Poirot lại đi theo con đường mà Miranda đã dẫn lúc đến, để rời nhà Judith Butler. Khi tới gần hàng rào, ông nhận thấy ở các bụi cây có một khoảng trống mới mở, không phù hợp với khổ người em bé. Ông đi ngược theo lối mòn của mỏ đá cũ, một lần nữa trầm trồ ngắm nhìn cảnh đẹp trước mắt.
Poirot suy nghĩ một lát về cái loại di chúc mà các bà nhà giàu thường thảo, và những lời nói dối họ thường dùng để che giấu ý định của mình. Ông tự hỏi họ thường cất di chúc ở đâu, rồi tự đặt mình vào địa vị của người định làm giả và đánh tráo. Rõ ràng là bản bổ sung trình ra, coi là bản chính đã bị làm giả. Không thể nghi ngờ sự lương thiện của ông Fullerton là luật gia thận trọng, ông không bao giờ lại khuyên thân chủ đi kiện, nếu không có lý do và căn cứ chính đáng.
Poirot lách theo một chỗ ngoặt của đường mòn và một lần nữa lại bị kéo trở về thực tại vì đôi giày véc ni bó lấy chân rất đau. Có nên bỏ con đường đi tắt này, đi ra đường chính để về nhà ông bà Spencer? Đường chính tất nhiên êm ái, dễ đi hơn. Bỗng ông sững người, dừng lại.
Trước mặt ông, hai bóng người vừa xuất hiện. Michael Garfield ngồi trên một tảng đá thấp, giá đặt trên đầu gối, đang vẽ. Miranda đi về phía xạ Chàng nghệ sĩ ngẩng đầu:
- A! Ngài Ria mép đây rồi! Xin chúc ông một buổi chiều tốt lành.
- Tôi có thể xem tác phẩm của ông được không, hay tôi làm phiền?
- Ông có thể xem, chẳng phiền gì cả.
Poirot đứng ra phía sau lưng Garfield, gật gù ra vẻ tán thưởng. Trên giấy là hình của Miranda được phác họa tinh tế.
- Đẹp lắm! Poirot nói.
- Tôi cũng nghĩ thế.
- Tại sao?
- Tại sao tôi vẽ chân dung Mirandả Cần có lý do tại sao ư?
- Hẳn là phải có.
- Ông nói đúng. Nếu tôi phải rời bỏ chốn này, thì có một hai thứ muốn mang theo làm kỷ niệm. Miranda là một.
- Ông sợ quên được cháu sao?
- Dễ quên lắm. Tôi là thế, nhưng quên, hoặc không nhớ nổi một cử chỉ, một khuôn mặt, một bông hoa hoặc một nét phong cảnh sẽ gây ra nỗi buồn vô tả. Ta ghi lại… rồi tất cả tan biến.
- Trừ khu vườn này, chắc vậy.
- Ông nghĩ thế ư? Tất cả khung cảnh này biến mất nếu không còn ai chăm sóc nó. Muốn giữ khu vườn này, cần rất nhiều tình yêu, và chăm chút về chuyên môn. Nếu có một hội đồng thị trấn đảm nhiệm việc đó – chắc rồi sẽ có – nó sẽ trở thành vườn hoa công cộng. Sẽ trồng thêm cây cỏ lạ, thêm ghế đá và sọt rác.
- Ông Poirot! – Tiếng gọi của Miranda từ xa vắng tới.
Nhà thám tử tiến lên mấy bước để nói to:
- Cháu đang dạo chơi trong vườn ư?
- Vâng, nhưng không phải dạo chơi. Cháu tìm cái giếng.
- Ở đây có giếng?
- Trước đây có, người ta hay đến để cầu được ước thấy!
- Bác không biết người ta còn giữ lại giếng gần công trường đá.
- Cái giếng đã có từ trước khi xây dựng công trường. Chú Michael biết nó ở chỗ nào, nhưng không chịu chỉ.
Michael chen vào:
- Tự mình tìm thấy nó mới thích chứ. Nhất là khi cháu không chắc là nó có.
- Bà Goodbody nói là có. Bà ấy phải biết, vì là phù thủy!
- Chắc ông biết bà phù thủy của làng chúng tôi, ông Poirot? Chẳng thần thông gì, nhưng bọn trẻ cứ đồn thổi quyền pháp của bà.
Miranda nói:
- Giếng có phép thần. Bà con thường đến đó khi cần cầu ước điều gì, bằng cách quay người ba lần và đi giật lùi. Chắc giếng ở không xa đây. Bà Goodbody bảo nó bị bỏ hoang phế, không dùng nữa vì một em bé gái đã rơi xuống đó, lâu rồi.
- Lại một huyền thoại nữa của địa phương - Michael giễu – nhưng chú nghe thấy có một giếng như thế ở Little Belling.
- Lúc nào tìm thấy cái giếng của cháu, cháu sẽ bảo!
- Không nên quá tin vào lời nói của một phù thủy, cháu Miranda à. Nếu bà ấy nói là em bé rơi xuống giếng, thì chắc chỉ là một con mèo thôi.
- Tình tính tang, mèo ở dưới giếng – Miranda khe khẽ hát. Thôi cháu phải đi đây. Má đang chờ.
Em nhoẻn miệng cười với hai người lớn, đi vòng qua suối rồi mất hút ở một lối ngoặt.
- Tính tình tang – Poirot lẩm bẩm – Em bé nói đúng không?
Nghệ sĩ lặng lẽ nhìn thám tử, nói:
- Cháu nói đúng. Có một cái giếng trong rừng, đã lâu không dùng, có lẽ vì nguy hiểm. Còn bảo là giếng thần, thì chắc là bà Goodbody bịa. Thôi cứ để cháu nó mơ về giếng thần.
- Tốt! Thôi, tôi phải đi tiếp.
- Ông về nhà ông bạn thiếu tá?
- Vâng. Lúc nãy ông nói ông vẽ chân dung Miranda để nhớ đến cháu. Có nghĩa là ông sắp ra đi?
- Tôi định thế.
- Nhưng ở đây ông sống không tồi.
- Dĩ nhiên, tôi có nhà cửa do chính tôi thiết kế, lại còn công việc nữa… nhưng tôi không còn hứng thú như trước.
- Tại sao?
- Tại vì thiên hạ cứ muốn tôi làm cho họ những thứ kỳ cục. Có người muốn làm lại vườn, có người vừa mua lại được miếng đất, nhà chưa xây xong đã đòi tôi thiết kế phong cảnh cho hài hòa.
- Nghe nói ông sắp làm lại vườn cho bà Drake?
- Bà đã yêu cầu, và tôi đã đưa ra vài đề án, bà ấy có vẻ thích. Tuy vậy, tôi chưa quyết định nhận lời bà.
- Ông ngại là bà không để ông làm theo ý ông?
- Phải, mặc dù bà ấy hứa là kế hoạch của tôi sẽ được tôn trọng. Nhưng rồi bà ấy sẽ tìm cách ép tôi theo ý bà, và sẽ nảy sinh mâu thuẫn. Tốt hơn là tôi từ chối – cả bà và những người khác – và đi khỏi đây trước khi bị thiên hạ ghét.
- Ông biết nước Hy Lạp?
- Có, và tôi mong được về đó. Tạo dựng một khu vườn trên sườn một ngọn đồi Hy Lạp…
- À này ông, ông ở đây đã khá lâu, ông có nghe nói đến một chàng trai tên là Lesley Firrier?
- Tôi nhớ chứ. Cậu ta làm việc ở một văn phòng công chứng tại Medchester, phải không?
- Cậu ta bị chết một cách bi thảm?
- Đúng vậy. Một tối, do những chuyện rắc rối tình cảm gì đó, cậu ta bị đâm chết. Đã cặp kè với Snadra Grifin, vợ chủ quán, lại đi mê một cô gái khác…
- Làm bà kia nổi khùng?
- Tất nhiên. Nên nhớ tay Lesley này có số đào hoa.
- Anh ta chinh phục những cô gái Anh?
- Bất kể, miễn là nói được chút tiếng Anh đủ để bắt chuyện là hắn câu tuốt.
- Ở vùng này thỉnh thoảng có những cô gái người nước ngoài đến làm ăn,
- Đó là việc bình thường, họ đến làm thuê, hầu hạ các gia đình.
- Lesley có quen Olga?
- Tôi nghĩ là có, những chuyện ấy bà Llewellyn – Smythe có lẽ không biết. Cô Olga này không xinh, không hiểu tại sao Firrier lại mê… Tuy nhiên ở con bé này có một sức hấp dẫn gì đó trong mắt một thanh niên Anh. Lesley đi chơi nhiều lần với Olga.
- Những điều ông cho biết là rất quý.
Michael Garfield tò mò nhìn nhà thám tử:
- Tôi không hiểu?
- Tôi đang thử ngược dòng thời gian tới trước khi Lesley Firrier và Olga Seminoff lén lút gặp nhau, giấu bà Llewellyn – Smythe.
- Ông biết không, tôi không dám bảo đảm là mọi việc diễn ra như thế. Tôi thường gặp đôi trai gái đi với nhau, nhưng Olga chưa bao giờ tâm sự gì với tôi. Còn Firrier, tôi chỉ quen qua loa.
- Nhưng trước đó, trước đó nữa… dường như anh ta có chuyện rắc rối với Cảnh sát?
- Nghe nói thế. Sau khi ra tù, hắn được Fullerton nhận lại làm việc. Cái tay Fullerton thật tốt.
- Người ta kể với tôi là anh ta bị xử về tội giả mạo giấy tờ.
- Đúng. Hình như suýt nữa thì trôi chảy, nhưng rồi chính văn phòng nơi anh ta làm việc phát hiện ra.
- Và khi bà Llewellyn – Smythe chết, bản bổ sung, coi như do bà ta để lại, được đưa ra xem xét, thì hoá ra là tài liệu giả.
- Ông có thử liên hệ hai việc lừa đảo ấy với nhau?
- Như vậy cũng lô gích thôi. Anh con trai thì làm sai lệch giấy tờ của chủ, lại dan díu với cô gái đã đưa ra một bản bổ sung giả hòng thừa hưởng gia tài của bà già.
- Thế… Sự đời là như thế. Song riêng tôi, tôi không bao giờ tin Olga có thể bắt chước hết chữ viết của chủ. Tất nhiên, nếu cô ta kéo cả Lesley vào vụ này, chắc họ tưởng là sẽ làm được việc. Song kinh nghiệm cho thấy Lesley cũng không tài giỏi gì trong việc làm giả.
Michael bỗng dưng nhìn trừng trừng Poirot bằng con mắt bực tức, sẵng giọng:
- Nhưng tại sao ông lại đến nói chuyện này với tôi?
- Tôi muốn biết.
- Tốt hơn là không nên biết, không bao giờ biết. Hãy để cho quá khứ nghỉ yên là hơn.
- Anh thích cái đẹp, có phải không? Tôi, tôi muốn sự thật.
Michael Garfield cười to:
- Ông hãy trở về với những ông bạn Cảnh sát, để tôi yên hưởng khu vườn tĩnh lặng của tôi, thiên đường của tôi. Hỡi quỷ xatăng, hãy xéo đi!