Muốn đánh giá một học thuyết chẳng phải là chuyện dễ. Tuy nhiên, đời nay người ta đã khẳng định, giá trị của Nho học ít nhất có hai điểm chính sau đây:
Điểm thứ nhất là, phát huy nguồn năng TÌNH THƯƠNG. Các môn sinh vật học, nhân chủng học, tâm lý học, xã hội học và văn hóa học đời nay, đều có giải thích rằng:
1/- Sự trưởng thành liên tục trong hình thức sinh tồn của vạn vật;
2/- Sự sinh nở và tồn tại liên tiếp của các chủng loại;
3/- Sự chỉnh hợp và duy trì sức khỏe của cá nhân;
4/- Sự thừa kế và thịnh vượng của văn hóa xã hội, nhất nhất đều cậy vào nguồn năng TÌNH THƯƠNG. Nay ta hồi cố lại lịch sử cổ xưa cái chết của SOCRATES, triết gia Tây phương (469 - 399 TR.KN.TL.), Chúa JÉSUS bước lên thập tự giá, lòng từ bi của Phật tổ THÍCH CA MÂU NI cùng thuyết "Nhân ái" của Khổng Tử, đều đã ấn chứng cho sức mạnh vô biên của "năng lượng tình thương", vốn dĩ tồn tại trong bất cứ một con người nhỏ bé, phàm phu tục tử nào, thậm chí cả trong các loài động vật vô tri. Vậy chính phạm vi phóng xạ của năng lượng tình thương đó, rộng hay hẹp và nhiều hay ít, là mức độ vĩ đại của một con người, cuơng là khuôn thước để đo lường giữa nhân vật vĩ đại và con người tầm thường. Khổng Tử chẳng những chỉ tuyên dương NHÂN ái, mà còn khẳng định sức mạnh của tình thương qua câu "Nhân giả tất hữu dũng" (Kẻ có lòng nhân ắt là người can đảm).
Điểm thứ hai là, đời nay người ta công nhận, muốn xây dựng một xã hội dân chủ tự do, trước hết phải bồi dưỡng cho tâm hồn cởi mở. Triết lý của Khổng Tử có từ trước đây hai ngàn năm, đã chứa đựng tư tưởng đó rồi, chỉ tiếc là, trong xã hội Trung Hoa truyền thống, lại thiếu hẳn môi trường tương ứng để phát triển tư tưởng cởi mở đó. Riêng một điểm nữa là, cả cuốn Luận Ngữ, Khổng Tử ít khi bàn đến việc trau dồi học vấn qua công phu dùi mài sách vở. Điều mà Ngài coi trọng nhất, là nhân phẩm con người trong đời sống thực tế, chẳng hạn như Tử viết: "Sự phụ mẫu năng kiệt kỳ lực, sự quân năng ta kỳ thân, dữ bằng hữu giao ngôn nhi hữu tín, tuy viết vị học, ngô tất vị chi học di". (Người nào mà phụng sự cha mẹ hết sức, thờ chúa hết mình, chơi với bạn giữ lời hứa, tuy chưa học, ta nhất định coi như người đã có học rồi). Như vậy, chân giá trị của Nho học là thực hành, không là từ chương. Tuy nhiên, bất luận thời đại nào, giá trị của một học thuyết ít nhiều cũng tùy thuộc vào nấc thang giá trị trong xã hội của thời đại đó. Khi văn minh vật chất Tây phương đưa con người đến chỗ chỉ biết có hưởng thụ, trụy lạc thì người ta cảm thấy cần phải dựng lại "Khổng gia điếm", để dạy bảo thiên hạ biết liêm sỉ, trọng luân ly đạo đức cổ truyền. Tựu trung, Nho học khích lệ lòng nhân ái của con người, dạy người đời trung thành với bề trên, hiếu thuận với cha mẹ, tín nghĩa với bạn bè. Nghĩa là nhất nhất đều phải giữ đúng chữ "Lễ", rất có lợi cho trật tự xã hội, càng có lợi cho tầng lớp lãnh đạo quốc gia cuơng như bậc phụ huynh trong gia đình. Cho nên kể tử nhà Hán trở đi, tuyệt đại đa số vua chúa các trĩu đại, đều "Nhất tôn Khổng Tử", nâng địa vị Khổng Tử lên bậc Thánh, đưa Khổng giáo vào hàng chánh thống trên nền văn-hóa Trung Hoa, làm cho các học thuyết khác lu mờ đi. Đó cũng là điều đáng tiếc về một khía cạnh nào.