Một rừng hoa Đổ Quyên (Azalea) đủ mầu đang khoe sắc xung quanh tôi, dưới tàng cây cổ thụ một cây Đổ Quyên cao qúa đầu ngưòi với cành cây uốn lượn để rồi xòe lên ngọn một vùng hoa đỏ rực. Tôi mê mãi sửa ống kính chụp những bô hình ăn ý nhất, men theo đường đá qua những đồi cây trắng muốt mầu hoa Đổ Quyên, mùi hoa thơm quyện trong không khí sớm làm tâm hồn lâng lâng. Tôi chọn một tảng đá bằng phẳng ngồi nghỉ, ngắm nhìn những tảng rêu dầy xanh mướt dưới cụm hoa mầu tím lợt, một làn gío thổi qua một cánh hoa rơi nhẹ nhàng trên thảm rêu đậm để lại một phút giây sinh diệt vô thường. Tôi đứng dậy đi theo bậc tam cấp bước vào khu vườn điêu khắc (Sculpture garden), những tượng đá như sống dậy bên chùm hoa Tử Đằng (Wisteria) buông rủ như những chùm nho phơn phớt tím hồng, mùi hoa Tử Đằng ngọt ngào thơm ngát, đám ong bầu vàng hoe đến bay lượn nhộn nhịp ngày hội lớn, tôi nghe tiếng lao xao từ những đôi cánh nhỏ đang chiú chít, một chú ong to tròn bay ngang tượng hai đứa bé đang giơ tay với lên như đuổi bắt một cánh bướm vô hình.
Tôi sửa ống kính, đang ngắm thế để chụp, bất chợt tôi nhìn thấy nơi cuối vườn cạnh một cây Bách Nhật Hinokee lá soắn tròn như cánh quạt, một pho tượng đá đen ngồi tỉnh lặng, tôi bỏ ống kính bước lại gần để xem. Thật bất ngờ đó là pho tượng Bồ Đề Đạt Ma, trong dáng ngồi với hai vai buông xuống, vẻ uy nghiêm của thế “ngồi như đá”và người điêu khắc tài tình đã khắc lên mặt ngài một cái nhìn sâu thẳm mạnh mẻ của nội tâm, tôi thật sự bị cuốn hút bởi tôn tượng ngài giữa những pho tượng đầy phong cách Âu Châu với những thiên thần đang chấp cánh như sắp bay lên. Kìa một cô tiên nhỏ (Tinker Bell) váy xòe ra như bông Huệ tây (Easter Lily) đang đá cao đôi hài cong có đôi bông tròn xoay trên mủi giầy với một tay cầm một cây đủa thần vẩy lên một chùm sao lấp lánh. Xa xa dưới đất vài chú địa thần(gnom) tinh nghịch bên tảng đá nằm trong đám cỏ clover bốn lá xếp hình trái tim mỏnh manh và những nụ hoa đang nhú cao lên. Tượng Đạt Ma ngồi đó trong tỉnh lặng vô biên, nét từ bi như lan tỏa quanh ngài hòa lẩn giửa một thế giới sống động của những tiên nhân trẻ trung bận rộn.
-Tuyệt vời qúa phải không? (Wonderful!!! Isn’t it?).
Tôi giật mình quay lại, một người đàn ông da đen với đôi mắt sáng trắng nhìn tôi cười thân thiện.
-Tôi thích tượng Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) nầy lắm, đây là chổ tôi thường xuyên thăm viếng. Mùa đông khi tuyết phủ trắng xóa lên ngôi vườn này, khi những thiên thần đang ngủ yên, thì ông ấy vẩn vậy, vẩn ung dung tỉnh tọa, có khi nhìn lâu tôi tưởng như ông sắp đứng lên bước tới và dậy cho cuộc đời đầy bạo động một bài học thương yêu từ cuộc sống.
Người da đen nói xong cưòi phá lên:
-Nầy người bạn đừng cho tôi là điên nhé, tên tôi là Lee Dancer, tôi là người thầy dạy vỏ cũng là một trong những giảng sư về các khóa trồng và tạo hình dáng cây bonsai cho vườn bách thảo ở đây. Tôi thấy bạn ngắm tượng rất lâu bạn có biết gì về vị tổ sư (master) này không?
Tôi thành thật thú nhận là ngưòi Á Đông, theo Phật giáo nhưng ít ai rành về lịch sử tôn giáo mình, chỉ biết Bồ Đề Đạt Ma là một vị Bồ Tát khi xưa nơi quê nhà mổi lần theo mẹ lên chùa có thấy hình ngài gánh trên vai một cây gậy treo lủng lẳng một chiếc giầy. Hình ngài trong ngồ ngộ, nhưng khuôn mặt ngài với bộ râu xồm xoàm và cặp mắt trợn lên dử tợn làm sao, khác hằn các vị phật hiền từ trên chánh điện.
Lee rủ tôi vào khu nhà bát giác nơi bán nước giài khát, anh ta mời tôi một chai nước cam mát lạnh. Sau khi biết tôi là người Việt Nam, Lee reo lên vui vẻ:
-Tôi biết đến Việt qua hình ảnh một vị Đạt Ma khác. Anh ta khó khăn đánh vần tên vị thầy mà anh ta cho là Bồ Đề của Việt Nam: Thích Qu.. ản.g Đ.. ức. Những năm trước khi tôi còn là sinh viên tôi đã say mê theo dỏi tin tức và hình ảnh một vị sư ngồi điềm nhiên tự tại giừa biển lửa ngợp trời. Một hình ảnh vừa bi hùng vừa tráng lệ của tinh thần Đạt Ma. Bạn có biết sư phụ tôi và tôi đả làm một bửa cầu nguyện cho ông ấy không.
Để đánh tan sự thắc mắc của tôi, Lee giải thích:
- Tôi là một người trẻ mồ côi mẹ khi sáu tuổi, ba tôi là một công nhân lục lộ, cuộc sống khó khăn hơn khi ba tôi lập gia đình với một người mẹ khác, lúc về bà đem thêm ba ngưòi con riêng, vì mất mẹ sớm và không người chăm sóc tôi rất ốm yếu, và hay bị đánh đập bởi những đứa trẻ lớn hơn ở khu chung cư tôi ở. Thưòng thì tôi bị chúng đánh bể mũi dập đâù chẩy máu, những khi ấy tôi hay khóc lóc và ước gì còn mẹ để tôi có thể kể cho bà ấy nghe và hy vọng có cách gì để tránh những trận đòn trẻ con ác độc đó. Có một buổi chiều tụi nó chận tôi lại, đang sợ hải nhìn thằng Joe bự trưởng nhóm sắp tung những cú đấm vào tôi để làm trò tiêu khiển, thì bất chợt tôi thấy chúng nó bị đẩy ngã bởi môt ông gìa Chin (người Tầu) gầy ốm. Chưa hết ngạc nhiên tôi nhìn tụi nó như đứng chôn chân tại chổ, đứa nào đứa nấy trông sợ sệt hết vẻ hung tàn hàng ngày, ông lôi tôi ra và sau khi phất nhẹ tay bổng lủ nó như chiếc lò xo bật ra chạy ùa đi vội vả, ông nói với theo:
- Ta không muốn thấy chúng bây đụng đến thằng bé nầy từ bây giờ nghe chưa.
Tôi lẻo đẻo đi theo ông một đọan đường, ông quay lại nhìn tôi và hỏi:
- Nầy chú bé, chú muốn gì vậy?
Tôi ấp úng nói:
_ Ông có thể cho tôi biết ông làm gì mà tụi nó sợ ông vậy.
Ông ta nheo mắt nhìn tôi rồi cười.
- Đó là điều bí mật, chắc tụi nó sẻ không phá chú nữa đâu.
Tôi lắc đầu:
- Nếu không có ông, chắc chúng sẽ đánh tôi nhiều hơn để trả thù.
Ông dừng lại nhìn tôi rồi gật gù nói:
- Ta đã thấy chú bị chúng nó đánh vài lần, nhưng kỳ nầy thì ta không thể để chúng hung tàn như thế mãi. Thế bố mẹ chú đâu?
Bổng tôi rơi nước mắt, mãi mới nói đưọc:
- Tôi không có mẹ, còn bố tôi chẳng bao giờ có ở nhà để giúp tôi cả.
Ông gìa Chin nhìn tôi một hồi, xong ông thong thã hỏi:
- Thế chú có muốn không bị đánh nữa không?
Tôi lấy tay áo quẹt nưóc mắt:
- Muốn lắm chứ, nhưng bằng cách nào?
Ông nhìn tôi lần nữa rồi nói:
- Như vậy, từ ngày mai chú tới căn nhà ở trên tầng hai số sáu ta sẽ dậy chú làm cách nào. Thôi trở về đi, ta phải lên trên nhà đây.
Theo lời dặn ngày hôm sau lừa xem tụi thằng Joe không còn lảng vảng xung quanh, tôi chạy nhanh tới nhà ông già Chin. Tôi hồi hộp
gỏ cửa, ông gìa ra mở cửa cho tôi vào. Nhà ông ta không có bàn ghế gì ngoại trừ một cái bàn dài rất cao và một pho tượng lớn với một cái chén đồng rất to và một số sách xếp bên trên.
Ông chỉ tôi vào ngồi trên hai chiếc gối tròn bự để trên sàn.
- Ta đã hứa giúp chú, thế thì bắt đầu từ hôm nay chú phải học bài vở lòng về thế đứng và tập học đều hòa hơi thở.
- Đó là cơ duyên tôi được học vỏ với sư phụ Lim, ông là một vỏ sư của môn vỏ Thiếu Lâm bên trung Hoa. Sau một thời gian hai năm ông nhận tôi làm đệ tử chính thức, và từ đó tôi được biết đến Bồ Đề Đạt Ma là vị Tổ Sư sáng lập môn phái Thiếu Lâm. Sư phụ Lim cũng dậy tôi về thiền Như Lai tự tánh thanh tịnh của Tổ Đạt Ma, sư phụ Lim luôn nhắc về tinh thần vô úy, không tranh thắng bại. Khi xưa trên núi Trung Sơn, tổ Đạt Ma đã hàng phục bọn cướp khi chúng bắn tên lửa để đốt ngài, và từ đống lửa ngài đã bưóc ra bằng những bước chân vừa uy dũng vừa nhẹ nhàng mà không một ý niệm trả thù, không một hành động hung ác nào, đám cướp cuối cùng đều quy phục.
Bằng tinh thần từ bi đó tôi đã học ở Phương Đông bài học không hận thù, không đối nghịch. Sau nầy tôi trở thành đại ca ở khu vực tôi ở, tôi mở lớp dậy vỏ không lấy tiền cho trẻ em nghèo, giúp đở ngưòi cô quạnh,và bảo vệ an ninh cho khu vực chung quanh. Tôi đã đi theo con đường sư phụ Lim chỉ dậy, nếu không có ông ấy không biết tương lai tôi sẽ ra sao.
Ngừng nói, Lee trao tôi tấm danh thiếp và hẹn gặp lại, anh đứng lên trở vào phòng làm việc.
Tôi bưóc trở lại khu vưởn điêu khắc, ánh nắng ban trưa rọi qua kẻ lá lung linh đốm sáng như nhẩy múa trên những hình tượng xinh đẹp. Một vệt nắng chiếu trên vạt áo Đạt Ma, tôi thấy như ngài đang khoan thai đứng dậy thả một bè lau vượt không gian và đưa bàn tay cưú vớt những người đang rơi trên dòng sống đầy sôi động của một thành phố lớn nhiễm qúa nhiều bạo lực nầy.
Và kìa ngài quay lưng lại đang chậm rải bước lên bờ của khu vườn thơm ngát hương và gío thổi một trận mưa hoa rơi đầy mặt đất.
Nhã Lan Thư