Thiếp-canh truyền hãy phó sang, "Được lời gửi truớc đài-trang bước vào. "Trăng già xe vẩn hay sao, 1430.- "Tơ kia lựa với mối nào khéo sinh ? "Dựng gây dám nghĩ sinh-thành, "Biết thân mình, biết phận mình thế thôi. "Hiếu trinh riêng những gồm đôi, "Ơn nhà hãy trước, nghĩa người thì sau. 1435.- "Phận mà ra vậy cũng dầu, "Nghĩ người đáy giếng thang lầu chẳng nhưng. "U-minh đôi ngả khơi chừng, "Một niềm sắt-đá biết rằng thấu không ? "Kiếp này đã lỏng giải đồng, 1440.- "Mảnh duyên gắn-bó còn hòng kiếp sau". Nỗi riêng càng nghĩ càng đau, Càng hờn non-nước, càng rầu gió-trăng. Nghĩ đi nghĩ lại ngập-ngừng, Ngọc xuôi đồ sắm, hương lừng mã thay. 1445.- Lầu khuya vắng-vẻ ai hay, Lần nghe văng vẳng canh chầy điểm ba. Vườn sau rén ngõ then hoa, Đè chừng sông cái ruổi pha một mình. Khóc than ri-rỉ cuối ghềnh, 1450.- Giãi lòng với nước, bày tình với trăng "Tiếc đời chi nữa cũng rằng, "Dầu mà có thác cầm bằng không sinh. "Há rằng chuốc tiếng mua danh, "Sao cho phải phận-sự mình thì cam. 1455.- "Trông vời trời bể mênh-mang, "Đem thân băng-tuyết gửi hàm giao-long". Bất tình chi bấy hóa-công, Cho người lấy mảnh má hồng làm chi ? Người hạnh-nghị, khách dung-nghi, 1460.- Làm cho trâm gãy gương lìa mới thôi. Mênh mang bể khổ sống trôi, Biết rằng phúc thiện có trời nữa không ? Có quan Đề-học họ Long, Hồi kinh vừa gặp thuận giòng chạy qua. 1465.- Tiếng người lanh-lảnh nghe xa, Kíp truyền thủy-thủ bỏ chà vớt xem. Trước thuyền lướt mướt làn xiêm, Gạn tường, mới giải mọi niềm sâu nông. Thung-dung quan mới ướm lòng, 1470.- Khen rằng : "Tuyết sạch, giá trong thực là. "Tiếc thay trong ngọc trắng ngà, "Nỡ hoài chi để trôi hoa, giạt bèo. "Rừng thuyền cõi tĩnh là nhiều, "Sạch mình chi lọ là liều đến ai. "Đem mình mà trả nghĩa người, "Để công chín chữ thiệt-thòi về sau. "May đây bèo nước gặp nhau, "Thôi thì hợp phố cho châu lại về". Lặng nghe giọt ngọc đầm-đìa, Lại thôi mới kể tỉ-tê sự mình : "Trẻ thơ đội đức sinh-thành, "Sớm khuya ai dễ dứt tình được đâu. "Ông tơ lật lọng lừa nhau, "Cực thân nên phải ngậm sầu bước ra. "Gốc phần dù lại dạo qua, "Cành vin chẳng kẻo bẻ hoa tay người. "Lại trơ mặt với người đời, "Thà liều sóng bạc cho rồi ngày xanh. "Muôn vàn tạ chút hậu tình, "Ơn này may có lai sinh là còn. "Rồi đây đáy vực ngọn nguồn, "Xin cho bụng cá lại chôn mày ngài. Yêu vì nết trọng vì người, Phu-nhân lại dạy đến lời đa mang : "Thân gìa vì chút muộn-màng, "Mới hay máy Tạo tuần-hoàn dành cho. "Trăm năm dan-díu nghĩa vò, "Mai sau trông-cậy già-nua được dành. "Rồi ra lá kệ câu kinh, 1500.- "Mặc tiêu-sái đó cho thanh-thả đời". Ơn lòng dám lĩnh lược lời, Tạ từ thôi thoắt thuyền xuôi bến nào. Nhà Lưu kinh-hãi xiết bao, Mơ-màng đón hỏi, xôn-xao sai tìm. 1505.- Đầu gành cuối bãi lần xem, Khác gì đáy bể mò kim hững-hờ. Mối sầu đòi-đoạn như tơ, Nguồn cơn nghĩ lại sau xưa tại mình : "Quá thương chút phận lênh-đênh, 1510.- "Nghìn thu để chịu bạc tình với con. "Máy duyên nghĩ đã vào khuôn, "Toan này chỉ thắm cho tròn tuổi xanh. "Ai mà xem nghĩa hơn mình, "Nổi-nênh bèo-bọt, tan-tành cải-kim. 1515.- "Đã đành mặt nước nổi chìm, "Biết đâu tăm cá bóng chim bây giờ". Nàng đành được chốn nương-nhờ, Khéo là khóc vẩn, thương vơ nực cười. Bến mê ngán-ngẩm sự đời, 1520.- Cái vòng con tạo, khéo chơi lững-lờ. Người còn đôi mặt sờ sờ, Bên mê Thủy-quốc, bên ngờ Vân-Hương. Vàng thau ngọc đá mơ-màng, Làm cho ố thắm, phai vàng thế thôi. 1525.- Mấy thu tên đá bời bời, Biết đâu sinh hãy trong vây giữ-gìn. Vỗ-về lẽ khích lời khuyên, Đắp cao thành nghĩa, chống bền rào trung. Hãm lương, Hồ những để rông, 1530.- Chắc rằng cá chậu chim lồng vội đâu. Dằng-dai bạn duật bao lâu, Bóng ô hè giục sang thâu bấy-chầy. Diêu từ ruổi chốn ải mây, Tin Lương biết hãy trong vây đã mừng. 1535.- Hiềm vì thống-tướng non lưng, Đóng quân kín luỹ cầm chừng chẳng sai. Lĩnh quân Diêu mới quyết bài, "Đặc truyền" tức khắc hàm mai tiềm-hành. Đêm khuya lét thấy binh tình, 1540.- Ngọn cờ ngơ-ngác, trống canh trễ-tràng. Phá kiêu nghĩ cũng dễ-dàng, Đóng doanh, kíp thảo hai trương một bài. Hẹn cho giờ sửu đêm mai, Giấu cờ hiệu súng trong ngoài giáp công. 1545.- Lên nơi cao phụ đứng trông, Mũi tên thuận gió một phong bắn vào. Lương vừa khuya tựa trướng sao, Thấy quân bẩm được thư nào trình xem. Phong thư vẹn-vẽ còn in, 1550.- Mở xem thực dấu chữ em rõ mười. Suốt canh ngẫm-nghĩ đòi thôi, Mấy tên chiến-tướng cũng đòi vào ngay. Chư-quân trông ngóng lâu nay, Biết mưu, mài cánh day tay đợi truyền. 1555.- Lũy Dương gần cũng thông tin, Hội binh một khắc giải liền hai vây. Khác gì hùm cũi ra ngoài, Ấy là thoát tội đoạn rồi lập công. Thừa cơ lò lửa mũi lông, 1560.- Cúc kềnh lớp lớp, bụi hồng lưng lưng. Thanh-bình một biểu tâu dâng, Thảnh-thơi yên khấu chân nưng khải hoàn. Gia-thư nhẹ ruổi chân nhàn, Tin lành sớm đã lọt màn Tiền-nha. 1565.- Vân Hương vào trước trình qua, Nỗi thân, nỗi nghĩa như hoa nở lòng. Gánh sầu cất nhẹ như không, Càng xem tin báo, càng mong độ về. Thương canh lần dịch dóng khuya, 1570.- Rõ tường bản đạo kéo về kinh-đô. Rồng mây một hội nghìn thu, Gác Đường vẽ mặt, yến Chu thỏa lòng. Người tài lược, kẻ tinh-trung, So vào công tải đều phong liệt-hầu. 1575.- Lại cho thế tập về sau, Rành rành khoán núi, làu làu thư sông. Móc mưa nhuần gội chập-chùng, Bể sôi, chợ họp người trong sảnh-đường. Rước mừng tân-hữu rõ ràng, 1580.- Có Lưu công-tử anh nàng Ngọc Khanh. Mới vâng ấm bổ phó kinh, Đến mừng nhân kể ngọn-ngành sự em. Dẫu khi vui cũng chạnh niềm, Chửa cam tình nọ, lại thêm nghĩa này : 1585.- "Lửa hương nào đã chi đây, "Mà liều cung nước làn mây hỡi người ! "Khối tình mang nặng nghìn đời, "Đỉnh-chung hầu dễ ăn ngồi được đâu. Tiếc hoa ngần-ngại nét sầu, 1590.- Vừa khi Dương-tướng thôi chầu vào chơi. "Việc gì dường khác vẻ vui ?" Thấy lời sinh mới kể lời duyên-do. Thương tình mà ngậm-ngùi cho, Rằng : "Danh-tiết ấy thơm-tho ai bì. 1595.- "Sao không tâu đến đan-trì, "Họa là tinh biểu chút gì trả nhau". Nghe lời vội thảo bản tâu, Vào trong tiện điện buổi sau tiến trình. Gương trời soi rõ mảnh tình, 1600.- Vẽ lòng lá sắc, tạc danh biển vàng. Khi thân nghị đạo cương-thường, Thung-dung lại phán hỏi Dương sự nhà. Thềm phong khúm núm tâu qua: "Hiếm hoi một gái tuần đà thèm hai. 1605.- "Những là giong-ruổi cõi ngoài, "Phòng hương nên hãy còn cài cửa thoi". Năm mây chiếu-dụ rạch-ròi, Giao Tiên truyền kíp sánh đôi cùng chàng. Tạ ơn cùng xuống điện vàng, 1610.- Vội mừng nào đã kịp đường tính xa. Về dinh ngẫm-nghĩ việc nhà : "Đành người có nghĩa, sao ta vô tình. "Bến Tương việc hãy rành rành, "Nào đà kết cỏ, ngậm vành chi đâu. 1615.- "Vì ai cho thiệt-thòi nhau, "Ấy ai dứt được mối sầu cho đang, "Chưa cầm-sắt, cũng tao-khang, "Nỗi dây thế chẳng vội vàng lắm ru. "Mai sau chín suối thấy nhau, 1620.- "Cậy ai đổi được mặt đâu với người, "Duyên kia trót đã nặng lời, "Kíp chầy trong mấy thu trời quản đâu". Nghĩ duyên càng gảy tơ sầu, Nghĩ mình, mình lại thêm đau-đớn mình. 1625.- Sang chơi vừa gặp Diêu-sinh, Thở-than mới kể sự tình khúc nôi: "Thôi thôi anh đã lầm rồi, "Chấp kinh dường ấy ra hơi trần trần. "Tình phu-phụ, nghĩa quân-thân, 1630.- "Trong tam-cương ấy, xem phần nào hơn ? "Tôi còn chút phận thờn-bơn, "Xe duyên là mấy, đội ơn cao dày. "Băn khoăn xuân cỗi, huyên gầy, "Mảnh nguyền hữu thất đến rày chửa nguôi. 1635.- Mặc người tựa cửa hôm mai, "Cầm lòng vì lánh một người thế ru ? "Sợ khi đương bể mà dâu, "Hiếu tình lại dở-dang nhau mặc lòng. "Nghĩa kia đành tạc non sông, 1640.- "Biển vàng may thế chữ đồng cũng cân. "Dù chưa cắt hết tơ trần, "Đành cho lập miếu phong thần về sau. "Ấy lời tâm-phúc cùng nhau, "Tính sao cho được trước sau vẹn nghì". 1645.- Tưng-bừng sắm-sửa lễ nghi". Đào phen xanh chổi, hoa kỳ thắm sây. Rõ ràng một cuộc vui-vầy, Đủ lề nạp thái, định ngày nghênh hôn. Đuốc hoa lồng bóng trăng tròn, 1650.- Tình riêng vẹn cả vào khuông xướng-tuỳ. Trai tài gái sắc ai bì, "Doanh-châu" ấy khách, "Dao-trì" nọ tiên. Đã người mới, lại người quen, Tiên-hoa chép chữ lương-duyên đến già. 1655.- Gió đưa lời, cánh bay xa, Vừa Long Đề-học thuyền đà tới kinh. Rõ nghe hết thảy các tình, Bài sai lại thấy biển tinh chữ bài. Đòi nàng ngỏ dạy trước đài, 1660.- Cùng làm một sớ đến mai lên chầu. Nàng nghe ren-rén cúi đầu : "Bọt-bèo dám động cao sâu thêm nhàm. "Rủi may theo phận là cam, "Đã đành duyên ấy lại tham nỗi nào. 1665.- "Vả trên chín bệ thẳm cao, "Dễ đâu mà tỏ âm-hao cho mình. "Sao bằng mình sạch lấy mình, "Mặc ai nhạt nghĩa, mặn tình nghĩ chi". Cạn lời ông mới gạt đi, 1670.- Rằng : "Như bài ấy, sắc kia phụ gì. "Ví dù bội chốn kết nghì, "Là vâng chỉ ngọc dám ghì lòng đanh. "Ví sưng sưng quyết lấy mình, "Bóng đâu quê cũ phỏng đành đấy chăng ? 1675.- "Ngẫm cơ ghềnh Thái các Đằng, "Hay đâu là chẳng xích-thằng sẵn xe". Dứt lời bần-bật lặng nghe, Tạ rồi liền dạo gót về hiên sau. Tan canh vừa buổi ban chầu, 1680.- Sớ-văn Long đã quì tâu sân đền. Khen rằng : "Này thực thiên duyên, "Ngọc Khanh đọ với Ngọc Liên chi nhường" Đòi Lưu công-tử xem tường, Chân tơ, kẽ tóc rõ-ràng chăng nhe ! 1685.- Ông tơ khoảnh-khách mới kỳ ! Mượn ơn mưa-móc, kết nghì trúc mai. Cửa Lương duyên lại sánh đôi, Dồi-dào tình trước, đền-bồi nghĩa sau. Cũng ban nhất phẩm như nhau, 1690.- Khuê-môn cho dệt mối đầu chính-phong, Ngửa trông ơn sóng trùng trùng, Hai bên khấu-tạ sân phong ra về. Lòng hoa phấp-phới đôi bề, Vội-vàng vào trước hương-khuê ngỏ lời. 1695.- Nhơn nhơn nét phấn thêm tươi, Rõ ràng kể hết đầu đuôi sự tình : Tưởng rằng trong đạo thường kinh, "Thân bồ-liễu lấy chữ trinh làm lề. "Hay đâu sống thác chẳng nề, 1700.- "Nỗi-niềm nghĩ lại mà ghê-gớm đời. "Nghìn xưa âu hẳn một người, "Ấy ai lại dám xem ai là thường. "Vả vì chút nghĩa cũ càng, "Dẫn thân vào chốn chiến-tràng với nhau. 1705.- "Làm cho liễu ủ, đào rầu,>br> "Trăm năm riêng để gánh sầu cho ai. "Đành rằng nát ngọc trầm trai, "Ai ngờ trong cõi tuyền đài thấy nhau. "Ấy là cơ Tạo nhiệm mầu, 1710.- "Bể oan tưởng có trên đầu sáng soi. "Bây giờ lầm-cát mặc ai, "Vinh-hoa riêng lấy một đời hay sao. "Khi ăn nói, lúc ra vào, "Nghĩ nguồn-cơn ấy làm sao cho đành." 1715.- Mấy lời sắt đá đinh-ninh, Khúc tằm đem mối tơ-tình gỡ ra. Sắm-sanh vội mở tiệc hoa, Quản-huyền ríu-rít, ỷ-la rỡ ràng. Xe châu trăm lạng chen hàng, 1720.- Gió xuân Đồng-tước bằng nhường là đây. Hội đào xưa, đã lại rày, Tiên đưa vẻ ngọc, Ngọc vầy đoàn tiên. Xin nhau trân-trọng muôn nghìn, Chút nào là thẹn với duyên nguyện thề. 1725.- Xét cho công-khóa đi về, Nguyệt, Hương đều cũng cam bề tiểu-tinh. Nhà yên vừa dịp nước bình, Hai sinh đều tấu đan đình vinh qui. Cẩm-hoàn một lá hồng-kỳ, 1730.- Lương thì quí tỉnh, Diêu thì hoàn hôn. Diêu-đường Dương nhạc hai thân, Viện lề nhân cũng só-trần minh nông. Thênh thênh dặm tía lối hồng, Vẻ nhuần mã gấm, hương lồng vó câu. 1735.- Mảng vui cờ cuộc rượu bầu, Cầm bên bóng nguyệt, thi đầu ngàn thông. Viện đường thủy lộ thong-dong, Con thuyền lại thuận một giòng nước xuôi. Chiều ai hoa cỏ đua tươi, 1740.- Tiếng chim đâu đã sai-nha đệ về. Hương bay muôn dặm tử-phần, Tràng -châu nay đã gần gần tới nơi. Người đón rước, kẻ mừng vui, Ghé thuyền sinh cũng tiện dời vào ngay. 1745.- Phủ Diêu tiệc ngọc phô-bay, Mây lồng cờ mở, hương bay, chén kèo. Động phòng, kim bảng đủ điều Khi vui kể hết bao nhiêu là tình. Đài Dương về Vọng-Ba đình, 1750.- Tiệc vui cũng rước hai sinh sang nhà. Rõ ràng cỡi ngựa xem hoa, Bức thư sớm đã sai nha đệ về. Từ ngày tin-tức đến quê, Hai lần cáo thú đã nghe rõ-ràng. 1755.- Phong thư nay lại xem tường, Tình càng thêm thỏa, cảnh càng thêm thanh. Dập-dìu nghi-lễ sắm-sanh, Ngựa yên khảm ngọc, xe mành ken châu. Ngọn cờ mây rợp thôn dâu, 1760.- Bồng-lai xe hạc, Dương châu lưng tiền. Tiếng thơm dậy đất sấm rền, Cửa Lưu xa cũng nhặt truyền tin sương. Tấc riêng mừng-rỡ trăm đường, Nhạt tanh chuyện cũ bằng đường đã quên. 1765.- Kiệu hoa dạo-giục rước liền, Đành theo tình mới cho đền lỗi xưa. Vui lòng xuân cỗi huyên tơ, Rước mừng xem cũng bơ-vơ những điều. Đoàn viên một cuộc gấm thêu, 1770.- Cúc đầy vơi chén, cầm dìu-dặt cung, Tân-bằng yến-ẩm vừa xong, Thung-dung Lưu mới vào trong ngỏ bày: "Từ xưa biết lỗi đã dầy, "Tấm lòng ngậm hổ từ rày về sau. 1775.- "Vị-dương một tấm tình sâu, "Sang mừng vội tả chút sầu bấy nay. "Hạt châu trót đã sẩy tay, "Tự mình trăm nỗi chả hay đã đành". Cúi đầu nàng mới rén trình : 1780.- "Rủi may, âu cũng phận mình xui ra. "Móc-mưa sấm-sét cũng là, "Cao sâu đâu nữa chẳng qua vòng trời. "Vả trong dại dạ hèn đời, "Trắng-trong đã vậy, ngọt bùi làm sao. 1785.- "Bỗng đâu rồng trúc sóng đào, "Chia ra đã hẳn, ép vào khéo xinh. "Vẹn tròn bên nghĩa, bên tình, "Khuôn duyên kia đã chiều mình là may. "Tam-công chẳng đổi một ngày, 1790.- "Chuyện xưa còn để đến rày sao nên". Giúp lời sinh cũng mở khuyên, Thuận-hòa từ đấy cũng in một lòng. Đòi phen cợt phấn cười hồng, Ngọc lung-lay động, hương nồng-nã rơi. 1795.- Xuân quang cả bốn mùa trời, Gió đưa, trăng rước, hoa mời, tuyết khuyên. Phồn-hoa bõ lúc truân-chuyên, Đã đầy phúc-hậu, lại bề hiển-vinh. Ngửa vâng phượng chiếu rành rành, 1800.- Lại đem gia-quyến đến kinh lên chầu. Buồm quan một lá giòng sâu, Siêu-thăng thoắt đã đứng đầu nam-nha. Quan châm chẳng chút sai-ngoa, Lộc trời chung-đỉnh, gánh nhà quân-dân. 1805.- Gió thu gợi dạ tử-phần, Sớ-từ lại thấy tỉnh-thân làm lề. Rõ ràng áo gấm về quê, Vó câu lỏng khấu, bánh xe êm bồ. Mạch văn còn dõi dòng nho, 1810.- Hùng-bi mấy giấc đã phô điềm lành. Sởn-so lan huệ nức cành, Lễ-thi cứ phép cửi-canh giữ lề. Ân-tình đủ cả hai bề, Nẩy thân Long-hạm kết nghìn Diêu-môn. 1815.- Phúc thường để đến nhi-tôn, Bảng vàng theo nếp, cửa son dõi đời. Gót đầu bàn lại mà chơi, Phong-hoa hai chữ cõi đời ai không. Lấy tình gặp-gỡ đã xong, 1820.- Trước sau vẹn một chữ tòng mới ghê. Lời quê dù đã nhầm nghe, Gác bên tình-tứ giữ bề hiếu-trinh. Luân-thường sáng để rành rành, Chớ đem bác hẳn mà khinh làm thường. 1825.- Nôm-na đỡ chút canh trường, Kể rồi dặn lại hai đường thế hay. =HẾT=
Chú thích:
đáy giếng thang lầu: dùng hai điển : 1- vợ Trần Trọng là Trương-thị cùng hai người dâu gặp giặc, không chịu nhục bèn cùng nhau nhảy xuống giếng tự-tử (chuyện đời Đường). 2-Lục Châu là hầu yêu của Thạch Sùng có nhan-sắc tuyệt vời, bị Tôn tú mưu hiếp làm tờ chiếu giả bắt Thạch Sùng, nàng biết vì nàng nên sùng bị nạn, bèn nhảy xuống lầu mà tự-tử (chuyện đời tấn) U-minh: U là âm-phủ , Minh là nhân gian, Ngọc xuôi đồ sắm: là không đeo ngọc, Hương lừng mã thay : là không xông hương. trâm gãy gương lìa: nghĩa bóng vợ chồng chia lià nhau. bể khổ: bởi chữ khổ-hải Rừng thuyền: (hoặc thiền) bởi chữ thuyền lâm ; chùa Phật nhiều rừng, Cõi tĩnh : bởi chữ tịnh-cảnh : cõi im-lặng. chín chữ: tức chín chữ cù-lao là : Sinh (đẻ) Cúc (nuôi) Vũ (vuốt-ve) Súc (cho bú), Trưởng (lớn), Dục (dạy) Cố (chăm-nom) Phục (theo tính dạy) Phục (giữ-gìn) Gốc phần: là nơi quê-hương, vì nơi ấy thường trồng cây phần Cành vin chẳng kẻo bẻ hoa: Vin cành bẻ hoa : nghĩa bóng gá duyên với người khác, sóng bạc: là nước ( nhảy xuống sông tự-tử), vò: là tò-vò, loài ong làm tổ bằng đất bùn bám ở vách đẻ trứng trong tổ rồi bắt con nhền nhện hoặc con sâu khác bỏ vào tổ dùng làm đồ ăn của tò-vò con. ta thường ngỡ là bắt nhện về làmcon, nên nói tò-vò nuôi con nhện, ví con nuôi. lĩnh lược: là vâng llời người trên nói một cách tỏ tường, chỉ thắm: là duyên-phận vợ chồng. bèo-bọt: sự lưu-lạc không định nơi. Cải-kim : sự duyên-phận không thành. tăm cá bóng chim: là tin tức Thủy-quốc: tên riêng của những sông, hồ, đầm, vũng. Vân-Hương: mấy tên riêng nơi chốn ao, hồ, đầm, vực. tên đá: bởi chữ thỉ-thạch. Thỉ là cái tên , thạch là hòn đá. Phá kiêu: phá rợ Hồ, lò lửa mũi lông: bởi chữ vỏ hịch, vỏ thư và chữ hỏa tốc. Vỏ-hịch là bài hịch kể tội giặc trước khi sắp đánh cần phải đi gấp, thì có găm trên cờ một c1i lông gọi là vỏ-hịch. Vỏ thư cũng lối ấy. Hỏa tốc là dưới cái thư có găm cái lông còn găm thêm hòn than, ý nói gấp như lửa đốt. Cúc kềnh: là gai-gốc, ví sự giặc-giã. Bụi hồng ; tức gió bụi cũng ví sự giặc giã. khải hoàn: là quân thắng trận trở về. nhẹ ruổi chân nhàn: thư buộc vào chân chim nhạn đi cho chóng. Rồng mây: do chữ vân long phong hổ là mây rồng gió cọp. Lấy nghĩa loài vật và khí tượng cảm nhau. Dùng điển ấy ví vua được bầy t6i giỏi. Gác Đường vẽ mặt: tích vua Thái-tông nhà Đường dùng gác Lăng-yên vẽ tượng những bầy tôi công-thần. (Lăng yên nghĩa là cao vượt từng mây khói). Yến Chu thỏa lòng:vua nhà Chu bày yến tiệc để đãi và ban thưởng cho các công thần. công tải: sự ghi chép công nghiệp. thế tập:là mỗi đời có nối theo đời trước mà được phong tước. chập-chùng: là nhiều lớp trùng điệp (chùng là trùng) ấm bổ: con quan tứ-phẩm trở lên được chức ấm sanh học ở trường công, thi hỏng cũng vẫn có chức ấm-sanh bổ đi công vụ, đan-trì: nói thềm vua sơn màu đỏ. tinh biểu: tinh là lá cờ có rìa thêu, biểu là bêu tỏ. Mỗi khi vua ban lời khen-thưởng cho người tiết-tháo, trung-trinhthì thêu tờ khen 61y vào lá cờ hoặc ở bức biểu mà ban cho nên gọi là tinh-biểu. tiện điện: điện riêng để những người có việc riêng vào chầu vua cho tiện Thềm phong: cây phong mùa thu lá đỏ thường trồng ở đền vua. cửa thoi: là khung-cửi, giá thêu tức là nữ công của con gái, Bến Tương: nơi hai vợ vua Thuấn trầm mình chết theo chồng. Đây dùng điển để ví nàng Ngọc Khanh. tao-khang: là hạt tấm, hạt cám, ví người vợ đã cùng chồng chịu cảnh nghèo-khổ. khúc nôi: từng đoạn từng hồi. Kể-lể những sự tình đáng đem ra than-thở. Chấp kinh: chấp là cầm nắm trongtay, kinh là đạo-đức, phép-tắc không di-dịch được. Chấp kinh là cầm giữ đạo thường trong xã-hội gia-đình, thờn-bơn: một loại cá mình dẹp, miệng ở dưới, chỉ một bề nằm úp mình xuống đáy nước. Ví người làm tôi con phải chịu lép mình, hữu thất: có nơi nhà trong, Con trai có vợ gọi là có nơi nhà trong, con gái cóchồng gọi là hữu gia : có nơi nhà ngoài. Đào phen xanh chổi: là cành đào đang khi còn xanh-tươi. Hoa kỳ thắm sây : kỳ là thời kỳ, thắm sây là sắc đỏ thắm. Doanh-châu: nơi tiên ở, nơi một cõi giữa bể. Dao-trì : (hồ xây bằng ngọc dao) nơi bà tiên Tây vương-mẫu ở. Gió đưa lời, cánh bay xa: nghĩa bóng : lời nói như có cánh theo gió bay xa Bài sai: là những lời khen của vua đã ghi vào cờ bài và biển, chỉ ngọc: lá ngọc : bởi chữ ngọc chỉ là cái ý chỉ nhà vua quí như ngọc. lòng đanh: lòng bền-chắc như sắt đanh. ghềnh Thái: dùng điển Lý Bạch, thi-nhân đời Đường khi đi thuyền đến sông Thái-thạch nhân thấy bóng trăng in trong lòng sông bèn nhảy ôm bóng trăng rồi có con cá kình đến rước đi mất. Các Đằng : tức điển Vương Bột đời Đường đã nổi danh vì một bài phú ở Đằng Vương các, Ngọc Liên: tên người con gái nhà họ Tiền góa chồng, bàmẹ ép gả cho người khác, nàng liều chết không chịu thất tiết (chuyện tình-sử). mưa-móc: ví ơn vua thấm mát. trúc-mai : Cây trúc cây mai, ví tình bạn-bè sum-hiệp. thường kinh: phép thường cư-xử của xã-hội. tuyền đài: là nơi âm-phủ, Gió xuân Đồng-tước bằng nhường là đây: dùng ý câu ; Đồng-tước xuan thâm toả nhị Kiều để ví Lương-sinh có hai vợ cùng ở chung một nhà. Hội đào: tả sự hội-họp đông đủ. tiểu-tinh: là sao nhỏ, ví người tỳ-thiếp, vợ lẽ. đan đình: sân đỏ. Sân nhà vua lát gạch đỏ. minh nông: sáng-suốt việc làm ruộng. Một chức quan coi việc ruộng nương. mã gấm: cả áo-xiêm bằng gấm. tử-phần: cây tử, cây phần là nói làng quê. Động phòng: nơi phòng người mới cưới vợ làm lễ hợp cẩn. Kim-bảng là bảng sơn son thếp vàng đề tên người thi dỗ cao. thôn dâu: nơi quê hương. Bồng-lai xe hạc, Dương châu lưng tiền: là nói sự phong-lưu cao-sang như đi xe lên xứ Dương-châu lưng dắt nhiều tiền. Cúc: là rượu cất bằng hoa cúc, Vị-dương: tức là quê của cậu, em mẹ. rồng trúc sóng đào: nói sự-nghiệp văn-võ, có công-nghiệp cả võ và cả vặn, Ngọc lung-lay động, hương nồng-nã rơi: ý nói sự yêu hương tiếc ngọc mà nay có vẻ thái quá đến nỗi ngọc phải động hương phải rơi. nam-nha: nha-thự bộ Binh. xe êm bồ: Xe bồ : xe dùng cỏ bồ khô bao bánh vì sợ bánh xe niền sắt làm hại cây cỏ núi sông. Hùng-bi: điềm sinh con trai. Long-hạm: là cửa hiên. Long là họ Long tức Long đề-học.