Tôi không biết là tôi buồn bã hay hài lòng khi sắp đến lúc phải chia tay tiến sĩ Strong và kết thúc việc học tập của tôi. Tôi thật sung sướng ở nhà ông, và tôi thực sự gắn bó với ông, nhưng mặt khác, tôi muốn trở thành một thanh niên tự do hoạt động. Cô tôi thường bàn bạc với tôi về tương lai của tôi và bảo tôi đi du lịch ít ngày rồi hãy hay. Trước tiên tôi đến Canterbury chào từ biệt Agnès và ông Wickfield, cùng ngài tiến sĩ Strong tốt bụng. Rồi tôi đi Luân Đôn tìm gặp lại Steerforth bạn cũ của tôi nay đã trở thành sinh viên ở Oxford. Anh đi cùng tôi đến Yarmouth nơi tôi lưu lại ít ngày tại nhà chị Peggotty chung thủy của tôi. Sau đó tôi gặp lại cô tôi. Giá như tôi có được đi vòng quanh thế giới thì cũng không thể thỏa lòng hơn là ngày chúng tôi hội ngộ. Cô tôi khóc hết nước mắt trong lúc ôm hôn tôi. - Này ! Trot, - lát sau bà nói, - cháu đã nghĩ đến đề nghị của bà về việc cháu làm biện lý chưa ? Hay là cháu chưa nghĩ tới ? - Cháu đã nghĩ nhiều đến việc ấy, bà thân yêu của cháu ạ. Cháu đã trao đổi nhiều lần với Steer-forth. Cháu thích việc ấy không sao kể xiết. - Vậy thì bà rất vui, - cô tôi nói. - Cháu chỉ thấy một trở ngại, thưa bà. - Trở ngại gì, Trot ? - Nghiệp đoàn ấy, theo cháu gồm rất ít thành viên, liệu điều kiện nhận vào có quá khắt khe không ? - Việc này trọn gói tốn tới một ngàn bảng. -Cô tôi nói. - Vậy, thưa bà thân mến, - vừa nói tôi vừa lại gần bà, - chính đó là điều cháu băn khoăn. Đó là một khoản tiền rất lớn và bà đã chi tiêu nhiều cho việc ăn học của cháu rồi. - Trot, cháu yêu quý của bà, cái đích của đời bà chính là gây dựng cho cháu nên người có đạo.đức, biết lẽ phải và sung sướng. Đó là tất cả nguyện ước của bà, và ông Dick cũng đồng ý như vậy. Bà ngừng một lát để nắm lấy bàn tay tôi, rồi nói tiếp : - Từ khi cháu về nhà này, cháu đã làm vinh dự cho bà. Cháu đã là lý do để bà kiêu hãnh và hài lòng, không ai có quyền hơn cháu về tài sản của bà và cháu là con nuôi của bà. Bà chỉ yêu cầu cháu hãy là một đứa con giàu yêu thương đối với bà, hãy chịu đựng những ý ngông và tính khí thất thường của bà. Vậy là chúng ta đã đồng ý và thỏa thuận như thế. Trot, thôi đừng nói về chuyện ấy nữa. Hãy ôm hôn bà đi và ngày mai, sau khi ăn sáng, chúng ta đến Pháp viện. Hôm sau chúng tôi làm cuộc hành trình đi Luân Đôn. Qua chiếc cửa vòm hơi thấp là vào đến Pháp viện. Qua những chiếc sân tối và buồn, những lối đi hẹp dẫn chúng tôi đến thẳng văn phòng được hắt ánh sáng từ trên xuống của các ông Spenlow và Jorkins. Trong tiền sảnh, hai ba viên thư ký bận viết sổ sách giấy tờ. Người đàn ông gầy gò có bộ tóc giả màu nâu nom như chiếc bánh mật ngồi một mình trong góc, đứng dậy tiếp bà cô tôi và đưa chúng tôi vào văn phòng ông Spenlow. Ông Spenlow là một người đàn ông tóc vàng đi đôi bốt không chê vào đâu được, thắt cà vạt trắng và áo sơ mi cổ cồn cứng đờ. ông đeo dây đồng hồ to bằng vàng. Bà cô tôi giới thiệu tôi với ông Spenlow, ông tiếp tôi rất lịch sự. Rồi ông nói: - Vậy là ông Copperfield có ý định theo nghề của chúng tôi. Hôm trước được gặp cô Trotwood, tôi đã tình cờ nói rằng tại văn phòng tôi còn trống một chỗ. Cô Trotwood đã cho tôi biết bà có một cháu trai bà nhận làm con nuôi và bà đang tìm cho cậu ta một địa vị tốt. Tôi cúi chào tỏ lòng biết ơn. - Và tiền bảo hiểm kể cả đăng ký là một ngàn bảng,như tôi đã thưa với cô Trotwood, - ông Spen-low nói tiếp. - Tôi không quan tâm lắm đến tiền bạc. Những người cộng tác với tôi, ông Jorkins có ý kiến về việc này, và tôi buộc phải tôn trọng ý kiến của ông ta. Tóm lại, Jorkins cho rằng một ngàn bảng chẳng đáng là bao. Tôi rất hoảng sợ khi nghĩ đến cái nhà ông Jorkins khủng khiếp ấy, nhưng sau này tôi phát hiện ra đó là một con người hiền lành, hơi trì độn và vai trò của ông ta trong nghiệp đoàn là bao giờ cũng ở phía sau, là cho người ta mượn tên để đưa ông ra như là một con người cứng rắn nhất, khe khắt nhất..Thỏa thuận là tôi làm thử một tháng. Bà cô tôi cũng đã cắt một mẩu tin đăng trên báo để tìm thuê cho tôi một căn nhà. Căn hộ ở tầng trên ngôi nhà, gồm một phòng đợi có cửa sổ cao lắp kính, một phòng khách nhỏ và một phòng ngủ. Đồ đạc hơi cũ, nhưng tôi không khó tính, và từ cửa sổ ngôi nhà nhìn thấy con sông chảy qua. Tôi rất thích thú. Cô tôi và bà Crupp chủ nhà rút vào gian bếp để thảo luận các điều kiện trong khi tôi ngồi lại trên ghế tràng kỷ tại phòng khách. Sau một cuộc "đấu" khá lâu, hai "đấu thủ" xuất hiện và tôi vui mừng thấy rằng công việc đã xong xuôi qua nét mặt bà Crupp cũng như nét mặt cô tôi. Sau hai ngày hai đêm, tôi có cảm tưởng như đã ở cả năm trong căn nhà này. Một buổi sáng, lúc tôi chuẩn bị ra khỏi nhà thì nhận được tấm thiếp như sau : "Anh Trotwood thân mến, em đang ở nhà người lo toan công việc cho ba em, ông Water-brook, tại Elyplace, Holborn. Hôm nay anh có đến thăm em được không ? Em sẽ có nhà vào giờ anh hẹn đến. Em của anh, rất quý mến. Agnès." Khoảng bốn giờ tôi tới nơi. Người ta đưa tôi vào một phòng khách nhỏ, hơi ngột ngạt, ở đó tôi thấy Agnès đang đan chiếc túi lưới. Tôi luôn nghĩ rằng nàng là thiên thần phúc hậu của tôi, tôi đã nói điều đó với nàng và cảm thấy còn phải nói với nàng thêm nữa. - Đúng, Agnès ạ, em là thiên thần phúc hậu của anh. - Nếu đúng là như vậy, - nàng nói. - Em muốn anh hãy cảnh giác với vị ác thần của anh. Đó là chuyện em hết sức quan tâm. - Agnès thân mến, có phải em định nói đến Steerforth... - Vâng, anh Trotwood ạ,- Nàng đáp. - Thế thì, Agnès, em đã lầm to, anh sẽ tha thứ cho em khi nào em đối xử công bằng với Steerforth và yêu quý anh ấy như anh quý mến anh ta. - Không tha thứ trước đó ư ? Tôi thoáng thấy như có một cái bóng lướt qua gương mặt nàng, nhưng nàng mỉm cười với tôi ngay và chúng tôi trở lại tin nhau như xưa. Than ôi ! Sau này tôi mới thấy Agnès đúng. Steerforth làm đau khổ những người vô tội, cuối cùng bất hòa với mẹ mình, bỏ đi du lịch để lánh xa bà và chết trong một vụ đắm tàu..Agnès hỏi tôi có gặp Uriah không. - Uriah Heep ấy à ? - Tôi nói, - Không, hắn ở Luân Đôn à ? - Ngày nào hắn cũng đến đây tại văn phòng ở tầng trệt. Trotwood ạ, em e rằng hắn đang chạy chọt vụ việc mờ ám nào đó. - Vụ việc đó làm em lo ngại, Agnès, anh thấy rõ như thế. Việc gì vậy ? - Em cho là hắn sắp trở thành cộng sự của ba em. - Ai kia ? Uriah ! Liệu tên khốn nạn đó có thể lọt vào vị trí tốt đẹp đến thế bằng những điều đê tiện quỷ quyệt của hắn hay không ? - Tôi bất bình kêu lên. - Chặn đứng ngay lại, Agnès, nếu còn kịp. - Ba em muốn em tin rằng đó là một việc do chính ba em lựa chọn, nhưng hôm nọ khó khăn lắm mới không giấu được em là ông bị ép buộc. Em lo quá. - Bị ép buộc ! Agnès ! Ai đã ép buộc ba em ? - Uriah, - nàng đáp sau một lát lưỡng lự. -Uriah đã tìm cách để hắn trở nên vai trò cần thiết đối với ba em. Hắn đoán đúng những điểm yếu của ba em, hắn thúc đẩy thêm và lợi dụng được những nhược điểm ấy. Anh Trotwood ạ, em cho là ba em sợ hắn. - Sợ hắn ! Một tên lang sói ! - Tôi kêu lên. Xưa nay ba em luôn yêu thương ân cần với em, - Agnès cố giấu nước mắt nói tiếp. - Em biết ba đã chịu mọi sự thiếu thốn vì em. ôi ! Nếu em có thể vực được ba em lên. Tôi chưa thấy nàng khóc bao giờ. Tôi bối rối đến nỗi chỉ tìm ra được những lời trẻ con vớ vẩn để an ủi nàng. Nét mặt nàng trở lại thanh thản. - Có lẽ rồi ra chúng ta không gặp riêng nhau được lâu, - Agnès nói với tôi, - và giờ đây em đang có cơ hội, anh Trotwood ạ, em khẩn khoản yêu cầu anh hãy tỏ lòng khoan dung với Uriah. Chung quy làm vậy có lẽ chỉ là thừa nhận tư cách của hắn mà thôi, vì ta chẳng có điều gì phản đối hắn được. Dù sao anh hãy nghĩ đến ba em và đến em. Agnès không kịp nói thêm nữa, vì cánh cửa mở ra và bà Waterbrook bước vào. Bà mời tôi đến dự bữa ăn tối hôm sau. Hôm sau lúc tôi đến, khi mở cửa ra mặt đường phả đầy hơi đượm mùi thịt cừu khiến tôi biết là khách mời không phải chỉ riêng tôi..Tôi làm quen với ông Waterbrook và bày tỏ lòng tôn kính của tôi với bà Waterbrook. Tôi thấy Uriah Heep mặc đồ đen giữa đám người cùng bọn. Sau khi bắt tay tôi, hắn chỉ làm mỗi một việc là lảng vảng quanh tôi và mỗi lần tôi nói với Agnès một lời, tôi lại thoáng thấy trong một xó khóe mắt lờ đờ và bộ mặt như xác chết của hắn. Những khách mời khác cho tôi cảm giác họ đã được ngâm trong nước đá, y như rượu sâm banh vậy. Do tương phản, tôi sung sướng gặp lại giữa đám người lạnh ngắt ấy gương mặt đôn hậu của người bạn cũ Tommy Traddles của tôi. ông Wa-terbrook thấy chúng tôi quen nhau liền nói với tôi về anh chàng Tommy tội nghiệp như thể một luật gia thật tầm thường không đáng kể, sáng nay mới mời cậu ta nhằm lấp một ghế trống mà thôi. Tôi giới thiệu Agnès với Traddles. Anh rất rụt rè nhưng đồng thời rất hòa nhã đáng mến và vẫn luôn tốt bụng như xưa. Anh ra về sớm vì sáng hôm sau anh phải đi vắng một tháng. Chúng tôi hẹn khi anh trở về sẽ gặp lại nhau. Vài ngày sau Agnès quay về Canterbury. Tôi tiễn nàng ra xe. Uriah Heep cũng đi chuyến xe đó. ở cửa xe hắn như con diều hâu háu đói quanh quẩn không rời chúng tôi, nuốt lấy nuốt để mỗi lời chúng tôi trao đổi với nhau. Sau khi Agnès ra về, tôi rất băn khoăn về tất cả những gì nàng đã thổ lộ. Tuy nhiên ngày lại ngày, tuần lại tuần cứ trôi đi. Tôi đã làm việc hẳn tại văn phòng các ông Spen-low và Jorkins. Bà cô tôi cho tôi tám mươi bảng mỗi năm trả tiền thuê nhà và nhiều khoản chi khác cho tôi. Nửa tháng sau khi tôi làm việc hẳn chỗ các ông Spenlow và Jorkins, tôi được ông Spenlow mời ngày thứ bẩy về căn nhà thôn quê của ông ở Nor-wood. Trên đường đi ông cho tôi biết rằng ông có một người con gái tốt nghiệp một trường nội trú tại Pháp đang ở Norwood. Một khu vườn rất đẹp trải dài trước ngôi nhà. Thảm cỏ duyên dáng, tôi nhác thấy trong bóng tối những đám cây và những giàn cây hình vòm theo mùa xuân về phủ đầy hoa và cây leo. Chúng tôi vào trong nhà và ông Spenlow nói với tôi : - Xin giới thiệu với anh Copperfield con gái Dora của tôi và bà cô đây là người bạn tin cẩn của Dora. - Tôi đã gặp ông Copperfield rồi. - Một giọng nói rất quen cất lên, giữa lúc tôi lí nhí chào vài tiếng..Không phải Dora nói, không ! Đó là người bạn tin cẩn, cô Murdstone ! - Cô có khỏe không, thưa cô Murdstone ? -Sau khi định thần lại tôi hỏi khẽ. - Hi vọng là cô vẫn khỏe chứ ? - Rất khỏe, - Bà ta đáp. - Còn ông Murdstone có khỏe không ạ ? - Sức khỏe em tôi khá lắm, xin cảm ơn cậu. - Tôi rất hài lòng được thấy - ông Spenlow nói với vẻ hơi ngạc nhiên, - rằng cô Murdstone và cậu lại đã quen biết nhau. - Cậu Copperfield và tôi là thông gia đấy, - Cô Murdstone nói giọng thản nhiên và nghiêm nghị. -Chúng tôi có quen biết nhau chút ít, ngày xưa, lúc cậu ấy còn ít tuổi. Do hoàn cảnh đưa đẩy chúng tôi xa nhau từ dạo ấy; tôi không nhận ra cậu ấy nữa. Tôi đáp là tôi có thể nhận ra bà ở bất kỳ nơi nào, đúng là như vậy. - Con gái Dora của tôi bất hạnh, thiếu tình mẫu tử - ông Spenlow nói tiếp, - và cô Murdstone rất vui lòng bầu bạn bảo vệ cho nó. Tôi nhìn Dora và dường như qua cung cách hơi bướng bỉnh và khó chiều của cô, tôi thấy cô chưa hẳn đã sẵn sàng đặt niềm tin cậy vào cô Murd-stone trong vai trò làm bạn và người bảo trợ. Tôi đi vận y phục để dự bữa tối. Lúc quay xuống nhà tôi gặp cô Murdstone. - Chúng ta chưa bao giờ đồng tình với nhau, - bà nói với tôi, - và tôi không thay đổi ý kiến của tôi đối với cậu, nhưng vì hoàn cảnh cuộc đời đẩy chúng ta gặp lại nhau, vậy không cần thiết phơi bày những điều xung đột khiến mọi người chú ý đến chúng ta. - Cô Murdstone ạ, - tôi đáp, - tôi thấy ông Murdstone và cô, các vị đã đối xử độc ác với mẹ tôi và tôi. Tôi sẽ giữ ý kiến ấy suốt cuộc đời tôi. Nhưng tôi hoàn toàn tán thành đề nghị của cô. Suốt buổi tối, tôi chỉ chú ý đến Dora. Lúc chia tay nàng mỉm cười và chìa bàn tay nhỏ xinh cho tôi. Hôm sau, nàng hỏi tôi : - Anh không quan hệ với cô Murdstone có phải không ? - Không, không có gì hết, - tôi đáp. - Cô ấy chán lắm, - Nàng nhăn mặt nói tiếp, - Jip là một kẻ bảo vệ còn tốt hơn cô Murdstone nhiều, có phải không hả Jip..Jip là con chó nhỏ yêu thích của nàng. Nó chỉ hờ hững nhắm mắt lại trong lúc nàng đặt một nụ hôn lên đầu nó. Suốt cả ngày, tôi chỉ nghĩ đến Dora. Không may chúng tôi phải chịu đựng sự có mặt thường xuyên của cô Murdstone. Sáng sớm hôm sau bọn tôi lên đường. Dora dậy sớm không kém gì bọn tôi và đã có mặt ở bàn để pha trà cho chúng tôi, và tôi đã được hưởng niềm thú vị gượng gạo đáng buồn là nhấc mũ chào nàng từ trên xe ngựa bốn bánh, trong khi nàng đứng ở ngưỡng cửa bế Jip trong tay. Từ đó trở đi tôi rất khó tính trong việc chọn cà vạt, tôi mang găng màu sáng và những đôi giày rõ thật khít vào chân. Vài tuần sau, tôi nghĩ rằng Traddles có thể đã về và tôi quyết định đến địa chỉ anh đã dặn. Khu phố nơi anh ở có phần kém vui. Tôi đến trước ngôi nhà có một chị đầy tớ đang tranh luận với người bán sữa về một chỗ ghi sổ chưa thanh toán. - Đây có phải là nhà ông Traddles không ạ ? - Tôi hỏi. ở tận cùng hành lang có tiếng đáp : - Phải. Thế là tôi bước vào rồi leo cầu thang lên phía trên theo sự chỉ dẫn của người tớ gái. Tôi gặp Trad- dles ở chiếu nghỉ. Nhà chỉ có một tầng lầu và anh thân tình mời tôi vào căn phòng ở phía trước. Phòng khá sạch sẽ tuy đồ đạc sơ sài. Tôi thấy rằng toàn bộ nơi anh ở chỉ gồm mỗi phòng này, một chiếc tràng kỷ làm giường nằm; bàn chải và xi giấu giữa đám sách, sau cuốn tự điển, trên chiếc giá cao nhất. Bàn của anh đầy giấy tờ; anh mặc bộ áo quần cũ. Sau khi an tọa, tôi bắt tay anh lần thứ hai và nói : - Tôi rất mừng được gặp anh, Traddles ạ. - Chính tôi mới mừng được gặp anh thì có. Tôi nhận thấy ở nhà Waterbrook anh bao giờ cũng vẫn là một chàng trai tốt bụng, vì thế tôi cho anh địa chỉ nhà ở chứ không phải văn phòng làm việc của tôi. - Anh có một văn phòng luật sư ? - Tôi có một phần tư văn phòng và hành lang, cũng như một phần tư người thư ký, - Traddles nói tiếp, - nghĩa là bốn người chúng tôi chung nhau thuê một văn phòng luật sư, một thư ký để có cái vẻ tiến hành các dịch vụ. Trong nụ cười tiếp sau lời giải thích ấy, tôi thấy lại tính cách giản dị của anh và cái số anh thường ít gặp may mắn..- ông Waterbrook nói với tôi anh định theo nghề luật sư ? - Vâng, tôi học nghề luật sư. Nhưng phải trả một trăm bảng, đó là chuyện rất to lớn. Anh nói thêm kèm theo cái nhăn mặt như thể anh vừa nhổ mất chiếc răng vậy. - Anh có ông bác giúp đỡ trong việc học kia mà ? - Đúng vậy, nhưng ông bác mình đã mất ít lâu sau ngày mình ra khỏi ký túc xá. - Thật đáng tiếc ! - Phải, ông là lái buôn dạ đã về nghỉ và ông cho mình quyền thừa kế, nhưng lớn lên mình không hợp ý ông. - ý anh nói gì vậy ? - Tôi hỏi. - ông ta trông đợi ở tôi những điều khác hẳn, - anh nói, - và vì hờn dỗi tôi ông kết hôn với chị giúp việc trong nhà. - Và lúc ấy anh làm thế nào ? - ồ ! Chẳng thế nào cả. Tôi ở lại với họ ít lâu trong khi chờ đợi ông giúp đẩy tôi lên tí chút trong xã hội, nhưng không may bệnh thống phong của ông chạy lên dạ dày và ông mất. Bấy giờ cô nàng lấy một anh chàng trẻ tuổi và tôi chẳng có địa vị gì. - Nhưng cuối cùng chẳng lẽ ông ta không để lại chút gì cho anh ? - ồ ! Có chứ, sự thực, - Traddles nói, - ông để cho năm mươi ghi nê đủ trả tiền nhập học của tôi. Anh cũng giải thích với tôi là anh làm vài việc vặt, đặc biệt là làm ở một nhà xuất bản đang tiến hành xuất bản bộ bách khoa thư. Anh cho tôi biết rằng anh là chồng chưa cưới của cô con gái một vị mục sư ở Devonshire có mười người con. Họ còn phải đợi lâu mới lấy được nhau, nhưng họ kiên nhẫn chờ. - Thường ngày, - anh nói tiếp, - tôi ăn cùng với những người ở tầng trệt, họ là những người rất đáng mến. ông và bà Micawber hiểu đời và là những người rất tử tế. - Anh Traddles thân mến, - tôi kêu lên, - anh vừa nói gì vậy ? Tôi rất quen ông bà Micawber. Đúng lúc đó có tiếng gõ dồn dập hai tiếng một ở cánh cửa mở ra đường, tôi biết ngay là tiếng gõ của ông Micawber. Tôi bảo Traddles mời chủ nhà của anh lên. Traddles vừa cúi xuống tay vịn cầu thang để gọi thì ông ta đã lên đến nơi. Nom ông chẳng có gì thay đổi; chiếc quần bó sát, chiếc can, áo sơ mi cổ cồn và kính kẹp mũi vẫn như cũ..- Xin lỗi, thưa ông Traddles, - ông Micawber nói, - quả tình tôi không ngờ lại gặp trong chỗ ở riêng của ông một người khách lạ. Ông Micawber khẽ chào tôi và chỉnh cổ áo sơ mi. - ông có khỏe không ? Thưa ông Micawber, -Tôi hỏi ông ta. - Thưa ông, - ông Micawber nói, ông thật tốt bụng. Tôi vẫn được như cũ. - Còn bà nhà, thưa ông ? - Tôi hỏi tiếp. - Thưa ông, - ông Micawber nói, - bà nhà tôi cũng vẫn bình thường. - Và các cháu nữa, thưa ông Micawber ? - Tôi rất vui mừng thưa với ông rằng chúng đều khỏe cả. - ông Micawber nói. Đến lúc ấy, ông Micawber dù đang đứng trước mặt tôi, thế mà chưa nhận ra tôi. Nhưng khi thấy tôi mỉm cười, ông quan sát tôi kỹ hơn, lùi lại một bước, rồi kêu lên : - Sao lại thế này ? Có đúng là Copperfield mà tôi may mắn được gặp lại hay không? Và ông xiết thật chặt hai bàn tay tôi. - ›n chúa! Thưa ông Traddles, - ông Micawber nói, - thật không ngờ ông lại chơi với người bạn thời trẻ tuổi của tôi, anh bạn tín cẩn của tôi từ thuở xa xưa. Dường như Traddles rất sửng sốt trước tất cả những lời xưng hô ấy. ông Micawber cúi xuống tay vịn cầu thang gọi vợ ông lên phòng của Traddles. - Copperfield à, ông tiến sĩ Strong của chúng ta có khỏe không, - ông Micawber nói, - cả các bạn chúng ta ở Canterbury nữa? - Tôi chỉ nhận được những tin tức tốt lành về họ. - Tôi rất vui về điều ấy. Bà Micawber xuất hiện, tay đi găng màu nâu. - Bà yêu quý ơi, - ông Micawber vừa nói vừa dắt bà lại chỗ tôi, - đây là một quý công tử có tên là Copperfield muốn làm quen lại với bà. Bà ta ngạc nhiên đến nỗi như muốn xỉu đi, mọi người phải đi lấy nước lạnh tại vòi nước ngoài sân cho bà. Ông Micawber năn nỉ mời tôi ở lại dùng bữa tối. Đáng lẽ tôi sẵn lòng nhận lời nếu không đọc được trong ánh mắt bà Micawber chút băn khoăn khi bà nhẩm tính số lượng thịt ướp lạnh còn lại trong tủ. Tôi tuyên bố rằng tôi đã nhận lời chỗ khác, và khi nhận thấy bà Micawber nhẹ người như trút được gánh nặng, tôi liền khước từ mọi lời khẩn khoản của chồng bà. Nhưng tôi nói với các bạn rằng tôi sẽ không đi nếu các bạn không hứa sẽ cùng đến ăn bữa tối ở nhà tôi. Vậy là thỏa thuận xong..Tiễn tôi về, ông Micawber nói : - Copperfield thân mến, lúc này tôi đang bận làm công việc ủy thác lúa mì. Công việc này không có lãi, nói cách khác, nó chẳng mang lại lợi lộc gì hết. Do vậy tôi bị túng bấn tạm thời. Tuy nhiên tôi vui mừng nói với cậu rằng tôi đang mong đợi cơ may gặp được chuyện gì đó giúp tôi gỡ được khó khăn, tôi cũng như anh bạn Traddles của cậu, tôi quan tâm thực sự đến anh ấy. Ông Micawber bắt tay tôi lần nữa và chúng tôi chia tay.