Câu chuyện đầu tiên mà ĐHC xin kể cho quý vị nghe là chuyến đi xuống Cần Giờ cách đây đã lâu.
Nhìn chung Cần Giờ không phải là một vùng đất đơn giản, có thể nói : “Đất Cần Giờ tưởng hiền nhưng dữ Người Cần Giờ tưởng dữ nhưng hiền”
Tuy là đất mới bồi đắp nhưng quá trình hình thành của nó có lẽ đã được hàng mấy ngàn năm rồi., nơi đây có ẩn chứa rất nhiều bí mật mà hầu như chưa được mấy ai khám phá.
Nhóm người bao gồm ĐHC và NGƯỜI BẠN trong chuyến đi này chuẩn bị khá kỹ lưỡng. Đồ vật bao gồm các dụng cụ đo đạc, quan trắc, dụng cụ đào, thức ăn khô, quần áo và chiếc honda cup78, lên đường vào khỏang 5h sáng.Đường đi Cần Giờ thời điểm này còn rất xấu, lầy lội, những cây đước mới vừa trồng còn rất nhỏ, qua phà Bình Khánh, đến nơi cảm thấy là rất mệt mỏi. Địa điểm mà ĐHC lựa chọn trong lần này là xã A, lúc đó cả xã chỉ khỏang hơn 200 nóc nhà lá nghèo xơ xác. Tay trưởng CA xã xem ra khá dễ chịu khi có khách xuống thăm, đặc biệt là sau chầu nhậu chào sân tại cái quán duy nhất trong xóm. Anh ta còn niềm nở mời ĐHC trọ tại nhà anh ta vì “ vừa an toàn, vừa rộng rãi”. Sau những “thủ tục đầu tiên” chộn rộn, ĐHC được chủ quán dẫn đến nhà một người được xem là có máu mặt nhất xóm. Căn nhà lá nằm gần cuối làng, ven bờ biển. Sừng sững trước cửa nhà là một người đàn ông vô cùng lực lưỡng, cao trên mét tám. Ngực anh ta to như tấm phản, trên đó có xăm đủ 5 ông phật cực kỳ tinh xảo ẩn hiện trong các đám mây. Hai tay là hai con rồng uốn lượn mà nét đẹp của nó trong các quý vị có ai từng được thấy hình xăm rồng của các chiến binh Lôi Hổ ngày xưa cũng còn phải chào thua….Nhìn thấy là đã ớn lạnh, quả thực phen này ĐHC đã chạm phải cao thủ chơi bùa 5 ông đích thực…! Thế nhưng, người đàn ông lực lưỡng còn gọi là “anh Năm” xem ra chẳng là cái đinh gì khi đứng cạnh “anh Ba”. “anh Ba” chồm chỗm ngồi trên tấm ván ngựa, to như một quả núi, cái áo hoa hòe mặc trên người anh Ba đích thực là cái áo của người Miên. Nhìn xuống tấm ván ngựa, ĐHC mới hết hồn….tấm ván đen trùi trũi, óng ánh sắc đỏ, dày cỡ gần hai tấc, bề ngang phải tới một mét rưỡi, dài ước chừng hơn ba mét. Hai tấm ván xếp cạnh nhau chiếm muốn hết cả gian nhà, phía xa xa là cái tủ thờ đen sì (bằng gỗ mun là cái chắc) hoa văn khảm xà cừ 7 màu lấp lánh…chỉ với 2 món đồ gia bảo này thôi , ở cái xóm nghèo khổ này hiển nhiên vị trí Đại ca của “anh Ba” đã được khẳng định. - Chú em có cần gì cứ nói với anh, công việc gì đó của chú cần bao nhiêu người làm? Cứ từ từ rồi tính…còn hôm nay chú và mấy người bạn uống với anh vài ly…..có thằng đệ của anh (chỉ anh Năm) mai cho nó theo giúp các chú. Sau chầu rượu với con gà luộc, ĐHC như mơ như tỉnh, anh Ba kêu một thanh niên khá gày gò lên giới thiệu : - Thằng nhỏ này là con anh, 17 tuổi, anh mới vừa cưới con vợ thứ ba cho nó….con Gái đâu rồi, ra đây biểu coi,…con nhỏ này mới vừa 16 tuổi, siêng năng , chịu khó nên anh cưới nó về để nhà có thêm người làm….. ĐHC thấy cô bé này cũng xinh ra phết, hai mắt đen lay láy, mới 16 tuổi đầu đã đi làm vợ người ta nhưng vẫn không giấu được nét ngây thơ của một cô bé, nhìn xa xa còn thấy lấp ló đằng sau vài người đàn bà nữa, chắc đều là vợ của cậu con “anh Ba”. Xem ra “anh Ba” quả là một ông trùm đích thực. Nãy giờ ĐHC quên mô tả nhân diện của “anh Ba”. Đó là gương mặt của một người có cân nặng khoảng 150 kg, đỏ như con gà chọi, gắn trên nó là hai con mắt hùm hụp, cái miệng mỏng quẹt với hai mép trễ……tóm lại đó là cái mặt có thể khiến người đối diện phải khiếp vía. Xem ra chuyến đi này của ĐHC không phải là dễ dàng rồi.
Sáng hôm sau, sau khi mướn chiếc ghe của “anh Ba”, cùng với khoảng 6 người bao gồm “anh Năm”,…Tư râu, Ba Đen và 3 người nữa, ĐHC cùng Người Bạn bắt đầu lên đường. Vùng đất Cần Giờ có rất nhiều gò đất cao nổi trên sông mà người ta gọi là Giồng, ví như Giồng Đỏ, Giồng Am, Giồng cá Trăng ông Hàn, Giồng cá Vồ……có khỏang vài chục cái giồng như vậy. Vị trí đầu tiên mà ĐHC cùng Người Bạn lựa chọn tạm đặt tên là Giồng A. Phụ trách chèo ghe là “anh Năm” và Tư Râu, “anh Năm” chèo lái còn Tư Râu chèo mũi. Tư Râu dáng người tầm thước, có bộ râu quai nón nom như cao bồi miền Viễn Tây, mũi y rất cao, còn cặp mắt sắc lạnh nom khá đáng sợ. Vợ con Tư Râu đi vượt biên đã chết cả ngoài biển, một mình y bơi được vào bờ, hiện giờ y về đầu quân với “anh Ba”. Còn Ba Đen thì đúng như tên gọi của y, đen trùi trụi. Người Cần Giờ hầu như ai cũng đen, nhưng Ba Đen xem ra là đen hơn cả…nhìn y không khác gì hòn than là mấy. Ba Đen người nhỏ con nhưng rất rắn chắc, vợ y đã chết, để lại y hai đứa con một trai một gái. Hiện giờ y cũng là đệ tử của “anh Ba”. Còn 3 người còn lại chỉ là dân chài trong xóm, xem ra không có gì đáng kể. Anh Năm và Tư Râu chèo rất đều tay, từ xóm ra đến nơi ước tính khỏang trên 15 cây số, quanh quẹo qua nhiều khúc sông, có lúc đi xuyên qua rừng đước. Trên đường đi Ba Đen thao thao kể chuyện, nghề chính của y là đánh cá, nhưng Cần Giờ bây giờ ít cá và bão nhiều…..những lúc đói kém y thường xuyên chèo ghe đi chặt trộm đước hoặc câu trộm tôm, “tiền kiếm được nhiều hơn đi biển”!. Đến nơi thì đã khoảng hơn 9h, giồng A là một cái giồng còn bỏ hoang, cây cối thưa thớt nên khá nắng. ĐHC cho căng lều sau đó bắt đầu chuẩn bị. Để tìm báu vật dưới lòng đất không phải chuyện dễ. Đầu tiên và quan trọng nhất là phải xem thế đất và phong thủy. Phải xác định được thế đất và phong thủy là có báu vật hay không sau đó mới tính đến những chuyện khác. Dùng 2 cái la-bàn để xác định phương hướng , sau đó dùng 3 cái ni-vô để xác định cao độ. Mắt người nhìn nhiều khi không chính xác, phân định độ cao mà lầm lẫn nhiều khi dẫn đến những sai lầm mà hậu quả của nó là tiêu tốn cả hàng chục triệu đồng như bỡn. Còn một điều nữa là nhiều khi chỗ đất mà ta tưởng là cao thực ra lại là chỗ đất mà người sau này mới đắp, còn cái chỗ trũng thấp nhiều khi trước kia lại chính là nơi cao nhất… Các nhà khảo cổ khi đào thường nghiên cứu địa tầng sau đó phân đất thành từng ô vuông nhỏ, đánh số và triển khai đào từ từ. Công việc của họ đòi hỏi nhiều nhân lực và tiền bạc, thời gian cũng phải rất lâu. Việc truy tìm vật báu không được phép đào lâu như vậy, ngòai việc đo đạc, đánh dấu, định phương hướng, linh cảm và trực giác là quan trọng nhất… đó là cái khả năng nhìn thấy được cái cần nhìn thấy trong lòng đất. Quý vị tưởng tượng, cả một vùng đất mênh mông mà đào bới lung tung thì đến tiền tỉ cũng không đủ chứ đừng nói mà tay không trở về thì có mà đi ăn mày sớm. Ở đây ĐHC xin không nói rõ phương cách đào tìm vì nó không thể rao truyền được. Sau khi định vị chính xác, ĐHC trải một cái mâm đỏ và một ít lễ vật, rượu nếp trắng, đi xung quanh 3 vòng, niệm chú sau đó đổ rượu ra xung quanh khấn sơn thần, thổ địa. Bắt đầu đóng chiếc cọc đào đầu tiên là vừa vặn đúng ngọ. Để tiết kiệm chi phí, chỉ Tư Râu và 3 người sẽ đào còn “anh Năm” sẽ lo nấu cơm, Ba Đen được giao đi bắt cá để cải thiện thêm. ĐHC dự định sẽ đào trong 3 ngày liên tục, nếu gấp thì sẽ đào đêm luôn. Trời buổi trưa nóng như lửa đốt, nhưng trong việc đào, nắng càng gắt là càng tốt, ban đầu ĐHC chỉ đào phạm vi nhỏ để lấy địa tầng trước, trong lúc đó Người Bạn sẽ đi vòng quanh giồng để tìm hiểu thế đất và nhặt các mảnh đất đá vụn v.v…Nắm vững địa tầng là việc vô cùng quan trọng của một Ông thầy địa lý, quý vị sẽ thấy rằng nếu gặp một ông thầy địa lý phong thủy mà thao thao bất tuyệt về đủ lọai thế đất, hướng gió, hướng nhà…..này nọ, mà không nắm được địa tầng ngay nơi chân mình đứng, dòng chảy của mạch nước như thế nào, thì có thể nghi ngờ đó là một ông thầy địa lý giả hiệu. Còn việc nhặt các mảnh đất đá vụn nhiều khi vô tình sẽ nói cho ta biết được rất nhiều điều mà nhiều khi chủ quan bỏ sót. Đào liên tục hơn 4 giờ đồng hồ thì tạm nghỉ, xem ra tình hình không mấy khả quan ở giồng đất này. Nhưng trong ngày đầu tiên ĐHC cũng không đòi hỏi gì nhiều. Cả đoàn cùng ăn cơm trên một tấm bạt, “anh Năm” nấu cơm thật ngon, còn Ba Đen quả là một cao thủ bắt cá. Có mấy tiếng buổi chiều mà y bắt được một đống cá cộng thêm vài con bạch tuộc nho nhỏ. Trong lúc ăn, ĐHC mới quan sát kỹ “anh Năm” . Năm ông Phật được xăm trước ngực “anh Năm” thật kỹ lưỡng và tinh xảo, ông Phật chính giữa nom hao hao giống Phật Tổ, bốn ông ở hai bên có lẽ là Tả Hữu hộ pháp. Phía sau lưng lại là hình của 5 ngôi chùa tháp theo kiểu chùa Miên. Hai con rồng chạy từ bả vai xuống đến gần cổ tay ửng cái màu xanh xanh kỳ lạ. Kiểu xăm này không phải là kiểu xăm của giới giang hồ,….mà có lẽ thuộc về một võ đạo của người Miên. Đặc biệt có những chữ loằng ngoằng nửa chữ Miên, nửa chữ Phạn ở dưới những ngôi chùa….có một vết thẹo dài dưới khủy vai, chắc là một vết chém cực mạnh.
Người Bạn cho ĐHC xem một vài mảnh gốm nhỏ, toàn là gốm Miên, có một vài mảnh gốm Tàu, có thể cách đây trăm năm những thưyền buôn của người Tàu có ghé qua đây. Hình như mọi động thái của ĐHC và Người Bạn đều không qua khỏi cặp mắt trắng dã của Ba Đen.
Nguyên buổi sáng hôm sau không tìm được gì ngoài một vài mảnh vỡ của mấy cái đĩa và một cái bình có hoa văn của Tàu…. ĐHC cho thu lượm tất cả các mảnh gốm, đá sỏi đặc biệt vào khoảng mấy chiếc bao sau đó rút về . Lúc về, thuyền ghé ngang một cái gò gần ngay cửa biển. Cái gò này thể hiện dấu tích của người Sa Hùynh rất rõ. Rất nhiều mảnh gốm vỡ nát có những hoa văn sóng nước đặc trưng của người Sa Hùynh, gốm Sa Hùynh rất đỏ và rất cứng nên có thể tồn tại rất lâu với thời gian mà không bị hề hấn gì. Trên đường về, đi ngang cửa biển không ngờ gặp hôm sóng lớn, thuyền dập dềnh sát mép nước, ĐHC nhìn ra xung quanh thấy biển nước mênh mông mà lòng ớn lạnh, lại nhìn thấy cái mái chèo của “anh Năm” đưa qua đưa lại càng thêm khiếp vía….Bỗng Ba Đen la lớn “có cái gì trôi kìa”, quả thật xa xa có một khối đen to trôi bập bềnh, thuyền ghé lại. Ba Đen phóng ngay xuống nước, nhưng y lại vọt lên ngay, hốt hỏang nói “con cá gì to quá, bị vướng lưới chết..” Tư Râu và Ba Đen cùng nhảy xuống một lần nữa, con cá to thật, dài phải hơn 4 mét, nhìn giống cá nược, chắc nó bị vướng lưới chết nên ngư dân hỏang sợ cắt bỏ lưới thả nó trôi lềnh bềnh trên biển. Con cá quá to không thể đưa lên thuyền, phải cột chặt nó vào mạn thuyền và kéo nó theo. Ngư dân Cần Giờ họ thờ cá Voi nên thấy nó rồi không thể bỏ được mà phải mang về chôn và cúng đàng hoàng. Thuyền về đến xóm, cả xóm đổ ra xem con cá lạ. Con cá to quá phải hơn 10 người mới kéo nó lên bờ được. Khi kéo nó lên bờ để hơn nửa tiếng thì tự nhiên mắt nó ứa ra máu…. dân làng quyết định sẽ chôn nó ngay bờ biển. “anh Ba” là người sẽ chủ trì cúng tế. ĐHC thấy “anh Ba” tuy to lớn dềnh dàng như vậy nhưng đi đứng lại rất nhẹ nhàng, không hề tỏ ra nặng nề gì cả. Buổi cúng tế rất trang trọng, có mâm quả, nhang đèn đầy đủ, “anh Ba” khấn vái sau đó đốt một đạo bùa thả tro xuống biển. Cuối buổi còn cắm 4 chiếc cọc căng bạt làm một mái lều để che mộ cá ông trong 3 ngày.
* * *
Mới hơn 8h mà làng chài đã tối hù như hũ nút, ĐHC và Nghi (tên của trưởng CA xã) đảo bộ đi ra quán. Quán tối om, chỉ có một ngọn đèn cầy leo lét, còn năm bảy ngư dân ngồi nhậu. Nghi bước vào, không khí trong quán đâm ra im ắng lạ. Nghi và ĐHC chọn một cái bàn nhỏ trong góc ngồi. Chủ quán tên Bảy Chìa thấy Nghi đến thì lăng xăng mang mồi và rượu tới. Bảy Chìa nói “tôi ở xóm chài này đã lâu mà chưa từng thấy con cá nào to như vậy, chú Hai mới ra mà gặp được nó cũng là một điềm lạ”. Nghi chẳng nói gì, y có tính bình thường thì nói nhiều, nhưng uống rượu vào thì lại lầm lỳ ít nói. Sau hơn 3 xị rượu, quán bây giờ vắng tanh, ngư dân đã về hết. Bảy Chìa cũng đã gật gù vì uống suốt từ chiều đến giờ. Nghi chắc cũng say, hai con mắt sắc lẻm của y giờ trở nên đỏ ké. ĐHC cũng đã ngà ngà say, sực nhìn vào tuốt phía trong góc quán không hiểu từ lúc nào lại có một người đàn bà ngồi từ bao giờ. Ánh sáng đèn cầy leo lét hắt vào mặt người đàn bà nom cô ta thật ma quái. Nghi cũng đã nhìn thấy cô ta, y chỉ cái ghế kêu cô ta lại ngồi; khi cô ta đến gần, ĐHC cũng giật mình vì cô ta quả là rất đẹp. Người đàn bà tên Nhi, mắt một mí hình như là lai Tàu, có nước da khá trắng so với người miền biển. Nghi có lối hút thuốc rất lạ, y không hút ba số 5 mà hút ba số 7, một lọai thuốc rất nặng và hôi, đầu tiên y nhét thuốc vào mép phải, sau đó dùng lưỡi đẩy qua mép trái, khi điếu thuốc hơi gật trễ xuống thì Nhi bật quẹt xòe một cái rồi châm cho y, xem ra cô nàng tỏ ra khá thân với Nghi. Thêm 3 xị rượu nữa thì ĐHC đâm ra say thật, Nhi bây giờ đã kéo ghế ngồi gần ĐHC. Hơi rượu ngà ngà cộng với mùi tóc thơm phảng phất của người đàn bà làm ĐHC thêm ngây ngất. Câu chuyện càng ngày càng trở nên thân mật, Nhi kể cô ta đúng là lai Tàu thiệt, nhưng cô ta không nói được tiếng Tàu vì ba của cô ta đã bỏ mẹ con cô ta ra đi từ lúc cô ta còn rất nhỏ, chồng cô ta chết đã lâu, một mình nuôi con quả là khó khăn quá, may mà có “anh Ba” giúp đỡ. “em trở thành em nuôi anh Ba từ đó” . Nghi đã về từ lúc nào, ĐHC ráng ngồi chút nữa với Bảy Chìa và Nhi. Cô ta bắt đầu nói quá nhiều, đủ thứ chuyện trên trời dưới đất. Nhiều khi cô ta còn tò mò hỏi ĐHC xuống đây làm gì?! Trước khi về ĐHC đưa cho cô ta “hai xị”, cô ta đỏ bừng mặt, chồm sát lên hôn và thì thào “ anh ở đây phải cẩn thận đó nha”.