39
Khi mặt trời lặn và sao trời vừa ló dạng – không tỏ vì hôm ấy trăng tròn - cậu đi về hướng Nam. Ở đó chỉ một cái lều duy nhất và những người Arập đi ngang đều bảo cậu rằng chỗ này chỉ toàn là Dschinn - quỉ thần – thôi. Những cậy vẫn ngồi đợi trên một tảng đá. Mãi khi mặt trăng đã lên cao nhà luyện kim đan mới xuất hiện. Ông đeo lủng lẳng trên vai hai con chim bồ cắt đã chết.
“Cháu ở đây này”, cậu lên tiếng.
“Cậu không nên ở lại ốc đảo này”, nhà luyện kim đan nói. “Hay là vận mệnh cậu đã xui khiến cậu tối đây?”
“Vì có đánh nhau giữa các bộ tộc, thành ra cháy không thể đi tiếp qua sa mạc đuợc”.
Nhà luyện kim đan xuống ngựa, ra hiệu cho cậu theo ông vào trong lều. Nó giống mọi lều khác ở ốc đảo, không kể lều của các tộc trưởng sang trọng như trong truyền thần thoại. cậu đưa mắt tìm lò luyện, bình và nồi nấu nhưng không thấy gì cả. Chỉ có sách xếp chồng lên nhau, một cái bếp và những tấm thảm đầy hình vẽ kì quái.
“Ngồi đây, ta đi nấu trà”, nhà luyện kim đan nói. “Rồi mình thưởng thức thịt chim bồ cắt”.
Cậu ngờ ngợ rằng đó là hai con chim mình thấy hôm qua nhưng không nói gì. Nhà luyện kim đan nhóm lửa, rồi chỉ một lúc sau căn lều nức mùi thịt chiên. Dễ chịu hơn mùi thơm của ống điếu nhiều.
“Vì lí do gì ông muốn gặp cháu?” Cậu hỏi
“Vì điềm báo. Gió đã báo cho ta là cậu tới đây, và cậu cần được giúp đỡ”.
“Không phải cháu đâu mà là anh chàng người Anh cơ. Anh ta đã tìm ông mãi”
“Hắn còn phải làm cho xong một số điều khác, trước khi gặp được ta. Nhưng hắn đã đi đúng hướng rồi đấy. Hắn đã bắt đầu tìm hiểu sa mạc”.
“Thế còn cháu?”
“Khi người nào muốn điều gì thì cả vũ trụ sẽ chung sức lại để người ấy đạt được điều mơ ước”, nhà luyện kim đan nói.
Ông lập lại những lời của nhà vua già. Cậu hiểu ngay. Lại thêm một nguời đón gặp và dẫn mình đến gần với vận mệnh của mình.
“Ông sẽ chỉ dạy cháu chứ?”
“Không. Vì cậu đã biết hết những gì cần biết. Ta sẽ chỉ cho cậu phương hướng của kho tàng thôi”.
“Nhưng mà đang có đánh nhau”, cậu nhắc lại
“Ta biết chuyện gì đang xảy ra trên sa mạc”
“Cháu đã tìm thấy kho báy rồi vì hiện cháu có một con lạc đà, cộng thêm số tiền từ hồi làm ở hiệu pha lê và năm mươi đồng tiền vàng. Cháu sẽ là một người có của ở đất nước mình”.
“Nhưng chẳng thứ nào ở Kim Tự Tháp cả”
“Cháu có Fatima. Nàng là kho báu quí nhất của cháu”
“Nhưng cô bé ấy cũng có ở Kim Tự Tháp đâu”.
Hai người ăn thịt chim trong lặng lẽ. Nhà luyện kim đan mở một cái chai rồi rót một chất lỏng màu đỏ vào li của cậu. Rượu vang! Và là thứ rượu tuyệt nhất của cậu từng uống.
“Đạo cấm uống rượu mà!”
“Những thứ vào miệng con người không độc hại, xấu xa”, nhà luyện kim đan đáp. “Xấu xa độc hại là những gì từ miệng họ tuôn ra. "
Rượu làm cậu hưng phấn nhưng nhà luyện kim đan khiến cậu băn khoăn. Họ ngồi trước lều ngắm trăng. Trăng sáng làm ánh sao nhạt dần
“Uống nữa đi”, nhà luyện kim đan nói khi thấy cậu vui vẻ hẳn lên. “Rồi hãy ngủ yên tối nay, như một chiến binh trước ngày ra trận. Đừng quên rằng trái tim cậu ở đâu thì kho báu cũng ở đó; cũng như phải tìm cho ra kho tàng thì những gì cậu học được trên đường mới thật có ý nghĩa. Ngày mai cậu hãy bán lạc đà đi, mua một con ngựa. Lạc đà khó lường lắm: chúng đi cả nghìn bước chẳng có dấu hiệu mệt mỏi nào cả, nhưng thình lình khuỵu xuống rồi chết đứ đừ. Ngựa thì mệt từ từ, thành ra người ta luôn luôn lường trước được có thể thúc ép chúng tới mức nào và chừng nào chúng sẽ chết”.
40
Chiều tối hôm sao cậu đi ngựa đến lều của nhà luyện kim đan. Cậu đợi một lúc thì ông cũng vừa xong để đi; con chim ưng đậu trên vai trái.
“Hãy chỉ cho ta sự sống trên sa mạc”, nhà luyện kim đan nói, “chỉ những ai tìm được sự sống thì mới có thể tìm thấy kho tàng”.
Họ cưỡi ngựa qua những đồi cát loáng ánh trăng.
“Không biết mình có tìm ra sự sống không, vì nói cho đúng thì mình đâu đã rành sa mạc”, cậu nghĩ.
Cậu muốn quay sang nói với ông như thế nhưng lại ngại. Lát sau họ tới chỗ tảng đá mà hôm trước cậu đã trông thấy hai con chim bồ cắt, nhưng giờ đây chỉ có gió và tĩnh lặng
“Cháu không biết cách tìm sự sống trên sa mạc”, cậu nói, “tất nhiên cháu biết là có sự sống nhưng không biết tìm ở đâu”.
“Sự sống lôi cuốn sự sống”, nhà luyện kim đan gợi ý.
Và thế là cậu hiểu. Cậu thả lỏng ngay cương ngựa, để nó tự đi qua các tảng đá. Nhà luyện kim đan im lặng đi theo. Con ngựa của nhà cậu chạy lòng vòng gần nửa tiếng. Họ không còn nhìn thấy rừng chà là nữa, chỉ còn mặt trăng to tướng trên bầu trời và những tảng đá lấp lánh ánh trăng bạc. Chợt cậu thấy con ngựa đứng lại ở một nơi mình chưa hề tới bao giờ.
“Chỗ này có sự sống”, cậu nói với nhà luyện kim đan.
“Tuy cháu không biết ngôn ngữ của sa mạc nhưng con ngựa của cháu biết ngôn ngữ của sự sống”
Họ xuống ngựa. Nhà luyện kim đan vẫn không nói gì. Ông vừa từ từ đi tới vừa quan sát các tảng đá. Chợt ông dừng lại, thận trọng cúi xuống. Một cái hốc nằm giữa các tảng đá. Ông thò tay vào, mới đầu chỉ là bàn tay sau cả cánh tay, tới tận vai. Có gì đó động đậy trong hốc và đôi mắt ông - cậu chỉ thấy được đôi mắt do chúng không bị khăn che – nheo lại vì cố gắng và căng thẳng, như thể ông đang giằng co với một vật gì đó trong hốc. Rồi ông rút tay ra thật nhanh khiến cậu giật mình. Ông đứng dậy, tay nắm chặt đuôi một con rắn. Cậu vội nhảy lùi lại. Con rắn không ngừng ngọ nguậy, thở phì phì làm tan sự yên ắng của sa mạc. Đó là một con rắn hổ, nọc của nó giết chết nguời chỉ trong vài phút.
“Coi chừng nọc độc”, cậu nói.
Có vẻ như ông đã bị rắn cắn nhưng vẫn tỏ ra bình thản.
“Nhà luyện kim đan đã hai trăm tuổi rồi”, chàng người Anh đã nói thế. Vậy thì ông hẳn phải biết làm gì với rắn trong sa mạc”. Cậu nhìn ông đi lại chỗ con ngựa, rút thanh kiếm cong hình bán nguyệt vạch một vòng tròn trên sa mạc rồi thả con rắn vào giữa. Con vật tức thì nằm yên.
“Đừng sợ, nó không ra được đâu. Cậu đã tìm ra sự sống trong sa mạc, đó là cái điềm ta cần”
“Điều ấy có gì là quan trọng?”
“Vì Kim Tự Tháp nằm giữa sa mạc”
Cậu không muốn nghe gì về Kim Tự Tháp cả. Ngay từ tối hôm trước tâm hồn cậu đã nặng trĩu vì buồn. Đi tìm kho báu nghĩa là rời xa Fatima. “Ta sẽ đi cùng với cậu qua sa mạc”, nhà luyện kim đannói
“Nhưng cháu lại muốn ở lại ốc đảo”, cậu đáp. “Cháu đã gặp Fatima và với cháu thì cô còn quí hơn cả kho báu”.
“Fatima là một cô gái sa mạc”, nhà luyện kim đan nói. “Cô biết rằng đàn ông phải đi thì mới có thể trở về. Cô đã tìm thấy kho báu của mình: đó chính là cậu. Bây giờ cô chờ đợi rằng cậu cũng sẽ tìm được kho tàng của cậu”.
“Nếu cháu quyết định ở lại thì sao?”
“Thì cậu sẽ trở thành cố vấn của ốc đảo. Cậu có đủ vàng để tậu nhiều cừu và lạc đà. Cậu sẽ cưới Fatima và năm đầu hai người sẽ rất hạnh phúc. Cậu sẽ tập yêu thích sa mạc và từng cây một của cả năm vạn cây chà là. Cậu sẽ nhìn thấy chúng lớn lên, qua đó thấy một thế giới không ngừng biến dịch, và cậu sẽ càng ngày càng hiểu rõ ngôn ngữ của điềm, của dấu hiệu hơn vì sa mạc là người thầy giỏi nhất. Năm thứ hai cậu sẽ nhớ lại rằng ở đâu đó có một kho báu. Các điềm sẽ không ngừng nhắc tới và cậu sẽ cố lờ đi. Cậu chỉ đem hiểu biết của mình phục vụ ốc đảo và cư dân ở đấy. Các tộc trưởng sẽ biết ơn cậu. Bầy lạc đà của cậu sẽ đem lại cho cậu sự giàu có và quyền lực. Năm thứ ba các điềm sẽ lại tiếp tục nhắc nhở cậu đem về kho tàng và vận mệnh của cậu. Và đêm đêm cậu sẽ lang thang trong sa mạc, khiến Fatima buồn khổ vì cho rằng chính cô đã cản bước chân cậu. Nhưng cậu yêu cô và cô đáp lại tình yêu đó. Cậu sẽ nhớ lại rằng cô không hề yêu cầu cậu ở lại ốc đảo, vì một người con gái sa mạc như cô biết mình phải chờ đợi chồng trở về. Vì thế mà cậu sẽ không trách cứ cô. Nhưng nhiều đêm cậu sẽ lang thang giữa các hàng cây chà là, nghĩ giá như hồi đó mình đi tiếp và vững tin hơn vào tình yêu của Fatima. Chính sự lo lắng của cậu rằng sẽ không bao giờ trở về được đã giữ chân cậu lại ốc đảo này. Và điềm sẽ báo cho cậu biết rằng kho tàng của cậu từ nay sẽ bị chôn vùi vĩnh viễn. Năm thứ tư, vì cậu cứ lờ đi, các điềm sẽ không xuất hiện lại với cậu nữa. Các tộc trưởng sẽ nhận thấy thế và sẽ không dùng cậu làm cố vấn nữa. Khi đó thì cậu sẽ là một thương nhân giàu có với nhiều lạc đà và hàng hóa. Nhưng cho đến cuối đời cậu sẽ mãi lang thang trên sa mạc, luôn quẩn quanh các gốc chà là, vì biết rõ rằng mình đã không đi theo vận mệnh và giờ thì mọi sự đã quá trễ. Cậu phải hiểu rằng tình yêu không bao giờ ngăn cản ai theo đuổi vận mệnh của mình cả. Nếu để cho chuyện ấy xảy ra thì đó không phải là tình yêu đúng nghĩa, tình yêu của ngôn ngữ vũ trụ.”
Nhà luyện kim đan xóa vòng tròn vạch trên cách hồi nãy; thế là con rắn vội vàng chui tọt và giữa các tảng đá. Cậu nghĩ tới người bán hàng pha lê mơ được hành hương đến Mekka, đến chàng người Anh khổ công tìm một nhà luyện kim đan. Cậu cũng nghĩ tới người con gái với lòng tin mãnh liệt vào sa mạc và quả nhiên một ngày nọ sa mạc đã đem đến cho cô một người trai biết yêu cô. Họ lên ngựa; lần này cậu chạy theo sau nhà luyện kim đan. Gió đưa đến những âm thanh của ốc đảo và cậu lắng tìm giọng nói của Fatima. Vì có đánh nhau nên ngày hôm ấy cậu đã không ra giếng. Để rồi tối nay, lúc quan sát con rắn nằm yên trong cái vòng tròn nọ, người kị sĩ lạ lùng mang con chim ưng trên vai đã nói về tình yêu và kho báu, về người đàn bà sa mạc và về vận mệnh của cậu.
“Cháu sẽ đi cùng với ông”, cậu nói và liền thấy lòng thanh thản.
“Sáng mai mình sẽ lên đường trước khi mặt trời mọc”, ông chỉ nói có thế.