Về song vò-võ mày châu, 660.- Một phen gặp-gỡ, thêm sầu một phen. Với hoa những ngại-ngùng duyên, Thôi hờn nụ thắm, thời ghen nhụy vàng. Sóng tình sao khéo mênh-mang, Trúc-mai sao khéo mơ màng chăng ai ? 665.- Ngại ngần khi lại trang đài, Tấm riêng, riêng để chất cài một bên : "Thảo nào yến mối, oanh tin, "Thấy tình thực cũng đã nên là tình. "Nhửng-nhưng nước vốn xuôi doành, 670.- "Hoa sao hoa khéo rập-rềnh chào xuân. "Lời đâu quyến-luyến thanh-tân, "Rủ-rê gió sở mây tần bởi ai. "Nói chi phong-vị lâu-đài, "Vả trong khách huống lữ hoài biết sao. 675.- "Thà cho xong một bề nào, "Chẳng thà cách trở lân giao nhường này". Non xuân trễ chút mái mây, Phượng xo phiếm lựa, loan gầy bóng treo. Ngẫm nên Hương đã biết chiều, 680.- Trình : "Sao như thể có điều chi đây ?" Dạy rằng : "Hiu-hắt hơi may, "Chiều thu nhường cũng nên say chiều người". Mượn thu Hương lại uốn lời, Tả nơi thu cảnh bàn nơi thu tình. 685.- Đá đưa như gỡ tằm oanh, Gạn lời nàng mới đinh-ninh dạy cùng : "Đã là thác dạ gởi lòng, "Liệu xem ! lọ phải gạn-gùng làm chi. "Người hay gỗ đá chi chi, 690.- "Đã đành tình ấy còn suy nỗi này. "Thói đời giọt nước làn mây, "Đấu nào ao được vơi đầy mà tin. "Lại khi đôi lứa kén duyên, "Biết là đã hẳn như nguyền cho chưa... 695.- Bấy giờ chẳng bõ bây giờ, "Luống đây điều nghĩ, mà dơ trò cười ". Hương rằng : "Thực cũng như lời, "Thấy chàng ẩn-trạng khác vời thường nhân. "Nền thi-lễ, nếp đai-cân, 700.- "Giá nào dẫu nhắc đồng cân cũng già. "Nghĩ người lại ngắm vào ta, "Nhân-sinh đệ-nhất thật là lứa đôi. "Ngọc lành được giá thì thôi, "Làm chi đợi đến những lời ong ve. 705.- "Dù khi bạc mẫu, trầm tre "Châu nên đấu, gấm nên xe cũng liều. "Từ xưa tài-sắc còn nhiều, "Để gương ngẫm lại bao nhiêu đấy mà : "Ải Vân oán điệu tỳ-bà, 710.- "Giấu giày non mã sương pha nên đồ. "Buồm mây khói tỏa năm hồ, "Lăm-tăm bờ cỏ sông ô khắp đường. "Tưởng nơi cung lạnh ngòi ngang, "Phú Tương Như dễ mấy vàng chuốc nên. 715.- "Sao bằng đôi lứa phỉ nguyền, "Chữ tình thêm vẹn, chữ duyên càng nồng. "Nghĩ lòng dù chẳng quyết lòng, "Cắm sào đợi nước chờ trong được nào" Dở lời chưa dạy rằng sao, 720.- Tiểu hoàn đâu đã pha vào việc ngang. Chắc tin Hương những trễ-tràng, Ngóng tin ai, những mơ-màng chờ thăm. Tiết thu vừa giữa đêm rằm, Viện thơ họp thưởng sân cầm đua chơi. 725.- Trước lơn riêng nặng một người, Tờ duyên lần dở, chén mời để dưng. Hoa tay trúc động đè chừng, Nhác trông cửa tía, vội ngừng gác son. Tiêu đâu rủ phượng véo von, 730.- Một xoang như gợi nước non mấy niềm. Phất phơ tơ liễu buông rèm, Nửa sân lưu lệ bóng thiềm xế ngang. Nói cười sang-sảng gieo vàng, Thảnh-thơi với Nguyệt với Nhang trước đình. 735.- Dạo ra đến trước tự tình : "Gọi là được thoả bình sinh ít nhiều. "May đây xin một hai điều, "Đêm lành khéo lẽ sương gieo hẹn lành" Tỏ chơi Nguyệt hãy đành-hanh : 740.- "Rằng đây chẳng phải là gành Mã-đương. "Liệu xin bảo trọng phải đường, "Nặng lời trẻ mỏ, bằng nhường chẳng thông"> Nấu-nung đâu sẵn lò lòng, Chợt nghe thoạt đã đôi giòng nhường pha. 745.- Nỗi-niềm thỏ-thẻ gần xa, Một chiều càng một thiết-tha một chiều. "Nỡ vì một nỗi bấy nhiêu, "Ngấn bào giọt ngọc ít nhiều thử coi. "Thương ưa phải sự ép đòi, 750.- "Lượng xuân đành quyết hẹp-hòi chốc ru ! "Thẳm cao dám trách trăng thu, "Trách chăng trách lẫn đường tu vụng-về". Mấy lời năn-nỉ tỉ-tê, Xót vì Hương cũng ủ-ê khôn hàn. 755.- Ngập-ngừng ra trước khuyên van, Rằng : "Trong tình-ý thế-gian hiếm tày. "Vàng bền ví quyết chẳng lay, "Không gươm mà cũng đang tay nỡ người. "Khuôn duyên trộm nghĩ linh đời, 760.- "Giẩy-giun báu nước hương trời sánh nhau. "Chung tình trước một ai đâu, "Càng dan-díu lắm, càng âu-yếm nhiều. "Chén tương rủ khách Lam-kiều, "Bữa huân nơi rước, cung tiêu chốn mời. 765.- "Ấy trên tiên, nọ dưới người, "Pho tình biết mấy mươi nơi còn truyền. "Trong duyên gặp-gỡ là duyên, "Trọn tình vẹn-vẻ đôi bên mới tình. "Trong quyền mà chẳng dời kinh, 770.- "Dám xin rộng chuẩn mảnh tình tôi con. "Hội này người họp trăng tròn, "Niềm son giải một chén son cùng thề. "Một là giai-tiết phòng khuê, "Hai là mượn kẻ liệu bề mối manh. 775.- "Đào non sớm nghĩ thơ lành, "Vui-vầy một hội nức danh muôn đời". Được lời sinh lại thêm tươi, Đỡ lời Nguyệt cũng kíp lời gửi qua. Nàng nghe ngần-ngại nét hoa, 780.- Đăm đăm lặng ngắm bóng nga biếng rằng. Nguyệt, Hương biết ý dùng-dằng, Tiệc bày ghế sắp dăng dăng trước đình. Trên yên bút giá hương bình, Tiên-hoa ngày trước để dành hai trương, 785.- Tiên-thề tay thảo một chương, Trọn lời chép núi, đầy hàng tạc sông. Chứng trên vằng-vặc vừng trong, Lại ghi Hương, Nguyệt trên giòng cuối trương Triện-thành nghi-ngút tuôn nhang, 790.- Mấy lời khấn-nguyện mặc chàng trước sau. Ép nài nể ý đôi hầu, Vén xiêm ngồi xuống gật đầu vài phen. Văn thề trao chịu hai tiên, Kìa lòng vàng đá, nọ nguyền tóc tơ. 795.- Ỷ-hoa song sóng người thơ, Bóng lồng chung vẻ, hương đưa lẫn mùi. Cờ lòng nghe cũng láng lai, Trong khi gắn-bó ra chồi lần-khân. Nàng rằng : "Bồ-liễu chút thân, 800.- "Móc đường những lệ chúa xuân phải phiền. "Trăm năm nhẹ một tấm nguyền, "Vừng soi đã hổ với trên đỉnh đầu. "Thề lòng đợi bến Hà-châu, "Đợi đâu trên bộc trong dâu ru mà ! 805.- "Dám xin tính rộng toan xa, "Bảng vàng treo đã, đuốc hoa vội gì", Một chiều thêm một nể vì, "Lọ : mây ngồi, với : mưa đi, mới tình ". Chuyện-trò thêm gắn sắt đanh, 810.- Dùi sương chợt mảng trên thành điểm năm. Giục ai giọt lệ khôn cầm, Rốn thêm căn-vặn, lưu tâm mấy lời. Sầu đâu cũ mới xui người, Bên băng gác tía, bên dời song thưa. 815.- Những đành cải bén kim ưa, Máy thiêng đâu đã nhiệm lừa biết đâu. Lương gia vào các bấy lâu, Sáng soi gương đức, rộng lâu nền bình. Vạc mai chán nếm tràng danh, 820.- Rau thuần chạnh nhớ mùi canh ngọt ngào. Làm chi một giấc lá hươu, Ràng nhau đầu gạc ốc bâu khó lòng. Dẫn nhàn gửi dưới bệ rồng, Đền xuân yến mở, cửa đông tiệc này. 825.- Vẻ-vang rờ rỡ gấm ngày, Ai ai chẳng muốn bạn-bầy với tiên. Có Lưu Lại-bộ bạn hiền, Là người bản huyện cũng xin viện lề Dòng theo một cữ thuyền về, 830.- Sớm đưa bến-sỹ, hôm về sông dâu, Pha-phôi trăng mạn giò lèo, Rộng ngâm vân-thủy bơi chèo yên-ba. Khi vui thóc-mách chuyện nhà, Họ Lưu một gái, tên là Ngọc Khanh. 835.- Tuần mười lẻ bảy xuân xanh, Người trang-trọng nết đoan-trinh vẹn mười. Rõ tin, Lương mượn chén mời : "Đường quan anh cũng nhác đời như em. "Vòng trần hẳn đã không thèm, 840.- "Chút nguyền du Nhạc còn hiềm chửa nguôi. "Trộm toan kén lứa chọn đôi, "Tấn Tần có lẽ với người phồn-hoa. "Thôi thì ta lại biết ta, "Chỉ e rêu-cỏ biết là nên chăng?" 845.- Cạn lời Lưu mới thưa rằng : "Từ vào chi-thất xem bằng Long-môn. "Một lời đã với nước non, "Vâng xe mối chỉ cho tròn duyên tơ. "Quản bao tuyết đợi, sương chờ, 850.-"Xin đem dây sắn may nhờ bóng thung". Khiển tình mấy chén thung-dung, Việc hai nhà, để hai lòng định nên. Dập-dìu buồm nghĩa gió duyên, Lòng tên thuyền cũng như tên chiều lòng. 855.-Non xuân mới rõ làn trông, Cờ bay ngọn gấm, xe lồng thức mây. Giang-đình đôi ngả cia tay, Lương-đài gióng ngựa ruổi ngay quê nhà. Dập-dìu cầm-sắt xướng hòa, 860.- Phu-nhân đã giục tin ra rước chàng. Tướng-công dẫn sự dọc đường, Gặp Lưu cao-nghĩa, được nàng tốt đôi. Nhà huyên thêm nỗi lòng vui, Người băng đưa thiếp đã sai đệ-trình. 865.- Dự trao một lễ cho đành, Lệ thường chẳng nỡ chờ sinh trễ ngày. Sinh vừa vâng thấy tin bay, Tạ từ cậu-thị sắp bày qui-trang. Lại sang bái tạ đài Dương, 870.- Tiễn-đưa ông mới tỏ tường lòng riêng: "Nỗi lòng luống những cấn quyền, "Chút còn e-lệ cho nên ngại-ngùng. "Lời quê hãy gửi Tôn-ông, "Bấy lâu trộm đã ơn lòng thầm yêu. 875.- "Ngây-thơ một chút yêu-đào, "Khuôn vàng cho lĩnh ít nhiều là may." Nghe lời như cởi niềm tây, Tạ từ thôi lại dạo ngay sảnh-đình. Gặp Hương mới kể sự-tình: 880.- "Xin nhờ dì gió đệ-trình trướng loan. "Một mai vội gióng Dương-quan, "Diện-từ xin giải niềm đan mấy lời". Chợt nghe chín khúc tơi-bời," Thềm lan lặng đứng vội dời gót lan, 885.- "Duyên ưa mai liễu một đoàn, "Nay ai đã vội giở màn đình Cao. Sinh rằng: "Chút nghĩa tương giao, "Chưa cùng sum-họp nỡ nào chia-phôi. "Dắt tơ nay mới vâng lời, 890.- "Đành hay người định thời trời phải theo. "Sớm khuya gác gấm buồng thêu, "Ngọc vàng mình phải nưng-niu lấy mình. "Dập-dìu lá thắm chim xanh, "Quả mai chi để trên cành bảy ba. 895.- "Tình xa bao quản người xa, "Tương tri có thế mới là tương tri". Rằng : "Nay nam-bắc phân-kỳ, "Đã đành trời nọ trăng kia mới lòng. "Gió mây hãy gắng chí hồng, 900.- "Trông mong cho bõ tấm lòng bấy nay". Mặt nhìn chẳng nỡ rời tay, Non xa liễu đã tơ xoay bóng vàng. Gửi tình nửa ngọn cành dương, Hồn quê thơ-thẩn như dường theo ai. 905.- Tuyệt mù cây khuất bóng người, Ngại-ngần năm bước ra mười về hiên, Thanh gươm cặp sách xuống thuyền, Lưng khoan chất thảm, đầy then chứa sầu. Song bồng mưa vẩy gió mau, 910.- Trận nhàn chép nhớ, ngọn lau gảy buồn Dòng xuôi một giải nhường tuôn, Đầu mui đã thấy hương-thôn gần gần.
Chú thích:
Trúc-mai: là hai cây ở trong bốn cây kết bạn cao-khiết quân-tử với nhau gọi là tứ hữu :mai, lan, cúc, trúc yến mối, oanh tin: là tin-tức mối-manh của đôi lứa trai-tài gái-sắc. gió sở mây tần: hay mây sở mưa tần thảy đều chỉ sự trai-gái của hạng người phong-lưu. khách huống lữ hoài: là cái tình cảnh cô-đơn hiu-quạnh của người làm khách ở quê người. Non xuân: bởi chữ xuân sơn là một kiểu vẽ lông mày như núi mùa xuân.Mái mây : bởi chữ Vân hoàn : mái tóc như làn mây. Phượng xo phiếm lựa, loan gầy bóng treo: Phượng xo loan gầy : chim phượng ốm, chim loan gầy. Nghĩa bóng là hình-dung nàng Giao Tiên gầy-gò xo-ốm. tằm oanh: là tơ tằm rối. Nghĩa bóng -lắm nỗi nghĩ-suy. Đấu: là cái đấu dùng để đong lường. bạc mẫu: là cái khuôn đúc bạc .Trầm tre : là lấy tre mà thế gỗ trầm-hương. Nghĩa bóng có hư danh không có thực tài. Ải Vân oán điệu tỳ-bà: Tích Chiêu Quân cống Hồ khi ra cửa ải Vân-quan ôm đàn tỳ-bà gảy có giọng ai-oán. Buồm mây khói tỏa năm hồ: Tích Phạm Lãi bày kế cho vua Việt Câu Tiễn phục thù vua Ngô Phù Sai bằng cách đem Tây Thi dâng cho vua Ngô. Sau khi phục được thù thì cùng với Tây Thi giong chơi Ngũ Hồ. rủ phượng: là rủ chim phượng-hoàng, do chữ cầu hoàng là tên khúc đàn của Tư-mã Tương Như đàn để ghẹo trác văn Quân. nước non: tức là sơn-thủy. Sơn thủy là cao sơn lưu thủy là tên hai khúc đàn. Tích Bá Nha là người đàn cầm hay quán đời Xuân-thu, gặp Chung tử Kỳ đi đốn củi, nghe đàn mà nhận được tính-tình âm-điệu. Khi Bá nha trông non capo mà đàn, Tử kỳ nói : vọi vọi như núi cao.Khi nhìn giòng nước mà đàn, Tử Kỳ nói: mênh mông như nước chảy. Tù đó Bá Nha nhận tử Kỳ là bạn tri-âm. Sau Tử Kỳ chết, Bá nha đập đàn và nói trong thiên-hạ không có người tri-âm. lưu lệ: lưu : trôi chảy, lệ : đẹp . Lưu lệ là cái hoạt-động tươi-đẹp của một phong-cảnh. Nhang: tức là tên Vân Hương, vì nhang cũng là hương. Mã-đương: là tên núi ở xứ An-huy. Mé núi có miếu thờ thần Mã-dương. Chính tại nơi ấy Vương Bột làm bài phú Đàng-vương. báu nước: bởi chữ quốc-bửu, ví người trai có tài-hạnh cao-siêu. Hương trời ; là vì người con gái tài sắc tuyệt vời Chén tương: chén rượu. Bữa huân: bữa cơm sang trọng . Cung tiêu tức phòng tiêu, là nơi nhà vua dùng tiêu bôi vào vách cho ấm, nơi sang-quí. Pho tình: tức pho tình sử : là một pho tiểu thuyết chép chuyện tình từ xưa chia làm nhiều bài, có 24 quyển tất cả. quyền mà chẳng dời kinh: quyền : là sự quyền-nghi : tạm dùng . Kinh : sự cương-thường đạo-đức, bóng nga: bóng trăng. bút giá hương bình: là cái giá gác bút, cái bình đựng hương. chép núi, đầy hàng tạc sông: chép núi tạc sông : là lời thề không thể di dịch. lòng vàng đá, nọ nguyền tóc tơ: là lòng bền-vững như vàng đá, nguyền dài-dặc như tóc tơ, Cờ lòng: do chữ tâm sinh dịch ra cờ lòng. Ý nói tấm lòng không định, cứ lay-lắc như lá cờ trước gió. Móc đường: nói về sự con gái giữ lòng trong sạch không đi ban đêm khi móc sương ướt đường-sá, Bảng vàng: là thi đỗ cao tên đề ở bảng thếp vàng. Dùi sương: là cái dùi trống trong đêm sương. Điểm năm : là đánh năm tiếng.cải bén kim ưa cải bén kim ưa: tức hai bên gaq1n bó keo sơn với nhau. Vạc mai: đỉnh mai. Đỉnh cái vạc. Rau thuần: là canh nấu bằng rau thuần. Tấn thơ chép chuyện Trương Hãn làm quan Đại-tư-mã ở xa quê nhà, nhân thấy gió thu thổi mà nhớ đến vị ăn ở quê nhà là canh rau thuần, gỏi cá lo (cá vược0 bèn bỏ quan mà về nhà. Dẫn nhàn: là kéo dài thêm sự rảnh-rỗi riêng cho người về hưu. gấm ngày: do chữ Trú Cẩm. Trú là ngày. Cẩm là gấm. Tích này do Hàn kỳ đời Tiống làm quan Tể-tướng lại được trị việc ở nơi quê ông ở. du Nhạc: chơi ở núi Nhạc. Tấn Tần: là tên hai nước đời Xuân-thu. Hai nước hai nước ấy đời đời kết hôn nhân với nhau cho nên sau dùng sự hôn nhân gọi tấn tần hay Tần Tấn cũng đều đồng một nghĩa. chi-thất: nhà ướp cỏ chi. Sách Khổng-tử gia-ngữ nói : ở cùng người quân-tử như vào nhà ướp cỏ chi-lan lâu ngày hóa thơm mà không hay biết. Long-môn: cửa rồng. bóng thung:Thung là một thứ cây danh-mộc thân cứng lá dày, bóng rộp. Giang-đình: lá nơi bờ sông dựng cái nhà để quan-khách đưa tiễn nhau khi từ biệt. Lương-đài: là nơi xưng sang-trọng nhà họ Lương. Đài là cái nền cao, ví nơi cao-sang, Người băng: là người mối manh, cấn quyền: gắn bó. Khuôn vàng: do chữ kim môn : nơi sang-quí và có nền-nếp thi-lễ, trướng loan: màn thêu chim loan. gót lan: cũng như gót sen, ví con-gái đẹp. mai liễu: là hai loại cây mai và liễu người xưa thường trồng với nhau một bồn, nên ví với bạb-bè. phân-kỳ: chia đường, bõ: nghĩa là bù lại sự đã mất.. Song bồng: cửa sổ sổ ở dưới thuyền. Song : cửa sổ. Bồng : mui thuyền. Trận nhàn: một đàn chim nhạn. ngọn lau gảy buồn: ngọn lau bị gió đánh xào-xạc như gảy khúc đàn buồn.