Trước khi đọc tiếp, bạn hãy suy nghĩ và hoàn tất hai câu sau đây:
1. Lý do tại sao tôi đã không đọc Kinh Thánh Do Thái (Cựu Ước) nhiều hơn, đó là…
2. Một điều về Kinh Thánh Do Thái làm tôi thấy khó hiểu, đó là…
GIAO ƯỚC VỚI ÁP-RA-HAM
Cuốn Một người tên là Peter (A Man Called Peter) nói về câu truyện Peter Marshall. Khoảng năm 1920, ông cảm thấy mình “được gọi” hãy rời Tô-cách-lan sang Mỹ châu để truyền giáo. Ông vượt Đại tây dương mà không biết mình sẽ đi đâu. Trong lòng ông chỉ có niềm tin tràn đầy. Sau này, ông làm tuyên úy cho Quốc Hội Hoa Kỳ. Câu truyện của Peter cũng tựa như câu truyện của “một người tên là Áp-ram.” Khoảng năm 1800 trước công nguyên, Áp-ram cảm thấy “được gọi” để đi tới miền đất xa lạ. Cũng như Peter, ông không biết mình sẽ dừng chân ở đâu.
Câu truyện của Áp-ram bắt đầu với những điều mà một số người gọi là “cuộc tái tạo dựng,” một câu truyện trong Kinh Thánh nói về việc Thiên Chúa giải hòa thế giới với chính Ngài trong Đức Ki-tô (2 Cr 5:18). Theo khía cạnh mô phạm, từ ngữ tái tạo dựng rất hữu dụng vì nó giúp chúng ta hiểu ngay là Thiên Chúa can thiệp để đổi ngược lại tình trạng phá hủy hoặc “hủy tạo” thế giới do tội lỗi gây nên. Tuy nhiên theo khía cạnh thần học, từ ngữ ấy nói lên điều người ta mong đợi. Nói đúng hơn thì phải dùng từ ngữ “cuộc tạo dựng mới,” như thánh Phao-lô đã nói: “Ai ở trong Đức Ki-tô đều là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi” (2 Cr 5:17).
Thể văn trong câu truyện về Áp-ram khác hẳn thể văn trong những câu truyện về tạo dựng và hủy diệt. Hai câu truyện này xảy ra vào thời tiền sử và được truyền lại cho chúng ta qua hình thức những câu truyện biểu tượng. Còn câu truyện Áp-ram thì xảy ra vào thuở đầu khi có lịch sử và được truyền lại cho chúng ta như những câu truyện dân gian hoặc lịch sử truyền khẩu. Vì câu truyện đã được lưu truyền bằng miệng qua bao thế kỷ nên nó rất đơn giản và đôi khi được đề cao để nói lên một điểm nào đó.
Câu truyện “tạo dựng mới”
Sau một thời gian Áp-ram rời bỏ quê cha đất tổ, Thiên Chúa lại phán với ông: “Ta là Thiên Chúa Toàn năng… Ta sẽ đặt giao ước của Ta giữa Ta với ngươi… Người ta sẽ không còn gọi tên ngươi là Áp-ram nữa, nhưng là Áp-ra-ham, vì Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc… Ta còn cho nó sinh ra cho ngươi một con trai… Ngươi sẽ đặt tên cho nó là I-xa-ác” (St 17:1-2,5,16,19).
Năm tháng qua đi, I-xa-ác lớn lên và kết hôn với Rê-bê-ca. Họ sinh được hai con trai: Ê-xau và Gia-cóp. Một ngày kia Gia-cóp đang ngủ dưới bầu trời đầy sao, Thiên Chúa phán với ông: “Nhưng người ta sẽ không gọi ngươi là Gia-cóp nữa, mà tên ngươi sẽ là Ít-ra-en” (St 35:10). Ít-ra-en là cha của mười hai người con trai (tức là mười hai chi tộc Ít-ra-en).
Đứa con được Ít-ra-en thương nhất, đó là cậu Giu-se. Một ngày kia vì ghen tương, các anh của Giu-se đã bán cậu cho những lái buôn Ai-cập. Khi sống tại Ai-cập, Giu-se đã nổi danh vì tiên đoán được nạn đói sắp xảy ra và giúp việc chuẩn bị cho Ai-cập đương đầu với tai họa đó.
Hoàn cảnh đưa đẩy, Giu-se đã mời gia đình Do-thái của ông đến sống với ông. Họ làm ăn trù phú và sinh sản trở thành một dân tộc lớn. Sau khi Giu-se qua đời, người Do-thái đã bị thất sủng và bị người Ai-cập bắt phải làm nô lệ. Sau nhiều thế hệ sống kiếp nô lệ, một người lãnh đạo tên là Mô-sê đứng dậy. Nhờ Thiên Chúa trợ giúp, Mô-sê đã dẫn những người nô lệ Do-thái ra khỏi Ai-cập tiến về miền đất tự do.
GIAO ƯỚC TẠI XI-NAI
Các sử gia lắc đầu phủ nhận. Họ nêu câu hỏi: “Làm sao một đám người hỗn độn, trước đây là nô lệ, không có tổ chức và không được giáo dục, thế mà nay bỗng nhiên có thể thay đổi được dòng lịch sử nhân loại?” Nhưng đó chính là điều những người Ít-ra-en đã làm. Giải thích duy nhất hữu lý chính họ đã đưa ra.
Những người Ít-ra-en nói rằng sau khi rời khỏi Ai-cập, họ cắm lều tại chân núi Xi-nai. Ở đó Thiên Chúa đã kết ước với họ và ban cho họ một căn tính mới và một thân phận mới. Căn tính mới của họ là Dân được tuyển chọn của Thiên Chúa, một dân đặc biệt được Thiên Chúa triệu gọi để thi hành một sứ mạng đặc biệt. Thân phận mới của họ là trở nên dụng cụ được tuyển chọn để Thiên Chúa sử dụng trong kế hoạch tái tạo vũ trụ.
Những người Ít-ra-en tiến vào Đất Hứa
Khoảng năm 1200 trước công nguyên, những người Ít-ra-en đã tìm ra đường dẫn về đất đã hứa cho Áp-ra-ham và con cháu ông. Sách Giô-suê mô tả việc Ít-ra-en chinh phục chiếm đất đai. Mặc dù một số bản dịch Kinh Thánh xếp sách Giô-suê vào loại sách “lịch sử,” nhưng thực ra nó không phải là sách lịch sử theo nghĩa hiện thời.
Trước hết, hầu hết những điều trong sách đều do truyền khẩu qua nhiều thế hệ trước khi được ghi lại. Thứ hai, những chiến thắng của Ít-ra-en trên các dân bản xứ đều được giản dị hóa và được trình bày cốt để làm sáng tỏ rằng chính Thiên Chúa chứ không phải quân đội của Giô-suê đã tạo nên chiến thăéng ấy.
Như thế, qua một loạt những biến cố trải dài nhiều thế kỷ, Thiên Chúa đã tuyển chọn một dân tộc, đã tỏ mình cho họ và đã quy tụ họ lại nơi miền đất Ngài ban cho họ làm sản nghiệp. Trên phương diện thiêng liêng về điểm này, những người Ít-ra-en đã không khác gì những đứa con nhỏ bé. Số phận của họ là phải lớn lên làm thành một dân tộc, để cứu vớt nhân loại khỏi tình trạng thờ nhiều thần tượng và khỏi những lối sống man di cũng như để dẫn đưa nhân loại đến nhận biết Thiên Chúa và kế hoạch của Ngài.
Những người Ít-ra-en phát triển thành một dân tộc
Sau khi người kế vị Mô-sê là Giô-suê chết đi, việc lãnh đạo dân Ít-ra-en được trao cho một số người được gọi là các Thủ lãnh. Họ không phải là những vị mặc áo dài đen, ngồi ở tòa án và xét xử các vụ kiện. Nhưng họ là những vị lãnh đạo được ban đặc sủng, được Thiên Chúa đưa lên để dẫn dắt Ít-ra-en trong lúc quốc gia nguy biến. Trong số các Thủ lãnh có bà Đê-bô-ra (Tl 4-5), ông Ghi-đê-on (Tl 6-7) và ông Sam-son (Tl 13-16).
Sau khi “thời Thủ lãnh” chấm dứt vào khoảng năm 1000 trước công nguyên, dân chúng đã được chuẩn bị để chuyển từ tình trạng thơ ấu sang trưởng thành về mặt thiêng liêng. Người được Thiên Chúa tuyển chọn để giúp họ thực hiện cuộc chuyển tiếp này là ngôn sứ Sa-mu-en. Có lẽ cách tốt nhất mô tả vai trò của Sa-mu-en, đó là Sa-mu-en chính là nhịp cầu nối tiếp giữa “thời Thủ lãnh” với “thời quân chủ.” Vì Sa-mu-en là người đã đề ra một đường lối lãnh đạo vững chắc cho Ít-ra-en sau khi ngôn sứ xức dầu cho Sau-lê lên làm vua đầu tiên của họ.
Cũng như nhiều nhà lãnh đạo sau này, Sau-lê bắt đầu làm vua thì hứa hẹn, nhưng rồi kết cuộc lại là những xáo trộn hoàn toàn. Tuy nhiên ông đã đưa Ít-ra-en vào mức độ trưởng thành thiêng liêng. Vai trò của ông quan trọng cũng nhờ ở điểm này mà thôi.
Khi ngôi sao Sau-lê lu mờ và vụt tắt thì một ngôi sao khác rực sáng, đó là một chàng thanh niên tên là Đa-vít.
GIAO ƯỚC VỚI ĐA-VÍT
Thanh niên Đa-vít là một anh chăn cừu. Cậu học được cách sử dụng ná bắn đá, một khí giới hữu hiệu để chống lại thú rừng. Nhưng cậu chẳng khi nào ngờ tài bắn ná ấy lại giúp cậu lừng danh trong lịch sử Ít-ra-en. Đó là ngày mà quân Phi-li-tin xâm lăng Ít-ra-en và đóng trại quân khiêu chiến.
Một tên khổng lồ Phi-li-tin tên là Gô-li-át thách thức bất cứ người Ít-ra-en nào có thể đánh nhau với hắn. Khi không có ai dám ra đánh, thì Đa-vít, một thanh niên còn chưa đủ tuổi nhập ngũ, đã nghe lời thách thức kia và chấp nhận đấu với hắn. Tên khổng lồ Gô-li-át di chuyển nặng nề không sao thoát khỏi đôi tay lanh lẹ và cái ná bắn đá của chàng tuổi trẻ kia. Sau khi giết tên khổng lồ trước con mắt ngỡ ngàng của đoàn quân Ít-ra-en, Đa-vít trở thành anh hùng. Những ngày chăn cừu đã qua, chàng bắt đầu trở thành người lãnh đạo.
Khi Sau-lê chết, Đa-vít được xức dầu phong vương. Dưới sự lãnh đạo của ông, Ít-ra-en bắt đầu “những năm vinh quang.” Đa-vít biến Giê-ru-sa-lem thành thủ đô chính trị và cũng là trung tâm cho việc thờ phượng.
Rồi thời điểm đáng ghi nhớ trong đời Đa-vít đã tới. Qua ngôn sứ Na-than, Thiên Chúa hứa với Đa-vít: “Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta” (2 Sm 7:16).
Lời hứa này là một trong những lời hứa quan trọng nhất trong Kinh Thánh. Nó khởi đầu cho một loạt những lời tiên tri nói về một đấng sẽ đến và được gọi là Mê-si-a (Đấng Cứu Thế). Những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế sau này sẽ được thể hiện đầy đủ nơi Đức Giê-su.
NỔI LOẠN VÀ LƯU ĐẦY
Ít có ai lớn lên mà cứ thẳng một mạch được. Thường thường sự phát triển đều phải trải qua những khúc quanh, thăng trầm. Điều này càng đúng vào tuổi thanh xuân. Những gì đúng cho con người thì cũng đúng cho những quốc gia như Ít-ra-en chẳng hạn.
Sau khi Đa-vít băng hà, vương quyền được trao lại cho con trai là Sa-lô-mon. Cũng như Sau-lê, Sa-lô-mon bắt đầu nghiệp vua một cách vinh quang nhờ xây Đền Thờ. Nhưng sự thịnh vượng đã phải trả một giá đắt và khiến cho vương quốc Sa-lô-mon tan vỡ (1 V 11:10-13). Sau khi ông chết, mười chi tộc thuộc miền Bắc Ít-ra-en đã nổi loạn chống lại hai chi tộc miền Nam. Dân Chúa chia làm hai vương quốc: Ít-ra-en (Bắc) và Giu-đa (Nam). Sự chia rẽ này khởi sự cho một khúc quanh và thăng trầm trong cuộc phát triển thiêng liêng của họ.
Tuy nhiên, dù họ bất trung, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi dân Ngài. Ngài sai đến những ngôn sứ như Ê-li-a, A-mốt, Hô-sê để cảnh tỉnh vương quốc miền Bắc (Ít-ra-en) lầm đường lạc lối hãy quay về. Nhưng những lời tiên tri tựa như nói bên tai kẻ điếc.
Khoảng năm 722 trước công nguyên, nước Át-xi-ri xâm lấn và phá hủy vương quốc Ít-ra-en. Tuy nhiên vương quốc Giu-đa vẫn không nao núng. Dân chúng tin rằng tai họa ấy sẽ chẳng bao giờ giáng xuống trên họ.
Những gì phải tới đã tới
Dân chúng nước Giu-đa dần dần cũng rơi vào tình trạng xấu xa đồi trụy giống như vương quốc miền Bắc: thờ ngẫu tượng, sống đạo hình thức bề ngoài và đối xử tàn tệ với người nghèo và người bị áp bức.
Các ngôn sứ như I-sai-a và Giê-rê-mi-a đã cảnh cáo Giu-đa phải sửa đổi lại lối sống. Nhưng cũng như vương quốc miền Bắc, những lời cảnh cáo ấy chẳng ai thèm nghe. Kết cuộc đến ngày quân đội Ba-by-lon xâm lăng Giu-đa, họ phá hủy Đền Thờ và thành Giê-ru-sa-lem, bắt dân chúng phải phát lưu tại Ba-by-lon.
Trong vòng năm mươi năm, dân chúng phải sống lưu đày tại một quốc gia xa lạ. Đức tin của họ mong manh và nhiều khi không còn nữa. Trong số các ngôn sứ Thiên Chúa sai đến thời này có Ê-dê-ki-en và một khuôn mặt lừng danh khác được gọi là I-sai-a Thứ Hai. Các học giả gọi vị sau này bằng tên ấy, vì những gì ngài viết rất gần với I-sai-a.
Những năm lưu đày của Giu-đa đã giúp loại bỏ được tính cách nổi loạn thời thanh xuân của Giu-đa. Dân Chúa giờ đây sẵn sàng để tiến thêm một bước nữa trên đường trưởng thành thiêng liêng.
Giu-đa hồi hương
Cuối cùng đến ngày Ba-by-lon rơi vào tay quân đội của Ky-rô nước Ba-tư. Ky-rô đã giải phóng Giu-đa và cho phép những người Do-thái trở về. Sau đó họ tái thiết Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ dưới sự lãnh đạo của Nơ-khe-mi-a và Ét-ra.
Vào năm 313 trước công nguyên, A-lịch-sơn Đại đế đã chinh phục nước Giu-đa. Trong những năm sau đó, người Ít-ra-en đã tự cô lập với thế giới. Làm như vậy, họ đã đánh mất căn tính và thân phận của chính mình. Họ biến Đấng tạo dựng vũ trụ thành một Thiên Chúa của quốc gia, Đấng chăm sóc cho riêng họ mà thôi.
Giữa hoàn cảnh khó khăn này, xuất hiện ngôn sứ Ma-la-khi và một vị khác là tác giả sách Giô-na. Hai vị này đã đặc biệt giúp cho dân chúng ý thức lại thân phận của họ. Nhưng một cuộc suy chuyển lớn lao hơn đang tới.
Sự sống còn của Giu-đa bị đe dọa
Khoảng năm 200 trước công nguyên, một ông vua quá khích nước Xi-ri đã chinh phục Giu-đa và quyết tâm nhổ tận rễ Do-thái giáo. Những năm đẫm máu do bách hại đã làm lung lay tận gốc đức tin của dân chúng.
Trong cơn khủng hoảng này có mặt một vị ngôn sứ không rõ tên và là tác giả sách Đa-ni-en. Cũng như các ngôn sứ đi trước, ngài phải đối diện với vấn đề chuyển đạt một sứ điệp đạo lý sâu xa cho một dân tộc bình dị. Để làm như vậy, ngài sử dụng hai lối viết văn: truyện dân gian và thị kiến. Thị kiến tiêu biểu, đó là việc Đa-ni-en nhìn thấy một Đấng có mây trắng bao quanh.
Sau này Đức Giê-su nhắc tới thị kiến ấy khi Ngài đứng trước tòa án xét xử Ngài. Bị chất vấn có phải là “Đức Ki-tô, Con Đấng đáng chúc tụng” không, Ngài đã trả lời: “Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mc 14:61-62).
MỘT DÂN TỘC ĐANG ĐỢI CHỜ
Sự lãnh đạo tôn giáo theo ngôn sứ Đa-ni-en và lãnh đạo chính trị theo Ma-ca-bê đã thu hút dân chúng qua thời gian khủng hoảng ấy. Nhưng niềm vui của Giu-đa thật ngắn ngủi. Năm 63 trước công nguyên, người Rô-ma đã chiếm cứ vương quốc nhỏ bé này.
Tuy nhiên qua những gian nan thử thách của Giu-đa lại có một ơn lành sâu xa, đó là hồng ân cho những ai kiên nhẫn và can đảm chịu đựng gian khổ. Ơn lành ấy chính là sự hiểu biết thiêng liêng và sự khôn ngoan. Dân chúng bắt đầu ý thức được rằng họ không thể tự mình làm được mọi sự. Ý thức này đã giúp họ trưởng thành thiêng liêng.
Dân Giu-đa giờ đây nhận ra một cách thực tế rằng nếu không có Chúa và những lời hứa của Ngài, họ chỉ là con số không.
Ý thức này cũng đưa tới một cuộc kiểm thảo tâm hồn sâu đậm. Dân chúng thấy mình đang đặt ra những vấn đề căn bản về đức tin. Nếu căn tính và thân phận của họ hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa, thì tại sao Ngài lại cứ yên lặng trong những thời điểm kia? Tại sao Thiên Chúa xem ra xa vời đối với họ trong lúc này? Thế còn giao ước của Thiên Chúa với Áp-ra-ham, với Đa-vít thì sao? Đấng Mê-si-a đã được hứa ban bây giờ ở đâu? Sao Ngài không xuất hiện?
Những câu hỏi này được phản ảnh trong sách Giảng Viên và Gióp. Đọc những sách này, độc giả cảm thấy như Dân Chúa đang vật lộn để ráp lại một bức hình ghép nhiều mảnh, nhưng nửa số mảnh đã bị thất lạc.
Tuy nhiên đây chính là giá trị của những cuốn sách ấy. Chúng tựa như những cửa sổ thiêng liêng để qua đó chúng ta có thể hé thấy tâm hồn khắc khoải của những người Do-thái trung tín đang chờ đợi những mặc khải khác của Thiên Chúa.
Câu truyện Giu-đa chưa hết
Kinh Thánh Do-thái thừa nhận đã để lại cho chúng ta một câu truyện dở dang. Kinh Thánh ấy kết thúc với sự kiện những người Do-thái đang chờ đợi và cầu xin Thiên Chúa sai đến một đấng chưa xuất hiện, tức là Đấng Cứu Thế đã được hứa ban.
Một đoạn trong cuốn Nguồn cội (The Source) của James Michener diễn tả thật đẹp về quốc gia Do-thái vào thời điểm quan trọng này trong lịch sử nhân loại:
“Rabbi Asher lang thang giữa hàng cây ô-liu già cỗi. Bỗng ông chú ý tới một cây cổ thụ đến độ bên trong của cây đã mục rã, chỉ còn lớp vỏ mỏng có thể trông qua phía bên kia. Tuy nhiên những mảnh cây còn lại vẫn dính liền với rễ và cây cổ thụ vẫn còn sức sống, đâm ra những cành mới mang hoa trái. Và khi chăm chú nhận xét cây cổ thụ trong vườn ô-liu này, Asher đã cho răèng có thể diễn tả tóm tắt tình trạng của dân Do-thái như sau: một xã hội già cỗi với bao nhiêu mục nát bên trong, nhưng những mảnh nhỏ của nó vẫn ôm lấy sức sống từ cội rễ của Thiên Chúa, và chính nhờ những rễ lề luật này mà Đức Giê-su có thể xác quyết được đâu là ý muốn của Thiên Chúa và Ngài có thể đem lại hoa trái tốt lành.”
ĐỌC VÀ SUY NIỆM KINH THÁNH
1. Sáng Thế 15 Thiên Chúa kết ước với Áp-ra-ham
2. Xuất Hành 19-20 Thiên Chúa kết ước với Ít-ra-en
3. 2 Sa-mu-en 7-8 Thiên Chúa kết ước với Đa-vít
4. I-sai-a 43-44 Thiên Chúa hứa cứu thoát Giu-đa
5. Đa-ni-en 6 Thiên Chúa cứu Đa-ni-en khỏi nanh vuốt sư tử.
THẢO LUẬN
1. Áp-ra-ham, Sa-ra, I-xa-ác, Rê-bê-ca, Gia-cóp, Giu-se, Gio-suê, Đê-bô-ra, Sa-mu-en, Sau-lê là những nhân vật nào?
2. Sau khi đọc sách Gióp và Giảng Viên, bạn cảm nghiệm điều gì? Đâu là giá trị của hai cuốn Kinh Thánh ấy?
3. Kinh Thánh Cựu Ước là một câu truyện dang dở. Vậy hiểu theo nghĩa nào?
CHIA SẺ
1. Một trong những công việc của các ngôn sứ Ít-ra-en là đối diện với các vua Ít-ra-en (2 Sm 11-12). Bạn hãy tưởng tượng bạn được chỉ định làm ngôn sứ cho viên thị trưởng hoặc cho tổng thống Hoa-kỳ. Vậy bạn thử kể ra ba điểm bạn có thể chạm trán với họ. Tại sao chọn những điểm này?
2. Bức hí họa vẽ một “nhà tiên tri vỉa hè” tân thời, quần áo tả tơi, tay cầm tấm biển “Hãy hối cải! Sắp tận thế rồi!” Phía dưới bức hí họa, tác giả viết: “Bạn thấy không? Không còn ai cười giễu ông ta nữa.” Nhà tiên tri tân thời này giống những ngôn sứ trong Kinh Thánh như thế nào? Khác nhau thế nào? Điều gì khiến bạn nghĩ hoặc nghi ngờ rằng “ngày tận thế sắp đến rồi”?
3. Đau khổ người Do-thái chịu trong suốt cuộc bách hại do bạo chúa nước Syri đã kết thúc như là một hồng ân cho họ. Bạn hãy nhớ lại một thảm kịch hoặc gian khổ trong đời bạn đã kết thúc như một ơn lành cho bạn. Nếu bạn chia sẻ được thì càng hay.
4. Dân Tuyển Chọn của Thiên Chúa đã có một thân phận. Bạn có tin rằng bạn được Thiên Chúa tuyển chọn và được mời gọi đến với đức tin Công Giáo vì một lý do gì không? Bạn có thể giải thích lý do ấy hay không?
The Catholic Vision II – 11
Mark Link, S.J.
Chuyển ngữ: Lm Trần đình Nhi