xúc động từng hồi. Dưới ánh đèn điện, thằng bé mở tròn đôi mắt to đen nhìn mẹ. Mặt nó bụ bẫm với màu da bánh mật nhoẻn nụ cười tươi, hạnh phúc cả ngày của tôi ở giờ phút đó.
Sau bữa cơm phụ trội toàn thịt quay, bánh mì, bơ sữa với cha mẹ chồng, tôi nằm ôm con mà thấy hạnh phúc tràn đầy. Hình ảnh Nguyện không thể chen vào xen kẽ, mọi lo lắng buồn phiền rã tan, mọi buôn bán tranh giành cũng rũ sạch. Ôm xiết thằng bé trong lòng và bằng một cử chỉ nâng niu tôi áp mặt mình vào chiếc má thơm mùi sữa của nó để tận hưởng cái tình mẫu tử thiêng liêng, để thấy lòng sung sướng vì đã được Thượng Đế đền bù.
Sáng sớm trời còn mờ sương tôi đã vội vã mò đi kiếm ăn, rời bỏ tổ ấm, rời bỏ con tôi còn đang say nồng giấc ngủ. Người ta thương con, nuôi con bằng sữa mẹ ngọt ngào; còn tôi vì sinh kế phải lang thang như chó đẻ trốn con. Chó đẻ trốn con vì không đủ sữa cho con bú; tôi có sữa nhưng không thể ôm con để cả nhà đói. Những hôm đạp xe dưới trời trưa, hơi nóng mặt đất bốc lên đổ lửa, những hôm bị ráp bố chạy mắt đổ hào quang, mọi chướng ngại vật, mọi hiểm nguy tôi đều vượt qua chỉ vì sức mạnh và tình thương yêu quá lớn tôi dành cho con đã thắng tất cả. Tôi làm quên thân mình chỉ vì Trường, vì muốn cho tương lai nó phải rực rỡ. Vâng, dù thế nào nhất định khi Nguyện về chúng tôi cũng phải vượt biên.
Hàng tháng tôi vẫn đút lót tiền để được yên thân với cái nghề đang bị ruồng bố vì làm bẩn phố phường. Họ bảo xã hội chủ nghĩa không có buôn bán, ăn mày, trộm cướp, nhưng cả ba thứ lại được mọc đầy như cỏ dại. Không buôn bán sao sống nổi vì ngay đến cán bộ lương tháng chỉ đủ ăn năm tô phở. Không ăn mày sao phải mang hộ khẩu hân hoan đứng xếp hàng từ sáng đến chiều? Những người có hộ khẩu nghĩa là có nhà cửa sẵn hồi chế độ cũ, có con em đi thanh niên xung phong, có người thân đi tập kết hoặc không có tiền án nợ máu cũng chỉ được mua mỗi tháng vài ký gạo, vài ký khoai, bột mì, vài lạng đường. Bằng đó chỉ đủ ăn một tuần cho mỗi người nên bữa cơm dọn ra phải độn thêm rau hoặc khoai. Người không hộ khẩu nhan nhản từ khắp nơi trốn về vì không sống nổi ở những vùng kinh tế mới, vùng đất khai triển bằng sức con người lại thiếu phân bón, giếng đào sâu chỉ gặp nước phèn, người sống không nổi lấy đâu cây sống nên khô cằn không sinh hoa lợi. Muỗi mòng, bệnh hoạn không thuốc men, thiếu đủ mọi tiện nghi và không lương thực sống, bụng đói ai chẳng làm liều; họ bỏ tất cả để trở lại thành phố. Dân trong thành phố đói, dân ở kinh tế mới cũng đói, không ăn trộm cũng ăn cướp. Vì thế, cướp, cắp lan tràn từ cán bộ đến dân, có điều cán bộ cướp thì có mảnh giấy tạm thu còn dân chúng lớ ngớ, ấm a ấm ớ thì bị đi cải tạo.
Thỉnh thoảng tôi cũng hay sống hình thức, làm cỗ đãi các ông công an phường gọi là chia nhau những con cá còn sót lại dưới ao, gọi là tình bắc nam một nhà và cũng là cái chúc mừng cho mình đã không có nhan sắc để khỏi phải mang kiếp hồng nhan đa truân như nhiều bà có chồng đi học tập đã bị mua chuộc hoặc ép buộc phải rơi vào tay họ. Cũng có hôm kiếm ăn khá tôi mua vài xấp vải đen, chiếc áo len xanh gọi là chút quà đến vợ con họ còn sống chờ đợi tận nơi xa xôi. Thực ra tôi không quá tử tế như vậy nếu không có một dụng ý hoặc một che đậy nào đó. Tôi mua chuộc bằng tiền bạc và tiếp đãi ăn uống không ngoài mục đích tạo sự ràng buộc vật chất. Khi đã sống dựa vào tôi, chắc chắn họ sẽ bị lệ thuộc vào miếng ăn ngon mà lo cho Nguyện mau chóng trở về và một phần cũng để tránh những ánh mắt theo dõi hạng con buôn đi sớm về khuya như tôi. Họ đâu biết tôi trá hình cực khổ vì ngoài bữa cơm thanh đạm được bày ra ánh sáng, trước sự dòm ngó của họ còn thì mọi thức ăn ngon được dấu trong phòng, lét lút vội vàng ăn vào bữa đêm sau khi đã khóa cửa cẩn thận. Ban đêm mới là bữa ăn chính đầy chất bổ dưỡng cho cả nhà bốn người.
Buôn bán quần áo cũ chỉ là hình thức che đậy cảnh đi đi về về, thực ra tôi buôn những thứ phạm luật nhà nước. Những năm sau này nhờ bán thuốc tây, đổi tiền đô và những hàng quà từ ngoại quốc về tôi khá một cách mau chóng. Cũng dạo đó tôi hay đạp xe xuống nhà Thanh Huyền rủ nó sống cuộc đời lê lết đầu đường xó chợ để dành dụm chút tiền cho sớm thành mưu sự. Chẳng phải chỉ những kẻ buôn bán mới dám có ước mơ mà hầu như tất cả mọi người trong nước, những người đã từng sống trong tự do, biết được giá trị của nó nên cũng cố gắng tìm đường vượt biên.
Có những hôm dự định từ trước, tôi mua thịt cá, bánh trái kêu xe ôm chở xuống Lái Thiêu thăm bố cách chỉ hơn mười lăm cây số. Bố ở vườn thế mà hay, vừa sống khỏe khoắn với không khí trong sạch, vui cùng thiên nhiên lại vừa tránh xa được dì Loan, người chỉ gây ra những xáo trộn và buồn khổ. Bố ở chung với bà cô tôi, em ruột của ông nội tuổi đã ngoài tám mươi. Chú Hải con của bà bị tù ba ngày như Nguyện nhưng bà vẫn may mắn hơn những gia đình khác thoát khỏi cảnh chết đói vì còn có bố. Bố làm cật lực nhưng chẳng đủ ăn vì không quen làm vườn và sức khỏe không có; nói cho đúng, bố chỉ trồng vài ba dây lang vớ vẩn ăn qua ngày. Tôi vẫn mua gạo, lương thực khô tiếp tế hàng tháng cho cả hai. Nhiều khi tôi tự nghĩ nếu mình bị chết có lẽ bằng đó người cũng phải chết theo, một thứ dây leo đầy rẫy trong xã hộ chủ nghĩa vì chính sự cải cách sai lầm đã đào tạo ra những loại dây leo đó.
Ba năm trong tù Nguyện được thả về với đôi chân tê liệt, với nửa thân người gần như tàn phế. Cậu ấm Nguyện cả đời chỉ biết ăn ngon, mặc đẹp, ra vô có kẻ hầu người hạ giờ đói phải vào rừng ăn lá dại lót lòng, bắt ếch, bắt chàng hươu và ngay cả con trùng đất ken ruột nuốt sống. Cậu ấm Nguyện cả đời không hề cầm đến cái xẻng, cái cuốc giờ ra sức đào xới, chặt cây để trở thành người tốt xứng đáng hưởng chính sách khoan hồng của chế độ mà trở về cùng gia đình. Có điều Nguyện chỉ chú trọng về công tác lao động để được rời khỏi sự kềm kẹp mà quên đi phần quan trọng là sự đào luyện tâm hồn. Nguyện cố gắng dằm sương dãi nắng, làm tốt, học tập tốt nhưng lối làm hùng hục của một con trâu bị đeo vào cái ách và vì sức mạnh của làn roi đập tới tấp xuống người, lối học của một con vẹt lập lại lời người ta dậy. Cũng may nhờ là con trâu, con vẹt nên Nguyện không bị tiêm nhiễm thêm thói hợm mình, thói khỉ dòm nhà, thói đào bới hoặc tạo dựng tội ác gia đình giòng tộc để lập công với nhà nước mua chút hư vị.
Ba năm trả nợ kiếp trâu cày thì Nguyện hoàn toàn kiệt lực; đôi chân tê liệt là bằng chứng cụ thể nói lên sự phế thải của một loại nặn chanh bỏ vỏ. Nguyện được thả về vì chẳng những vô dụng lại còn là gánh nặng cho chính sách đang cần sức khỏe để lao động. Ngày đoàn tụ cười ra nước mắt. Hai tên công an trịnh trọng quá mức đâm ra lố bịch khi thấy dân quanh xóm lấp ló lén nhìn từ cửa sổ. Bản tính phô trương lại có cơ hội phục hồi, họ đưa vai cho Nguyện bám lấy rồi cố sức đưa thân thể còm cõi vì thiếu bổ dưỡng nhấc bổng Nguyện lên. Dù được nhấc bổng lên nhưng trông cậu ấm Nguyện chẳng oai phong tí nào, bộ quần áo ngày xưa mang theo đã cũ theo thời gian, mái tóc cắt quá ngắn gần thành trọc nhô mảng sọ to lớn như chiếc đầu lâu. Mắt cậu trũng xuống, lờ đờ mệt mỏi ẩn sâu dưới màu da tái xám. Cậu được đặt ngồi dựa lưng vào tường trên chiếc chõng tre trải manh chiếu đã cũ rách, hai giọt lệ chảy dài và cứ thế lăn mãi, chẳng hiểu đó là lệ vui mừng của ngày xum họp hay cùng chia buồn cả cho thân phận những người ở ngoài vòng tù tội.
Hai gã công an hoàn thành xong công tác đặc biệt mang kẻ tàn phế về tận nhà nhưng vẫn còn đứng sớ rớ đưa mắt nhìn quanh. Lúc đi trong lòng cả hai cùng chung một ý nghĩ sẽ được gia đình Nguyện đãi bữa cơm no, được biếu xén quà cáp thời Mỹ Ngụy còn sót lại hoặc ít ra cũng có chút đỉnh tiền gọi là góp công với cách mạng không ngờ khi bước vào gian nhà lá ghép phên chung quanh, nhà không ra nhà mà chuồng cũng chẳng ra chuồng, nó vá víu chỗ này miếng ván chỗ kia dúm lá trông rất khôi hài. Giữa nhà kê bộ bàn ghế đặt chỏng gọng vài cái ly úp trên đĩa và một bình nước trà như phô bày một sự thực não lòng của những ngày tháng sống thiếu thốn khốn khổ. Mẹ Nguyện đang ngồi ôm cháu chạy đến lệ đổ như mưa nhưng không dám buông tiếng khóc vì sợ con mình lại bị bắt đi học tập trở lại như đã có một số người bị chỉ vì gia đình chưa tiến bộ. Bố Nguyện bệnh nằm co trên giường cũng cố gắng vén màn vừa chào hỏi vừa ho sù sụ cám ơn anh bộ đội và chính sách đặc biệt khoan hồng đã cho Nguyện trở về sớm hơn tất cả mọi người. Ông đâu biết rằng chỉ vì đôi chân liệt đã biến Nguyện thành gánh nặng cho họ vì phải tốn tiền thuốc men, ăn uống và ngay cả việc chôn cất. Hai anh cán bộ trong lòng hả hê dù không được đãi bữa cơm cũng chẳng có quà cáp. Cái làm cho họ tự hào và tự mãn là chính sách nhà nước quả thực minh mẫn, khôn ngoan đã biến dân Nam, Bắc trở thành sạch sẽ từ trong lẫn ngoài. Như vậy dù họ có phải hy sinh cả đời nơi rừng thiêng nước độc để quản chế đám tù binh cải tạo thì dân trong thành phố hay trong rừng cũng đều nghèo như nhau. Sự so sánh thiển cận chỉ dựa vào một vài thành phần bị thu mua tài sản và bị bóc lột cũng đủ làm họ thỏa mãn sự ghen tị sẵn có trong đầu. Họ đâu biết rằng chính họ cũng chỉ là người cầm cái ách đi theo con trâu cày trên khu đất cằn cỗi xác xơ không thể tạo ra hoa lợi.
Lúc Nguyện về tôi không có nhà, nhờ thế đỡ tốn bữa cơm thừa thãi và nhờ thế họ không thể biết tôi đang là thành phần bóc lột để rồi thản nhiên đến trơ trẽn ngửa tay xin xỏ, một hình thức đe dọa bóc lột lại. Ba năm Nguyện không có gì thay đổi ngoài thân thể bị đẽo gọt thê thảm. Đôi chân tê liệt chỉ vì thiếu dinh dưỡng cũng đã làm tôi tốn phí rất nhiều thì giờ và tiền bạc chữa chạy thuốc thang. Bù lại Nguyện đáp trả lại tôi bằng những lời giáo huấn nhẹ nhàng nhưng cũ rích được lập lại như con vẹt để lạm dụng, rằng xưa kia người đàn bà nết na đức hạnh đều tảo tần nuôi chồng ăn học, lập công danh như mẹ Nguyện đã cả đời làm lụng nuôi con nuôi chồng; nay tôi nuôi Nguyện là lẽ thường tình như trăm người đàn bà khác, nhất là trong cảnh đổi đời, người đàn ông như cá nằm trong thớt càng dãy càng chết. Công việc từ bấy lâu nay tôi làm không phiền hà than trách và cũng không nặng nề bằng cái "phải" và "trách nhiệm" mà Nguyện vừa chụp xuống. Từ khi Nguyện được về tôi cảm thấy mình đuối sức, không vì thể xác mà tinh thần đã đến hồi kiệt quệ. Tôi luôn cầu xin cho công việc giúp tôi quên đi những ray rứt trong lòng. Sự thất vọng trong tình chồng vợ mỗi lúc một ắp đầy thì đồng thời số tiền tôi dành dụm càng lúc càng cạn.
Năm sau Nguyện đã đi đứng trở lại bình thường nhưng mộng vượt biên phải trì hoãn vì tôi cần chạy bạy buôn bán thêm một thời gian để kiếm tiền. Chàng cũng chẳng thể giúp gì được cho tôi, cũng không dám bước ra khỏi nhà vì sợ họ buộc cho đủ thứ tội như những người khác đã bị bắt nhốt trở lại. Tôi lại nuôi thêm một miệng ăn nhưng điều đó không đáng lo bằng sự áp chế của bố mẹ Nguyện đã có cơ hồi sinh. Cả ngày tôi rẽo khắp đường phố bất chấp cực khổ mưa nắng để kiếm tiền thì ở nhà bố mẹ Nguyện dạy con dạy cháu bằng những tư tưởng khắc nghiệt. Tối đến cơm nước xong Nguyện mang lời chỉ bảo vàng ngọc của mẹ ra áp dụng với tôi.
- Khốn kiếp, tôi hét lên, anh vẫn không bỏ được cái tính hèn hạ độc ác. Tôi không phải là con chó mà bắt nó mãi ăn cứt. Tôi không phải là đứa nô lệ phải có bổn phận phục dịch cả gia đình anh đến trọn đời.
- Mày muốn làm gái mới, muốn làm đĩ lấy trai phải không?
- Đi buôn đi bán không phải là làm đĩ. Tôi ở nhà cho sướng thân xem ai đói cho biết.
Nói thì oai lắm nhưng chỉ được vài giờ đâu lại hoàn đấy, tôi đội nón và máng giỏ vào ghi đông lầm lũi đạp xuống chợ trời Huỳnh Thúc Kháng. Nghĩ đến cảnh con tôi đói khát, cảnh bà cô và bố tôi ngơ ngáo khi cuối tuần không có tiếng xe honda ôm chở tôi đến nổ dòn từ đầu ngõ, nghĩ đến giấc mộng vượt biên không thể thành tựu tôi quên hết những lời đay nghiến nặng nhẹ của gia đình, quên tiếng làm đĩ lấy trai thô tục, quên tiếng gái mới, gái tân, quên tiếng nạ giòng, nạ giống để chỉ nghĩ đến khuôn mặt kháu khỉnh và tiếng cười dòn của con tôi. Thằng bé lớn, lớn lắm rồi, bốn tuổi nó đã biết dành dụm bỏ tiền vào ống chờ khi bố bệnh có tiền thang thuốc. Nó đã biết thức khuya chờ mẹ về chợ để nhai tỏm tẻm miếng giò lụa hoặc vài chiếc bánh giò nhân thịt. Nó đã biết vòng vai bá cổ biểu tỏ tình thương yêu qua nụ hôn ngọt ngào trên má tôi và nó cũng biết nỉ non xoa xuýt khi thấy tôi mỏi chân, nhức đầu. Ôi con tôi, vị thiên thần nhỏ bé, chỉ có tình mẫu tử mới làm tôi vị tha để sống đẹp với người đã xử tệ mình. Chỉ có tình mẫu tử mới làm tôi vượt mọi trở ngại gớm ghê, vượt những thành kiến khắc nghiệt độc ác của mẹ chồng, của bố chồng và ngay cả chồng. Chồng đấy!
Xã hội mới con người đảo lộn từ trên xuống dưới; người chẳng ra gì nắm quyền hành lớn trong tay; kẻ mù chữ thất học ban bố những đạo luật chướng tai gai mắt và chẳng nói đâu xa ngay xóm tôi nhan nhản kẻ tố chồng, người bỏ vợ, nguyên do chỉ vì miếng cơm manh áo, vì tranh nhau vòng danh lợi khát sống. Nguyện đâu biết được những đổi thay cuộc đời mà đa số như cây cỏ mềm yếu gió thổi chiều nào ngả theo chiều ấy. Nhiều bà chồng bị tù đày không biết ngày về nên đã lấy người khác vì còn tiếc nuối xuân xanh, nhiều bà không chống chọi nổi với thời cuộc, với đói khổ hành hạ tìm con đường chết cho nhẹ gánh nhưng cũng nhiều người gồng mình với thử thách cố giữ tấm lòng son sắt thờ mẹ nuôi con chờ ngày chồng được thả về, thế mà Nguyện đã không biết đón nhận cái hạnh phúc khó tìm, lại còn nặng lời bạc bẽo. Hận Nguyện nhưng rồi tôi lại tự xoa dịu mình bằng những câu ngu xuẩn: Khi người đàn ông ghen có việc gì mà không dám làm, có ngôn ngữ vô sỉ nào mà không dám nói. Từ nhà đạp xe đi mắt tôi nhạt nhòa màn lệ, tới chợ gặp bạn bè, trúng được cú áp phe tôi lại thấy niềm vui và hy vọng tràn về, khi màn đêm buông phủ, với giỏ đồ ăn đeo nặng một bên ghi đông, mắt tôi lại ngời sáng với tiếng cười dòn dã của bé Trường, với đôi má phúng phính thơm ngọt mùi sữa, để rồi quên cả sáng mai, mỗi sáng bước ra khỏi nhà lại bắt đầu bằng một tâm hồn nặng trĩu, cái nặng trĩu.
Ngày qua ngày, tôi luôn trong trạng thái bất thường giữa mưa và nắng nên chỉ thầm mong sao kiếm đủ số vàng chung cho chủ tàu để vượt biên, giấc mộng đã nung nấu bao tháng ngày. Tôi không biết ngày nào giờ nào chúng tôi sẽ được dẫn dắt nhau đi nhất là phải nói thế nào về lời từ biệt với ba mẹ Nguyện. Không hiểu vì bán buôn quen dối trá, môi miếng hay quyết đi cùng chồng con cho bằng được mà tôi đã dùng tiền mua chuộc bố mẹ Nguyện bằng cách để vàng bạc lại hết cho ông bà ngoài một phần phải trả cho chủ tàu. Nào đã xong, tôi còn dùng miệng lưỡi: "Chúng con hứa khi vừa qua đảo sẽ gửi tiền về ngay. Tiền con dấu ở các gói kẹo, bánh, ở hình, ở giầy dép, ở áo quần..." Tôi vạch một tương lai rực rỡ, hứa hẹn toàn những hình ảnh tốt đẹp trong khi tôi chưa hề hình dung trại tị nạn như thế nào, cuộc sống làm ăn và dân bản xứ đối với người tị nạn ra sao. Tôi cứ nhắm mắt, miệng phóng đại những lời ngọt ngào với mục đích duy nhất làm cho ba mẹ Nguyện chỗi dậy lòng tham, bỏ con tép bắt con tôm mà bằng lòng cho chúng tôi đi. Tôi cũng không cảm thấy xấu hổ khi miệng mình bịa chuyện một cách tài tình chỉ vì ba mẹ Nguyện đã quyết định không đi, họ tiếc căn nhà và vườn tược đã tạo dựng mấy chục năm nay. Dù gì cũng phải lo cho tương lai chúng tôi, nhất là Nguyện, bây giờ khác nào cá nằm trong rọ, vùng vẫy cách mấy thì cũng phải chết, không bằng cách này cũng bằng cách khác nếu không tìm đường chui ra ngoài. Thêm vào đó còn tương lai Trường, nếu tiếp tục ở đây suốt đời nó không thể ngóc đầu lên được và rồi cũng như muôn triệu người, không làm cu li cũng là nô lệ cho chế độ.
Làm nô lệ suốt đời... Tôi lại rùng mình. Tôi đang làm gì đây? Gần một tháng nơi đảo tôi đã làm được những gì hay lại nối tiếp quãng đời xưa kia khuất phục trước sự ích kỷ nhỏ mọn của chồng. Tôi không hiểu tại sao mình lại khiếp nhược sợ hãi như vậy? Rõ ràng mỗi lần cãi nhau tôi đâu có chịu bớt mồm nhịn miệng. Rõ ràng mỗi lần Nguyện nổi xung tôi chỉ muốn nhào vào để đón nhận cái chết. Vậy thì vì lý do gì? Phải chăng cái phong kiến lỗi thời đã cột cổ bắt tôi phải chịu đựng hay Nguyện đã lợi dụng những thành kiến khắt khe của người đời để áp chế tôi? Phải chăng đau khổ bởi sự ngu xuẩn của chính mình mà nảy sinh nên từ lâu tôi đã tự cột cổ mình, tự ngụp lặn, giãy dụa trong đầm nước đục không dám phóng mình nhảy ra vì thái độ ươn hèn sợ phải đối diện với thực tại chua chát? Có phải tôi chỉ như con ếch tự bó chân bó tay ồm ồm kêu gào và tự khoác cho mình cái khiếp nhược vì sợ dư luận nguyền rủa, xỉ vả..? Nếu tôi không tự tìm cách phóng lên tìm nơi sáng sủa tốt đẹp mà ở thì sẽ muôn đời chết dần mòn trong cái thòng lọng cuộc đời. Xã hội càng ngày càng tân tiến, tôi không thể đóng khố ở trần, nuốt thịt sống như thời sơ khai còn ăn lông ở lỗ. Ở xã hội văn minh, tôi không thể mãi dùng khúc cây gạch xuống đất cộng trừ nhân chia trong khi chung quanh người ta đã dùng máy tính điện tử. Tôi cũng không thể lọc cọc di chuyển chiếc xe bò làm kẹt đường phố trong khi mọi người chạy xe hơi, xe gắn máy hoặc máy bay, tàu thủy. Tôi cũng không thể đạp xe ngàn cây số thông tin bằng miệng trong khi mọi người đang xử dụng điện thoại, ra đa...
Những gì chậm tiến đã được cải tiến, vậy thì tư tưởng lạc hậu, thành kiến khắt khe làm tổn hại hạnh phúc, làm đau khổ cho đời sống con người sao lại được mãi duy trì? Hôn nhân chúng tôi không hạnh phúc sao lại cứ phải đi đôi như hình với bóng để đày đọa nhau? Tại sao tôi không tìm một phương cách nào đó để giải tỏa sự ràng buộc vô hình? Vẫn biết sự ly dị là chẳng đẹp, chẳng tốt lành gì cả nhưng nếu việc làm đó đưa đến cho con người một cuộc sống mới, một tương lai tốt đẹp và hạnh phúc hơn, mang đến cho tôi một niềm hy vọng vào con, nuôi cho nó ăn học thành tài, thành một người hữu dụng sau này, nhất là tránh khỏi sự nhờm gớm, thoát được những trói buộc hằn trên đôi mắt khinh khi của Nguyện và cũng là một giải thoát cho tôi lột sạch mặc cảm bị hãm hiếp, một tội lỗi không do mình tạo nên thì sự ly dị có phải là một điều xấu?
Thượng Đế ơi xin cho con chút nghị lực và minh mẫn sáng suốt để trả lời bằng đó câu hỏi mà tâm hồn không phải bị dằn vặt...
Màn đêm nhận chìm cảnh vật dưới thung lũng trong bầu không khí nghẹt thở. Cái nghẹt thở đến vã mồ hôi không đủ giảm bớt những ớn lạnh vì người ta vẫn hình dung các oan hồn uổng tử đang ẩn náu trong bóng đêm, lẩn quất đâu đây chưa muốn siêu thoát. Cùng đi theo, gió từng đợt quất vào rừng cây rào rào tiếng lá rớt, âm thanh cuộn tròn như con lốc cất cao, cao mãi, vượt khỏi hai đỉnh đồi phát ra những tiếng hú thê lương não nuột. Tiếng hú nhọn, xoáy sâu vào màng óc kèm theo mùi máu tanh tao đến nôn nao gan ruột. Trong cái im lặng mang sự bí mật bao trùm chợt có tiếng chân chạy huỳnh huỵch và rồi vài phút sau chuông nhà thờ đổ liên hồi; lẫn lộn theo sau là kẻng báo động và tiếng mõ, tiếng trống khua rền. Âm thanh khủng khiếp vang lên giữa đêm khuya tĩnh mịch như giặc cướp tràn về khiến những lo sợ vỡ ra. Tất cả mọi người trong trại đều thức giấc.
- Thôi rồi tàu bị nạn cặp bến.
Thằng Tâm hốt hoảng bật dậy phóng mình ra ngoài. Thằng Hãn, thằng Thụy và Nguyện không kịp xỏ dép cũng băng mình trong bóng đêm. Trang ôm lấy ngực, Mây co rúm người lại còn tôi trống ngực đánh liên hồi.
- Ra mà xem chuyện gì đi chị Phượng.
- Không.
Tôi run rẩy dấu người trong chăn mặc chúng lải nhải bàn tán. Rốt cuộc không chịu nổi tiếng gào khóc và tiếng hò rống thê thảm bên ghềnh đá chúng cũng hơ hải nhập bọn với đám người đang chạy rầm rập. Tôi lạnh người vì những tin tức cứ lần lượt tới từ những người đi xem trở về. Đêm náo loạn như tận thế với những bóng đen tất tưởi qua lại. Những vệt đèn pin lóe lên như con mắt giận dữ của ai đó rồi lại tắt ngấm trong hờn tủi bẽ bàng.
Suốt cả đêm ai nấy như ngồi trên lửa đỏ. Chiếc tàu năm mươi tám người vừa cặp bến khác nào xác con vật khổng lồ rữa thối đầy vi trùng độc hại trôi giạt lên bờ và lan tràn tứ tán, gặm bám vào ruột gan con người, đục đẽo nỗi đau triền miên, niềm đau cố hương muộn màng mất mát. Cái đớn đau không thể kêu gào bằng lời, không thể bộc lộ bằng tiếng khóc, bằng nước mắt, bằng oán than mà thấm nhập vào người làm chương phình từng thớ thịt, làm mí mắt cộm cay và làm trái tim tắc nghẽn. Cái đau, cái oán hờn nhất là thảm cảnh trên biển Đông diễn ra ngay sau hòn đảo nổi, cách trại chưa khỏi tầm mắt.
Người trên tàu kể lại rằng qua bẩy lần bị cướp nhẵn nhụi trần truồng, lần thứ tám cũng là lần cuối cùng, như con chó bị dồn vào nước đường cùng trước sự đau đớn và trước cái chết bắt buộc phải cắn trả để tự vệ, đàn chó ốm trơ xương, đói khát, ốm yếu không đủ sức chống chọi; họ bị những nhát búa phạng vỡ đầu lòi óc, bị những cú giầy nhọn đá bật máu mắt, bị những họng súng lạnh lùng nhả đạn. Người gục xuống ngọt như chặt chuối nhưng khi rơi xuống biển lại nặng nề như mụ đàn bà mang thai. Máu vọt từng vòi, bắn tung tóe đầy lên kẻ sống và người chết. Máu tuôn từng vũng, tràn khỏi tàu từng vệt dài, loang xuống biển loãng ra thành màu đỏ tươi như trận hồng thủy thuở nào.
Máu, máu, máu. Máu chung quanh, mọi nơi, chỗ nào cũng ngập tràn máu và thây người. Đám cướp hung hãn đập mạnh vào những kẻ còn đang giãy giụa hấp hối chưa chịu nằm yên. Số còn lại dúm cả vào một góc, rút nhỏ lại trong khoang tàu nhưng mùi máu tanh khiến bọn chúng hăng tiết. Lại những tiếng dãy chết, lại những tiếng ặc ặc của kẻ vừa bị bẻ gẫy cổ. Kinh hoàng, khủng khiếp và dã man chưa từng thấy. Con người ta chỉ có thể giết nhau vì tranh giành, vì bị chống trả hoặc vì bảo vệ mạng sống; còn đám người kia có khác gì kẻ tàn tật, vừa mù vừa què nằm liệt một chỗ mà vẫn bị lôi ra giết để thỏa mãn sự tức giận. Cơn ác mộng xảy ra chớp nhoáng nhưng gây tai hại không thể lường. Nguyên do xẩy ra vụ thảm sát chỉ vì bọn cướp mang đầy hành động thú vật với lối hãm hiếp rừng rú chưa từng thấy. Chúng công khai lột quần áo đám phụ nữ ngay trong khoang thuyền và hiếp trước mắt mọi người như một thách thức khinh dể đã thúc đẩy đám thuyền nhân vùng dậy chống cự. Một người bị đánh, một nhóm nhào vào và cứ thế loang nhanh như lửa cháy. Vài giờ sau khi bọn cướp bỏ đi, nhờ mực nước dâng cao, con tàu như được oan hồn hướng dẫn cứ lững lờ trôi, len lách qua những ghềnh đá và dạt vào chiếc cọc cao ngay sau lưng thư viện.
Cả đêm tiếng gõ mõ cầu hồn và tiếng lầm rầm đọc kinh cứ liên tục không ngừng. Mọi người cùng thức chia sẻ cơn hoạn nạn đau thương với những thuyền nhân còn sống sót để rồi bàng hoàng nhìn nạn nhân như nhìn chính họ của những ngày tháng trước đây. Đêm vẫn dài dù trời đã sáng tỏ. Từng bệt máu bầm dính chặt trên khoang. Sườn tàu như chiếc kiệu tang sơn đầy những hình thù quái gỡ bằng máu người được bọc kín không cho những oan hồn bung ra tìm lỗ thở. Mãi khi nắng lên cao, trên cao ủy mới cho đám thuyền nhân nhập trại vì lý do chờ thủ tục giấy tờ nhưng thực ra họ còn bị bọn Thái lằng nhằng đòi đút lót vàng bạc như những chuyến trước đây. Gọi là nhập trại cho nhẹ nhàng chứ số nhập viện lên tới mười lăm người, nhập nhà thiêu hai mươi người, phần còn lại rớt rơi cả dưới đáy biển làm mồi cho cá. Đám thanh niên được phân chia công tác ai làm phận nấy. Họ chạy đi mượn băng ca, khăn liệm và những cái xác còn nguyên máu được khiêng bộ thẳng đến nhà thiêu bằng ngõ tắt gần nhất, dĩ nhiên quãng đường ngắn đi qua nhà tôi.
Một cái xác được khiêng ngang, hai cái rồi ba cái, càng đếm, đầu tôi càng mê muội dù đã đứng hẳn lên nghiêm trang, một hình thức tiễn đưa và cũng tỏ sự chia buồn, kính trọng người chết. Trên băng ca qua mảnh khăn phủ, máu từ thây người vẫn còn rịn ra như cố làm tang chứng oan ức. Những cái xác sõng xoài nằm im bất động nhưng lại có tác dụng khiến lòng tôi nhói lên từng cơn vội vã, thôi thúc từ trong ruột trong gan để nước mắt chảy ra mà hai mí vẫn cứng đơ không thể chớp. Cái chết đối với loài người quá vô tình hờ hững và người nằm xuống là hết nhưng để lại kẻ sống với những ám ảnh không nguôi. Số mạng đâu thể giết một lúc bằng đó người. Một trái bom nổ, một tràng đại liên là những mạng người ngã gục nhưng ít ra cũng biểu hiệu cho một chiến tranh khốc liệt. Còn những người này? Chiến tranh gì đây hay cái hoà bình giả tạo độc hại đã đẩy họ vào bước đường cùng, biết đi là sẽ chết, là sẽ bị cướp mà vẫn cứ đi. Người ta bằng lòng chấp nhận vùi thây trên biển cả nếu lỡ gặp sự rủi còn hơn lần mòn chết ở quê nhà trong sự kềm kẹp của cuộc đời trâu ngựa.
Chiếc cáng chỉ là miếng vải bố căng ngang vào hai cây dài. Hai người khiêng hai đầu kẻ trước người sau cứ thế nhịp nhàng từng bước, rút ngắn đoạn đường lồi lõm như hai con kiến càng khiêng hột gạo. Một người trật dép phải đứng lại nhưng khi xỏ vào mới hay nó bị tuột cả quai, vì thế chiếc cáng bị chao khi đặt xuống lối đi. Theo độ nghiêng, gió hất tấm khăn hở một mảng vừa đủ lộ khuôn mặt người chết. Mắt tôi dính chặt vào đôi mắt đang mở trừng như loài ong đáp xuống nhụy hoa say sưa hút mật. Cái nhìn như ăn như nuốt khiến hai đồng tử xác chết nhỏ dần và cuối cùng chỉ còn lại màu trắng nhờ nhợ kéo màng che kín cả những gân máu. Đôi mắt bây giờ mới đúng là đôi mắt của kẻ hãi sợ tột cùng trước khi chết. Nó phơi bày cả một thảm kịch hòa hợp với vệt chém ngay giữa trán. Vết chém hằn sâu tựa một cái rãnh nhỏ ứa những máu đen đặc như máu đỉa; vài con nhặng xanh bay theo tự lúc nào thừa dịp đáp xuống hút chặt lấy vệt máu, một sự rút rỉa nhờm gớm mà chỉ thấy ở những đàn quạ dành ăn trên xác người hoặc những xác vật rữa thối.
Người khiêng cáng đã gắn được quai dép nên kéo khăn phủ mặt thiếu phụ lại và đứng dậy tiếp tục đi nhưng để lại đôi mắt đeo theo tôi ám ảnh. Nó lẩn quất ngay trước mặt, trên phản, ở bếp và ngay cả trong chén cơm. Đôi mắt kèm theo mái tóc dài và làn da ngăm đen bánh mật cho tôi liên tưởng đến mẹ Hoài. Cái chết oan ức khiến mắt mẹ cũng không thể khép lại được, như người đàn bà bất hạnh kia. Sự ám ảnh gây cho tôi nỗi sợ hãi mơ hồ không thể giải thích. Hình như có sự sắp đặt nào đó. Tại sao xác chết lại được dừng ngay trước cửa cho tôi nhìn thấy mặt? Bà và mẹ Hoài có những oan ức nào không thể giải bày? Mái tóc, màu da, đôi mắt, cả ba điểm giống nhau chắc chắn không thể là sự trùng hợp vô tình.
Buổi trưa khói đen ngùn ngụt bốc lên từ phía nhà xác, mùi da thịt khét khê đảo ngược cả ruột gan khiến không ai nghĩ đến ăn uống. Ba cái xác cùng đẩy vào lò thiêu một lúc nhưng vẫn không thể kết thúc trong một ngày. Những xác còn lại đặt sẵn hàng dọc trong ngôi nhà trống trơn không vách che chỉ mỗi mái tôn chai lạnh, tàn nhẫn. Nhà xác sát cạnh chợ nhưng người đến coi thì ít mà ruồi nhặng bu lại thì nhiều. Những con ruồi xanh to bằng hột bắp len lỏi trong hốc mũi, trong miệng. Lũ ruồi quái quỷ hơn cả gió vì gió trên cao thỉnh thoảng chỉ luồn vào một vài lần đủ tốc mảnh khăn phủ rồi thôi, còn chúng chui vào lại chui ra, bay lên đáp xuống lẹ làng hơn phi cơ phản lực, đôi cánh mỏng manh rung đều phát ra những âm thanh o o đập thẳng vào màng nhĩ làm người bị nghe ngứa ngáy khó chịu. Đã vậy chúng còn lượn vòng quanh dãy chợ, đáp vào tận hàng quán, có con hiên ngang phóng hẳn vào nồi cháo đang ngùn ngụt bốc hơi. Nguyên một ngày chợ búa ế hẳn đi, các quán ăn cũng vắng khách vì không ai nuốt cơm vào miệng mà không tưởng tượng ra đang nuốt miếng thịt mang đầy hơi hám của người chết.
Người ta mong cho ngày chóng qua nhưng lại sợ đêm về, sợ những âm thanh từ tiếng chuông, tiếng tụng kinh, tiếng gõ mõ cầu siêu của đêm trước vòng trở lại. Bóng tối như tấm vải the đen, đậy không kín những chuyện bí mật của thế giới bên kia. Chẳng cần phải vén lên họ cũng có thể tưởng tượng dưới lớp vải lố nhố những khuôn mặt hãi hùng ghê rợn đang nhe nanh dọa nạt. Có thể vì thế mà giấc ngủ khó tìm nhưng cũng có thể bụng đói, tinh thần rách nát, tim gan vỡ vụn nên không ai yên giấc. Ngủ không yên nhưng họ muốn nằm im gói kín tâm trạng mình, không muốn nhắc đến như sợ khơi động nỗi buồn mạnh mẽ thêm.
Lại một đêm nặng nề chậm chạp trôi và rồi chợt đứng lại. Hình như luồng gió bị một phù phép nào đó nuốt gọn nên mọi tiếng động dù thật nhẹ cũng được khuếch đại cho lớn hơn ra. Trang trở người, chân đạp trúng vách phên làm tôi giật mình. Chính ra mọi cử động của những người nằm chung quanh giúp tôi an tâm và vững bụng hơn nhưng không hiểu sao lúc này lại tác dụng trái ngược. Ngay tiếng lá rơi ngoài vườn sau cũng rõ ràng như bước chân ai ngập ngừng. Không phải một bước, hai bước mà nhiều bước, bước nọ xô đẩy đạp lên bước kia như những bóng ma lòng vòng quanh nhà; vách phên cũng cọ quẹt như có người muốn chui vào. Toàn thân tôi nổi da gà. Hình như đôi mắt của người đàn bà lúc sáng lẩn quất đâu đây, đôi mắt trắng dã không có đồng tử, đôi mắt đã kéo màng như người loà. Tiếng sột soạt mỗi lúc một lớn hơn và một hơi nóng phà ngay trên mặt quyện theo mùi thiêu khét lẹt. Mắt tôi mở trừng trừng nhìn khối đen khổng lồ đang chụp xuống ngực, nặng nề khó thở nhưng không thể ú ớ kêu la.
- Phượng, con đừng sợ ...
Tôi không tin ở tai mình nhưng nhìn rất rõ, gương mặt của người chết, của người đàn bà trên chiếc tàu năm mươi tám người khiêng ngang nhà sáng nay, nổi bật trong khối đen đang được thu gọn lại. Đúng rồi, mái tóc dài, làn da bánh mật.
- Phượng đừng sợ, mẹ Hoài đây mà.
Tiếng nói êm dịu trấn tĩnh được tôi phần nào nhưng bản tính sợ hãi nhút nhát từ nhỏ và mẹ là người biết rõ hơn ai hết.
- Chó con chết nhát. Phượng này, rờ nốt ruồi ở sau gáy mẹ xem có lớn hơn tí nào không?
Bàn tay nóng ấm của bà tỏa ra một sức hút mãnh liệt tựa khối nam châm cực mạnh mà thân thể tôi chỉ là những mảnh sắt vụn kết tụ nên đã bị sức hút điều khiển. Cái nốt ruồi lồi lên bằng hạt đậu, điểm mốc quen thuộc của những tháng ngày mân mê khi nằm nghe mẹ kể chuyện, điểm mốc của sự thương yêu máu mủ ruột thịt nên không có khoảng cách ngăn vì thế vật nặng nề trên ngực tôi tự dưng cũng biến mất. Tôi ngồi bật dậy, nhanh nhẹn như đứa bé đang giấc ngủ ngon nghe tin mẹ về chợ. Trong thoáng giây thời gian chợt thâu hẹp lại để tôi thấy mình nhỏ bé như thuở nào và choàng tay ôm chặt lấy mẹ. Mùi da thịt quen thuộc, mùi áo quần ướp long não làm tôi ngất ngây.