Rất nhiều từ ngữ Phật giáo đã biến thành ngôn ngữ thường dùng của người dân Việt. Như khi thấy ai bị hoạn nạn đau khổ, tỏ lòng thương xót, người ta bảo "tội nghiệp quá !". Hai chữ "tội nghiệp" là từ ngữ chuyên môn của Phật giáo, để chỉ tội ác mình đã gây sẽ chiêu cảm nghiệp báo đau khổ rồi mình phải chịu. Hoặc khi gặp một người quá lớn, thấy một vật quá to, người ta liền la lên: ông ấy "Tổ sư Bồ Ðề !", vật đó "Tổ sư Bồ Ðề !". Tổ sư Bồ Ðề là Sơ Tổ Thiền Tông tại Trung Hoa, nói đủ là Bồ Ðề Ðạt Ma (Boddhidharma), người Việt Nam cũng kính thờ Ngài như vị Sơ Tổ. Có thể nói trong phái Thiền Tông Trung Hoa và Việt Nam, vị lớn nhất là Ngài. Vì thế, người Việt Nam muốn mô tả cái gì lớn đều mượn danh tự của Ngài mà mô tả. Khi muốn diễn tả một số người quá đông, vật gì quà nhiều, người ta dùng danh từ "hằng hà sa số". Nếu hỏi "hằng ha sa số" là cái gì, chắc chắn ít có người hiểu chính xác, họ chỉ biết đó là nói rất nhiều. Bởi khi xưa Ðức Phật thường thuyết pháp gần lưu vực sông Hằng (Gange) ở Ấn Ðộ, cho nên khi cần mô tả một con số quá nhiều, Ngài thí dụ như số cát sông Hằng. Hoặc khi có những tiếng động ồn náo, người ta bảo "om sòm bát nhã"; do khi đến chùa vào những buổi lễ, nhà chùa thường chuyển những hồi trống Bát Nhã. Lại có những người rày đó mai đây, ít khi dừng chân lâu một chỗ. Khi có người hỏi anh đi đâu mãi, họ trả lời tôi đi "Ta bà thế giới". Ta bà thế giới là thế giới của đức Thích Ca giáo hóa. Theothế giới quan của Phật giáo thì thế giới Ta bà to gấp mấy lần quả địa cầu nầy. Còn bao nhiêu từ ngữ khác như hỷ xả, từ bi, giác ngộ., người Việt Nam đã quen dùng như tiếng Mẹ, không chút gì ngượng ngập lạ lùng.
B. VĂN CHƯƠNG BÌNH DÂN
1. TỤC NGỮ, CA DAO
Người nông phu làm việc ngoài đồng ngoài áng, tay cuốc tay cày trên cánh đồng cỏ xanh lúa mướt, để giải khuây cơn mệt nhọc, đem hứng thú trong công việc làm ăn, họ cất tiếng hát lên:
Ai ơi! Hãy ở cho lành
Kiếp này chẳng được, để dành kiếp sau.
Thực là những tiếng như những lời khuyên tha thiết, nhẹ nhàng mà tràn trề đạo đức. Cứ khuyên nhau ăn ở cho lành, dù hiện đời chưa được hưởng quả lành, đời sau sẽ hưởng chớ không bao giờ mất. Lòng tin lý luân hồi nhơn quả của người Việt Nam chắc như đá, vững như núi, không khi nào lay chuyển. Lại, xa xa vảng nghe tiếng vọng lại:
Trách người một trách ta mười,
Bởi ta tệ trước, nên người bạc sau.
Lời nhắc nhở nầy thật là thâm thúy, kêu gọi nhau hãy tự xét lỗi mình, phải can đảm quy tội về mình, đừng than phiền trách cứ một ai. Người bình dân Việt Nam nhận định rằng không một hiện quả nào mà chẳng phát xuất từ nguyên nhân. Ta bị đối xử bạc ác, đừng vội trách người mà phải tự trách mình. Nếu mình trước không có ăn ở tệ hại với họ, làm gì họ cư xử xấu xa với mình ?
Ðể nói lên tâm hồn sắt đá tôn trọng đạo đức lên trên hết, mặc ai chạy đua theo danh lợi, mặc ai tham đắm tiền tài, người bình dân tự bảo:
Mặc ai chác lợi mua danh
Miễn ta học được đạo lành thì thôi.
Bởi vì danh lợi chỉ là hạt sương, cái chớp, chợt hiện rồi biến mất có gì lâu dài, thân này là kiếp phù du sớm còn tối mất. Chỉ có đạo đức mới thật lâu dài.
Cuộc đời khác nữa là hoa,
Sớm còn tối mất nở ra lại tàn.
Do nhận định trên, người bình dân Việt Nam cảm thấy người có đạo đức thì tai họa gì cũng qua được. Bằng người không đạo đức tất nhiên phải chuốc lấy tai ương.
Linh đinh qua cửa Thần phù,
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.
Ðến khi người quyết chí tu hành cũng cần phải có hoàn cảnh thuận tiện. Tức là phải được khung cảnh tịch liêu thanh nhã thì tâm tư mới sảng khoái nhẹ nhàng, sự tu hành chóng đạt kết quả như nguyện.
Dù ai quyết chí tu hành,
Có về Yên Tử mới đành lòng tu,
Trăng thanh gió mát bốn mùa,
Trúc Lâm Tam Tổ từ xưa còn truyền.
Thực vậy, có được cảnh thanh lịch, có gương chư Tổ truyền thừa thì tâm phàm tục mới mong lắng dịu. Nếu thiếu những trợ duyên nầy, dù cố gắng thế mấy cũng khó kết quả.
Lại nữa, nếu không tu thì thôi, trót đã tu thì phải tu cho đến nơi đến chốn, đừng để dở dở ương ương mà người đời mỉa mai: Tu chẳng trọn đời, mặc áo tơi mà chết.
Qua những câu ca dao tục ngữ bình dị mà rất hay ở trên, chúng ta đã thấy người bình dân đã thấm nhuần Phật giáo từ trong cốt tủy. Họ không cần đọc hết những bộ kinh đôi ba mươi quyển, không cần học thuộc những bài giảng dài ba bốn mươi trang, mà họ nói lên được những lời đạo đức chơn thành. Thực là Phật giáo đã len trong huyết quản của họ từ bao giờ rồi.
2. THƠ CA
Thơ ca Việt Nam chịu ảnh hưởng Phật giáo rất nhiều, điển hình những quyển thơ xưa nhất như thơ Quan Âm Diệu Thiện, Quan Âm Thị Kính. cốt truyện và?lời thơ đều hoàn toàn Phật giáo. Tuy nhiên, Phật giáo theo quan niệm bình dân đã phối hợp cùng tín ngưỡng dân tộc. Những khi đồng áng rảnh rang, người bình dân thường ngâm nga những vần thơ lục bát tràng thiên thuần túy Việt Nam nầy để làm thú tiêu khiển. Không những thơ có công dụng tiêu khiển trong những ngày nhọc nhằn mệt mỏi, mà cũng để xây dựng, giáo hóa người Việt có những đức tính cao thượng theo gương trong truyện tích và biết tránh dữ làm lành. Những đức tính mà người Việt chú trọng nhất là trong gia đình hiếu thảo với cha mẹ, ngoài xã hội nhân từ với mọi người.
Ðọc thơ Quan Âm Diệu Thiện, chúng ta thấy hai đức tính đó nổi bật nhất. Ðây đoạn mở đầu quyển thơ:
Chân như đạo Phật rất mầu,
Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ nhân.
Hiếu là độ được đấng thân,
Nhân là vớt khỏi trầm luân mọi loài.
Tinh thông nghìn mắt, nghìn tay,
Cũng trong một điểm linh đài hóa ra.
Xem trong biển nước Nam ta,
Phổ môn có Ðức Phật Bà Quan Âm.
Nói về chữ Hiếu, Diệu Thiện tức là công chúa thứ ba, con vua Diệu Trang Vương nước Hưng Lâm xứ Tây Trúc. Bà mộ Phật pháp không chịu lấy chồng. Vua cha giận đày đọa đến chết. Nhưng sau khi hồn bà dạo qua 18 cửa ngục ở Diêm La, được hoàn trở lại dương thế. Vì ghét con đi tu, vua cha đã đốt chùa, hại các Tăng Ni. Do gây nhơn ác ấy, sau nầy nhà vua mắc quả báo đau đớn khổ sở. Bà tu hành đắc đạo, dùng thần thông giả chước cứu cha:
Ấy là phép Phật thần thông,
Giả làm chước ấy để phòng cứu cha.
Kinh Lăng Nghiêm, truyện Phật Bà,
Thiên bá vạn hóa thực là linh thay.
Cho nên chùa tạc tượng Ngài,
Làm ra nghìn mắt, nghìn tay lưu truyền.
Vui trong thế giới ba nghìn,
Sắc không, không sắc, phép thiêng khôn dò,
Thấy cha báng bổ đốt chùa,
Phải làm thế ấy để cho hết ngờ.
Lòng nhân phát xuất từ chỗ trông thấy nỗi khổ của chúng sinh. Bà Diệu Thiện khi hồn dạo qua 18 cửa ngục hình, mục kích sự đau khổ vô hạn của sinh linh trong ngục tối, Bà động lòng từ bi phát nguyện cứu rỗi, khiến sinh linh đề? thoát khỏi ngục hình:
Ấy là các cửa ngục hình,
Ðiều gì thất đức tại mình biết sao.
Lòng trần tưởng chẳng chi nao ?
Ai hay quả báo khi vào Âm ty
Cơ thâm thì tội cũng thâm,
Ác hữu, ác báo chẳng lầm chút nao.
Dối người dối được trời sao ?
Trời, Thần, vua Táo soi vào con tim.
Dương gian chết có một phen,
Phép Âm bắt mãi chết liền sống ngay.
Làm cho thảm thiết đọa đày,
Cho bõ lại ngày ác nghiệp Dương gian.
Khẩn cầu niệm chú tụng kinh,
Ngọc Hoàng cảm động lòng thành tự nhiên,
Vua rằng: "Nghe đức Từ bi,
Mở lòng thương xót phù trì chúng sinh,
Khắp mười tám cửa ngục hình,
Một giờ đại xá thiên sinh từ rày."
Tuy nhiên, người Việt Nam rất nặng tinh thần dân tộc, dù cốt truyện phát xuất từ nơi nào cũng phải biến hóa thành của người Việt Nam. Bà Diệu Thiện tuy người Tây Trúc, nhưng khi tu hành được Phật giới thiệu sang Việt Nam ở núi Hương Tích: Ðức Phật mới chỉ đường tu,
Rằng: có một chùa ở Hương Tích sơn,
Gần bể Nam Việt thanh nhàn,
Sang tu chốn ấy sẽ toan viên thành,
Núi cao ngan ngát mịt mù,
Am thanh, cảnh vắng, bốn mùa cỏ cây.
Trên thì năm sắc từng mây,
Dưới thì biển nước trong rày như gương.
Cá chim chầu tại tĩnh đường,
Hạc thường tiến quả, hươu thường dâng hoa.
Một mình tu núi Phổ Ðà,
Thân là thân Phật, cảnh là cảnh Tiên.
Thơ Quan Âm Diệu Thiện nhằm vào chữ Hiếu và lòng Nhân thì thơ Quan Âm Thị Kính nhằm vào "Nhẫn nhục" và "Cứu độ". Thị Kính đã mắc oan tình "toan ám sát chồng", bà trá hình quyết chí vào chùa tu.
Xuất gia quyết một tâm liền,
Phụ tình đới nhật, bước lên dặm đường.
Quần chân, áo chít dịu dàng,
Giả hình nam tử, ai tường căn nguyên.
Tưởng xuất gia là an ổn, nhưng oan khiên chưa dứt, Thị Mầu lại một phen vu oan đã giở thói trăng hoa. Bị làng tra tấn tàn nhẫn, nhưng bà cũng cam tâm nhịn chịu. Sư phụ trông thấy xót xa van xin:
Áo xiêm xem đã tơi bời,
Thương thay Sư mới cất lời van lơn.
Thưa rằng : làm phúc nào hơn,
Mở lòng Bồ tát, dẹp cơn lôi đình,
Khoản làng xin nộp phân minh,
Dại khôn xin hãy thứ tình một phen.
Sự oan ức nhục nhã này nếu không đủ sức nhẫn nhục thì không sao chịu nổi. Nhờ sức nhẫn nhục mới làm sáng tỏ ý chí của người chơn chánh tu hành. Bà tự an ủi:
Sá thù chi đứa dâm ô,
Nước tùy duyên rửa đi cho kẻo mà.
Chữ rằng : nhẫn nhục nhiệm hòa,
Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu.
Ðến đứa con oan của Thị Mầu đem ném trước hành lang chùa, Bà động lòng trắc ẩn, đem vào chùa nuôi. Mặc tình sư phụ phảnđối, thế gian chê cười, Bà vẫn thấy cứu một mạng người là trên hết:
Bữa sau Sư phụ mới hay,
Dạy : "Như thế ấy thì thầy cũng nghi.
Nếu như khác máu du thì,
Con ai mặc nấy, can gì đa mang?"
Bạch rằng : " Muôn đội thầy thương
Xưa nay thầy dạy muôn đường nhỏ to:
Dẫu xây chín đợt phù đồ,
Sao bằng làm phước cứu cho một người.
Vậy nên con phải vâng lời,
Mạng người không lấy làm chơi mà liều".
Sư nghe thưa thốt mấy điều,
Khen rằng cũng có ít nhiều từ tâm.
Ngỡ là nước lã mà lầm,
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào.
Mẹ vò thì sữa khát khao
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền.
Nâng niu xiết nỗi truân chuyên,
Nhai cơm mớm sữa dễ nên con người.
Ðến đâu ai cũng chê cười,
Tiểu kia tu có trót đời được đâu.
Vì lòng từ bi thương xót chúng sinh, Bà Thị Kính an nhẫn mọi khó nhọc để làm việc "mẹ vò nuôi con nhện". Ðâu những khổ nhọc trong việc nhai cơm mớm sữa, mà còn bị thế gian khinh bỉ chê cười, xem Bà là kẻ gian manh núp bóng Bồ đề, làm điều tà vạy. Thế mà Bà vẫn cam chịu, miễn cứu được một mạng người thì thôi. Bao nhiêu đó, chúng ta thấy rõ đức tính từ bi, nhẫn nhục của Bà viên mãn. Người bình dân công nhận rằng người nào đầy đủ lòng từ bi, viên mãn hạnh nhẫn nhục thì người ấy chắc chắn thành Phật. Cho nên Bà Thị Kính liền đó chứng thành quả Phật.
Lời kết cấu cốt truyện nhằm vào mục đích răn ác, khuyến thiện. Cho nên đến kết luận nhờ công tu của Thị Kính, cả nhà đều độ thoát và sum họp vui vầy:
Ðộ cho hai khóm xuân, huyên,
Ra tay cầm quyết bước lên trên tòa
Siêu thăng thoát hóa cả nhà,
Từ đây phúc đẳng hà sa vô cùng.
Lên chừng Cực Lạc hội đồng,
Mọi người khi ấy đều trông rành rành.
Thiệt là lành lại gặp lành,
Nam mô Di Phật tu hành thì coi.
Thực là đã bỏ những ngày trần lao khổ ải, trở về hội đồng trong cảnh Cực Lạc an vui. Một hình ảnh đoàn tụ cực kỳ lý thú. Thế hỏi còn ai không muốn tu, không muốn làm lành lánh dữ.
Ðọc những quyển thơ trên, chúng ta thấy tinh thần dân tộc và Phật giáo đã đồng nhất. Những lời thơ bình dị ấy gây một tác động lớn lao trong dân tộc. Người bình dân hiểu Phật giáo không phải do những thời thuyết pháp mà nhờ những vần thơ dễ hiểu êm ái này.
3. TRUYỆN CỔ TÍCH
Ngoài thơ ca, chúng ta còn thấy những truyện cổ tích chứa đầy màu sắc Phật giáo. Tổ tiên ta khéo đem giáo lý đạo Phật lồng vào những mẩu truyện lý thú, hấp dẫn kể cho con cháu nghe để xây dựng chúng sống theo khuôn đạo đức từ thuở bé. Như truyện "Phương Hoàng đậu cây khế": "Xưa một nhà có hai anh em, khi cha mất đi, người anh tranh hết cả ruộng vườn, để cho người em chỉ mỗi một cây khế. Người em cũng vui lòng chịu, không dám nói gì đến anh.
Sau một hôm có đàn Phượng Hoàng từ đâu bay lại, đậu trên cây khế, có bao nhiêu quả ăn hết sạch. Người em thấy vậy, ra gốc cây vừa khóc vừa nói với chim Phượng Hoàng rằng:
- Cơ nghiệp tôi chỉ có mỗi cây khế đó thôi. Bây giờ các Ngài lại xơi hết cả thì tôi trông cậy vào đâu cho có ăn !
Phượng Hoàng nghe nói bảo rằng:
- Ta vốn hay đậu nơi cây ngô đồng và tắm mát chốn hồ sen. Ta mà đến đây chẳng qua chỉ đề nghỉ chân chốc lát thôi. Ta có ăn mất trái khế nào, thì ta đền trả lại không sợ thiệt.
Nói rồi Phượng Hoàng nhả trong mồm ra rơi xuống một cây khế khác, bao nhiêu hoa tinh là bạc, bao nhiêu quả tinh là vàng cả. Người em, vì thế mà được giàu có hơn anh nhiều.
Anh thấy em giàu, hỏi tại duyên cớ làm sao. Em kể lại câu chuyện Phượng Hoàng cho anh nghe. Anh bèn ngỏ ý muốn đổi cả vườn ruộng cho em để lấy cây khế, những mong Phượng Hoàng lại đến ăn quả, lại cho cây khế bằng vàng, bằng bạc. Em bằng lòng. Nhưng anh được cây khế, đợi mãi chẳng thấy chim Phượng Hoàng nào đến cả, chỉ thấy lũ quạ đen, ngày nào nó cũng rủ nhau đến kêu "xấu hổ ! xấu hổ !".
(Trích Truyện cổ Việt Nam, tập I của Nguyễn Văn Ngọc)
Lối kết cấu mẩu chuyện rõ ràng theo đúng đạo lý nhân quả. Kẻ hiền lành thì được quả phúc giàu sang, người gian ác không sớm thì chầy, phải chịu quả báo đau khổ. Ngoài ra như truyện "Con Tấm con Cám", truyện "Kéo cầy trả nợ" v.v. đều cấu tạo theo tinh thần nhân quả này. Lại còn có truyện nói về sự oan oan tương báo không dứt. Nếu con người còn ôm ấp thù hằn, mong có ngày trả thù báo oán thì thù oán ấy mãi chồng chất chẳng dừng. Như câu truyện "Hét ăn Giun" nầy:
"Xưa có một người tên là Giun làm nghề giữ lúa ngoài đồng. Một hôm có cha thằng Hét đến ăn trộm lúa, bị thằng Giun đánh chết. Hét căm giận, thề nguyện thế nào cũng báo thù được cho cha mới nghe. Một buổi, Hét bắt gặp Giun, đuổi đánh Giun cắm đầu, cắm cổ chạy bán sống, bán chết lên trên núi. Thấy ông Bụt đang đứng đó, nó liền vội vàng quỳ xuống van lạy rằng:
- Tôi đang có sự nguy cấp, xin ông cứu tôi với.
Bụt hỏi:
- Sự gì ?
Nó nói:
- Trước tôi lỡ tay giết chết cha thằng Hét, bây giờ nó thù, nó muốn giết chết tôi. Hiện nó đang đuổi tôi ở đằng sau lưng kia. Bụt bảo:
- Làm thế nào bây giờ ? Tránh đâu cho thoát được ? Hay tao hóa cho mày làm con chim.
- Nhưng rồi nó lấy cung nó bắn thì tôi cũng không thoát được tay nó.
- Ừ, tao hóa cho mầy làm con cá vậy.
- Nhưng rồi nó lại chăng lưới nó bắt, thì tôi cũng không khỏi chết với nó được.
Bụt nghĩ rồi bảo:
- Lên trời không thoát, xuống nước không khỏi, thôi thì tao cho mày chun dưới đất, họa may mới xong được. Tao hóa cho mày làm một con bé và dài, không chân không cánh và lẩn lút chui luôn ở dưới đất. Vốn mày tên là Giun thì tao cho gọi con ấy là "con Giun".
Thằng Giun nghe gật đầu. Ông Bụt liền hóa cho nó làm ngay con Giun chui tuột ngay xuống đất. Lúc Hét đến, không thấy Giun đâu, chỉ thấy ông Bụt, Hét mới lại thưa với ông Bụt rằng:
- Thằng Giun xưa nó giết cha tôi, tôi phải đuổi nó kỳ cùng, giết được nó mới nghe. Nó chạy đằng nào rồi, ông mách cho tôi với.
Bụt bảo:
- Tao đã hóa cho nó làm con Giun chui xuống đất rồi.
Thằng Hét nghe nói, khóc lóc thảm thiết và như ý kêu van bắt đền Bụt rằng:
- Thù cha không báo, thật là bất hiếu, mà cái lỗi ấy ở tại ông.
Bụt nghe nó nói, thương tình nghĩ cái lẽ "oan oan tương báo" khó lòng tránh được, mới bảo nó rằng:
- Ừ, thì bây giờ ta hóa cho mày làm giống chim, cứ lấy tên mày mà gọi là chim Hét. Rồi mày tìm Giun ở dưới đất mà báo thù vậy.
Nói xong, ông Bụt làm phép cho thằng Hét hóa ra ngay chim Hét, và từ đó Hét chỉ tìm Giun mà ăn, lấy làm ngon lắm. Sau người ta lại thích ăn chim Hét cũng cho là ngon. Bởi vậy tục ngữ mới có câu:"Muốn ăn Hét, phải đào giun" là ý nói hét nó hay ăn giun, mình phải đào đất bới giun lên, hét nó xuống ăn giun thì mình mới bắt được nó".
(Truyện cổ Việt Nam, tập II của Nguyễn Văn Ngọc).
Cốt truyện kết cấu thích hợp với câu "Lấy oán báo oán, oán mãi chất chồng; lấy ân báo oán, oán liền tiêu diệt" ở trong kinh Phật. Phật giáo thực đã có mặt trong mọi lĩnh vực văn hóa Việt Nam. Những hình ảnh, những lời lẽ trong truyện thực là mộc mạc bình dị, nhưng ảnh hưởng không phải nhỏ đối với trí óc non dại. Lối giáo dục của người bình dân không cầu kỳ mà lý thú, không cao siêu mà hấp dẫn, thực là một phương pháp kỳ diệu vậy.
C. VĂN CHƯƠNG BÁC HỌC
Những áng văn bác học của các văn sĩ Việt Nam thời xưa còn lưu lại không ai chẳng biết quyển "Ðoạn Trường Tân Thanh" của Nguyễn Du, quyển "Cung Oán Ngâm Khúc" của Ôn Như Hầu là hai tác phẩm nổi tiếng nhất. Chúng ta thử xét qua hai tác phẩm nầy xem chịu ảnh hưởng Phật giáo nhiều ít. Lối dụng ngữ trong "Cung oán ngâm khúc", Ôn Như Hầu đã khéo dùng danh từ nhà Phật tô điểm cho văn chương ông thêm đậm nét siêu thoát linh hoạt. Ðể diễn tả thân phận con người là khổ đau, bèo bọt, ông dùng:
Gót danh lợi bùn pha sắc xám,
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu,
Nghĩ thế phù thế mà đau,
Bọt trong "bể khổ", bèo đầu "bến mê".
Trong kinh Phật, khi giải bày nỗi khổ đau vô tận của chúng sanh thường hình dung bằng "khổ hải" (bể khổ). Nhưng cái khổ ấy từ đâu mà ra, vốn từ chỗ mê lầm phát xuất hay từ vô minh sinh khởi. Chỗ mê lầm ấy được hình dung bằng "mê tân" (bến mê). Như thế, danh từ bể khổ, bến mê của Phật giáo đã giúp cụ Ôn Như diễn tả thấu đáo nỗi khổ đau của kiếp người.
Chẳng những kiếp người là đau khổ chập chồng, mà còn cơn vô thường đuổi ngặt. Từ ngoại cảnh đến con người lúc nào cũng rắp ranh tan hoại. Nào hoa, cỏ, núi, sông và đá đều chung chịu một luật vô thường.
Hình mộc thạch vàng kim ố cổ,
Sắc cầm ngư ủ rũ ê phong,
Tiêu điều nhân sự đã xong,
Sơn hà cũng ảo, côn trùng cũng hư.
Cầu thệ? thủy ngồi trơ cổ độ
Quán thu phong đứng rũ tà huy
Phong trần đến cả sơn khê,
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này,
Tuồng huyễn hóa đã bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau.
Trăm năm còn có gì đâu ?
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.
Cụ Ôn Như đã diễn tả rõ ràng khúc chiết đạo lý vô thường bằng một bức tranh đầy màu sắc. Ðá tuy cứng chắc vẫn bị gió sương bào mòn búa mỏng. Những cây cổ thụ rườm rà vươn mình trên đỉnh núi cao, tưởng được sống vĩnh viễn, đâu ngờ trả qua những cơn mưa sa, nắng táp dần dần lá héo cành khô, rồi đến ngày tàn lụi. Ðàn chim bay cao vút trên không trung, bầy cá lặn sâu dưới đáy biển vẫn không khỏi ủ ê khi mưa chiều gió sớm. Nhìn lại kiếp người thực mỏng manh tạm bợ, tuy nói rằng trăm năm mà nhớ lại chỉ thấy nấm mồ cỏ mọc xanh rì.
Nhân sinh và vũ trụ đã vô thường khổ đau như thế, còn gì mà không đem mình vào cửa Phật để dứt sạch thất tình lục dục, khơi sáng ngọn đuốc trí tuệ, vượt khỏi kiếp luân hồi.
Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật,
Mối thất tình quyết dứt cho xong.
Ða mang chi nữa đèo bòng,
Vui gì thế sự mà mong nhân tình,
Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa.
Mượn "hoa đàm", "đuốc tuệ" làm duyên.
Thoát trần một gót thiên nhiên,
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.
Hoa Ðàm nói đủ là hoa Ưu Ðàm, tên một thứ hoa quý ở Ấn Ðộ. Ðuốc tuệ là ngọn đuốc trí tuệ. Phật ví dụ trí tuệ con người một khi phát sanh, chẳng khác nào ngọn đuốc sáng đưa người ra khỏi chỗ mê lầm. Cụ Ôn Như đã trình bày đầy đủ kiếp người là đau khổ, nhân sinh là vô thường, tu hành là thoát tục. Qua những ý nghĩa đó khiến ta liên tưởng đến tam pháp ấn của Phật giáo là vô thường, khổ, vô ngã. Triết lý quyển "Cung oán ngâm khúc tức là triết lý Phật giáo. Nhưng Cụ chỉ nhìn về mặt tiêu cực của Phật giáo, nên chi lời văn đượm vẻ bi đát. Nếu chúng ta nhìn về mặt tích cực thì trong cái vô thường đã sẵn cái thường, trong cái khổ đã chứa mầm lạc, trong cái vô ngã vẫn có cái ngã. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận cụ Ôn Như đã tài tình dùng danh từ, ý nghĩa của Phật giáo một cách tuyệt xảo.
Ðến cụ Nguyễn Du trong quyển Ðoạn Trường Tân Thanh đã áp dụng lý nghiệp báo của Phật giáo một cách triệt để. Hình ảnh Ðạm Tiên hiện về là cái bóng ngã trước của con người Thúy Kiều. Những linh cảm báo trước đều là hiện hình của tiền nghiệp. Nhưng nghiệp không phải bất khả chuyển, cho nên "có trời mà cũng tại ta". Ta hãy nghe lời sư Tam Hợp giải bày:
Sư rằng: "Phúc họa đạo trời,
Cội nguồn cũng bởi lòng người mà ra.
Có trời mà cũng tại ta,
Tu là cội phúc, tình là dây oan."
Sư rằng: "Song chẳng hề chi,
Nghiệp duyên "cân lại nhắc đi" còn nhiều !
Xét trong tộ? nghiệp Thúy Kiều,
Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm.
Lấy tình thâm, trả tình thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời.
Hại một người, cứu muôn người,
Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng.
Thửa công đức ấy ai bằng ?
Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi.
Phật giáo không thừa nhận có ông Trời thưởng người làm phúc, phạt người gây tội, mà tất cả đều qui về nơi "nghiệp". Chúng ta tạo nghiệp ác sẽ bị quả báo ác. Như mình cứu giúp người, được người đền ơn lại, mình chưởi mắng đánh đập người, bị người đánh đập lại, không có ông Trời nào chen vào đó cả. Quả báo đau khổ chúng ta hiện chịu đây, là do nghiệp xưa đã tạo. Nghiệp đã do mình tạo thì trách trời, oán người thật là việc ngớ ngẩn. Lòng lành là động cơ tạo nên cội phúc, chỉ có lòng lành mới thật là đáng quý trọng. Dù ai có tài khuynh đảo Trời đất mà thiếu lòng lành, âu cũng là việc chuốc tai mang vạ mà thôi. Ðể thấy đầy đủ ý nghĩa nầy, ta hãy nghe bốn câu kết luận của cụ Nguyễn Du:
Ðã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn vốn tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Chỉ cần bốn câu chót nầy, thi hào Nguyễn Du kết thúc tường tận ý nghĩa "nghiệp báo". Chữ?Trời ở đây dùng để chỉ lý thiên nhiên, hay nói khác đi là chỉ nhân quả báo ứng. Không một người nào chưa giải thoát mà không bị chi phối bởi lý thiên nhiên hay luật nhân quả báo ứng ấy.
Như thế, thi hào Nguyễn Du đã chịu ảnh hưởng Phật giáo rất sâu đậm. Và lời khuyên chót của Nguyễn Du thực là những lời giảng đạo thấm thía.
Sau nầy, thi sĩ Chu Mạnh Trinh đã cảm hứng khi đi vãn cảnh núi Hương tích. Thi sĩ họ Chu dùng ngọn bút vẽ khung cảnh lung linh huyền ảo của núi rừng khe suối, đượm nhuần tinh thần Phật giáo:
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lững lờ khe yến cá nghe kinh.
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giựt mình trong giấc mộng.
Chim cũng đi hái trái cúng Phật. Cá lội lững lờ trong khe hình như đang say nghe tiếng kinh kệ. Con người đang đắm mê danh lợi, chợt nghe tiếng hồng chung ngân vang, sực tỉnh cuộc đời là ảo mộng. Thực là đẹp đẽ và cao quý làm sao !
Ðến một văn hào nổi danh trong làng áo mũ, đã từng lên voi xuống chó, từng trải mùi tân khổ, vinh quang là Nguyễn Công Trứ. Nhân sinh quan của ông là hưởng lạc. Thế mà ông vẫn chịu ảnh hưởng ít nhiều Phật giáo. Ta hãy đọc một đoạn trong bài chữ NHÀN của ông.
.Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe ?
Trần có vui sao chẳng cười khì ?
Khi hỉ lạc, khi ái ố, lúc sầu bi,
Chứa chỉ lắm một bầu nhân dục.
Thế là ông chấp nhận thuyết "nhân sinh đa khổ" của Phật giáo. Chẳng những ông chấp nhận, mà ông còn tự xem là một triết lý của ông, đáng được ông đem ra phô diễn. Chính trong bài "Vịnh nhân sinh quan", ông đã trình bày rõ ràng ý nầy.
.Ơi nhân sinh là thế ấy,
Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao.
Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào ?
Vừa tỉnh giấc nồi kê chưa chín.
Kiếp người sở dĩ chán ngán khổ đau vì nó là vô thường giả ảo. Mới trẻ đó bỗng liền già đó, mới gặp đây bỗng phải chia lìa, vừa thấy đó chợt liền mất đó. Ấy là những ảnh tượng, những đau buồn nhất của con người. Văn hào Nguyễn Công Trứ đã nhìn thấy "nhân sinh đa khổ" là vì nhân sinh vô thường. Ðó là thuyết lý căn bản của Phật giáo. Gần chúng ta hơn, thi sĩ Hàn Mặc Tử, một thi sĩ nhiều đau khổ nhất. Thi sĩ vẽ cảnh biệt ly cô quạnh, nước mắt rơi không biết số muôn ức nào, qua những lời thơ:
Mây vẽ hằng hà sa số lệ,
Là nguồn ly biệt giữa cô đơn.
Ở đây, chúng ta thấy từ ngữ Hằng hà sa số được dùng một cách êm dịu linh động trong thi văn.
Ngoài ra, còn biết bao nhiêu tác phẩm mà từ ngữ và tinh thần Phật giáo bàng bạc trong ấy. Có thể nói Phật giáo là nguồn cảm hứng trong thi văn Việt Nam. Bởi vì những cảnh núi non thanh u tịch mịch là cảnh của thiền môn, tiếng trống sớm, giọng chuông chiều đập mạnh vào cảm quan của thi sĩ. Mắt trông thấy cảnh nên thơ, tai nghe êm dịu khiến lòng thi sĩ tràn trề cảm hứng.
D. KIẾN TRÚC
Tinh thần Phật giáo là tinh thần không cố chấp, không đóng khung trong một hình thức cố định. Phật giáo biết rõ mỗi chúng sanh đều có tâm tưởng ý nghĩ khác nhau., Không thể bắt buộc họ đồng nhất với nhau, khi nghiệp lực của mỗi người còn khác biệt. Từng cá nhân vẫn sai biệt theo nghiệp lực của mình, huống là mỗi dân tộc, phong tục tập quán làm sao giống hệt nhau được. Ðứng về phương diện khế cơ, Phật giáo du nhập vào địa phương nào, tùy dân tộc tính của địa phương ấy, sự kiến thiết chùa chiền phải thích ứng với dân tộc đó.
Cho nên, những ngôi chùa ở Trung Hoa hình thức đặc biệt Trung Hoa. Ngôi chùa ở Nhật Bổn hình thức hoàn toàn Nhật Bổn. Ngôi chùa ở Thái Lan, Miên. Hình thức hẳn là Thái Lan. Miên. Ngôi chùa Việt Nam thì thực sự là Việt Nam. Trông qua những ngôi chùa thờ Phật, ở mỗi nơi đều có kiểu khác biệt nhau. Có người cho đó là tính cách vô tổ chức của Phật giáo. Theo quan niệm của tôi, đó là đặc tính của Phật giáo: tôn trọng tinh thần dân tộc, gần gũi quần chúng, thích ứng nhân tâm. Phật giáo đến đâu chỉ giúp cho văn hóa xứ ấy được phong phú, không bắt buộc xứ ấy lệ thuộc văn hóa Phật giáo. Vì thế, dân tộc Việt Nam chỉ muốn Việt Nam hóa Phật giáo, chớ không để Phật giáo hóa Việt Nam. Lối kiến trúc những ngôi chùa cổ ở Việt Nam phối hợp tinh thần dân tộc cùng tinh thần Phật giáo làm một. Ngôi chùa độc đáo nhất ở Việt Nam xây cất thời của Lý Thái Tôn tên "chùa Một Cột" hay "chùa Diên Hựu". Sử chép "Ðại Bảo nguyên niên tạo Diên Hựu tự. Sơ Ðế mộng Quan Âm Phật tọa Liên Hoa đài dẫn Ðế đăng đài. Cập giác ngữ quần thần, hoặc dĩ vi bất tường ! Hữu Tăng Thiền Tuệ khuyến Ðế tạo tự lập thạch trụ vu địa trung, Cầu Quan Âm Liên Hoa đài vu kỳ thượng như mộng trung sở kiến, Tăng đồ toàn nhiễu tụng kinh Diên Thọ cố danh Diên Hựu".
(Ðại Việt Sử Ký toàn thư 9,11,37)
"Năm 1049 dựng chùa Diên Hựu, tức chùa Một Cột. Nguyên vua mộng thấy Phật Bà Quan Âm ngồi trên đài sen, đến dắt vua lên đài. Lúc tỉnh vua kể chuyện lại, triều thần cho là điềm gở. Sư Thiền Tuệ khuyên xây chùa, dựng một cột đá giữa hồ, đặt đài sen tượng Quan Âm ở trên như đã thấy trong mộng. Tăng đồ đi vòng quanh đài, tụng kinh để cầu cho vua sống lâu, cho nên có tên là Diên Hựu". (Nguyễn Ðăng Thục dịch) Cách kiến thiết ngôi chùa Diên Hựu thế nào, chúng ta hãy đọc thêm đoạn văn sau đây:
Theo bia "Sùng Thiện Diên Linh" dựng năm 1122 ở núi Long Ðội, tỉnhHà Nam: "Ở vườn Tây Cấm, dựng chùa Diên Hựu. Theo dấu cũ thêm ý mới của nhà vua, tạc hồ Linh Chiểu. Trên hồ dựng lên một cột đá, trên cột đá nở một bông sen nghìn cánh, trên bông sen lại gác một tòa điện tượng Phật vàng. Chung quanh hồ có hành lang bao vây, tường vẽ. Ngoài hành lang lại có hồ Khang Bích bọc bốn bề, mỗi bề có thông ra ngoài sân, trong sân, kế đầu cầu ở trước chùa có dựng hai tháp lớn, lợp ngói sứ".
(Lý Thường Kiệt, 9-11, trang 415 của Hoàng Xuân Hãn)
Trong quyển Văn minh Việt Nam, Lê Văn Siêu nói lối kiến trúc thành Thăng Long, có đề cập đến chùa Một cột như sau:
"Tiện đây, lại nói luôn đến chùa Nhất Trụ. Có lẽ chùa này cũng do cùng một kiến trúc sư kiến tạo nên. Bởi quy mô kiến trúc chùa cũng theo đúng một tinh thần như đã nói: Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái, Bát quái biến hóa vô cùng. Nhưng đặc biệt là toàn thể ngôi chùa lại quan niệm theo hình thể bông sen, cắm chân ở dưới đất bùn (cột) và lên đến trên thì to ra như hình búp hoa. Mái ở trên thời mở ra làm hai, xuống từng dưới là bốn mái và xuống từng dưới nữa là tám mái trông ra tám hướng. Chùa đặt ở ngay bên nội điện".
(Văn minh Việt Nam, trang 82-83)
Một công trình kiến trúc quý báu đáng lưu lại muôn năm, một quốc bảo của Việt Nam, mà đã bị bọn phi dân tộc phá hoại trong thời chiến này, thực đáng trách và đáng tiếc !
Ngoài ngôi chùa độc đáo trên, tất cả ngôi chùa khác đều kiến thiết theo một quan niệm dân tộc và Phật giáo. Có đi ra Huế, chúng ta sẽ thấy các ngôi chùa Linh Mụ, Tây Thiên, Báo Quốc, Từ Hiếu v.v. không khác điệnThái Hòa trong thành nội bao nhiêu. Hinh thức ba gian, năm gian hai chái, mái cong. chứa đầy tinh thần dân tộc.
Tuy nhiên, gần đây có những ngôi chùa hoặc người đứng ra xây cất không nhận thức được tinh thần dân tộc, hoặc chạy hùa theo lối kiến trúc Tây phương khiến những ngôi chùa ấy lai căn một cách đáng thương ! Có khi đến ngôi chùa mà chúng ta không thể tưởng tượng đó là chùa, tưởng chừng ngôi biệt thự cất theo kiểu mới.
E. ÐIÊU KHẮC, HỘI HỌA
Nếu phê bình mỹ thuật về ngành điêu khắc, hội họa chung của dân tộc Việt Nam, chúng tôi không đủ khả năng làm việc ấy. Nhưng nhìn riêng về hình tượng tranh ảnh Phật giáo, chúng tôi có những nhận xét sau đây:
1. TINH THẦN DÂN TỘC
Tinh thần điêu khắc, hội họa cũng như tinh thần kiến trúc, nghĩa là phối hợp tinh thần Phật giáo với tinh thần dân tộc. Sự phối hợp nầy thể hiện cụ thể qua hình tượng Ðức Phật hay chư vị Bồ Tát. Ðức Thích Ca là vị Hoàng tử Ấn Ðộ đi tu, sau nầy thành Phật. Như vậy, tướng mạo Ngài nhất định là tướng mạo người Ấn Ðộ, nếu tạc tượng hay họa ảnh Ngài phải giống người Ấn mới đúng với hình tượng thật của Ngài. Nhưng nhìn vào tất cả tượng Phật thờ ở việt Nam, Trung Hoa. tại các ngôi chùa cổ, chúng ta không tìm thấy dáng điệu nào giống người Ấn Ðộ, mà thấy in hệt người Việt Nam, người Trung Hoa. Lối điêu khắc ấy, gần đây có một số người cho là sai sự thật. Ðó là thái độ câu chấp lệ thuộc vào hình thức. Tinh thần Phật giáo là tinh thần vô ngã. Ðức Phật không thừa nhận Ngài là người riêng của xứ Ấn Ðộ, mà là ông Thầy dẫn đường của Tam giới (tam giới chi đạo sư). Người Phật tử không thấy Ngài là ông cha riêng của một nước, mà công nhận Ngài là ông cha lành chung cả bốn loài (tứ sanh chi từ phụ). Ðã thấy Phật là ông cha chung của chúng sanh, thì chúng ta là người Việt Nam dĩ nhiên phải thấy Ðức Phật là người Việt Nam; người Trung Hoa, Nhật Bổn phải thấy Ðức Phật là người Trung Hoa, Nhật Bổn. Nếu chúng ta tạc tượng Phật in hệt người Ấn Ðộ, đó là phản bội tư tưởng của Ngài và cũng phản bội tinh thần dân tộc Việt Nam. Nghĩa là đã không đem văn hóa Phật giáo làm giàu cho văn hóa Việt Nam, ngược lại bắt văn hóa Việt Nam nô lệ văn hóa Phật giáo. Ðến tượng các vị Bồ Tát cũng thế. Như tượng Bồ Tát Quan Thế Âm, thực là một gương mặt từ bi của một bà mẹ hiền Việt Nam.
2. TINH THẦN PHẬT GIÁO
Những cử chỉ trong hình tượng Phật biểu lộ trung thành tinh thần Phật giáo. Có thể đơn cử một vài chỉ làm tỷ dụ. Nhìn vào tượng Ðức Phật Thích Ca, thấy cặp mắt Ngài đăm chiêu nhìn xuống, khiến chúng ta tự nghĩ : Tại sao có dáng điệu nầy? Bởi vì Phật giáo chủ trương thuyết nhơn duyên hay nhơn quả, cho nên không có một điều gì xảy ra mà không có nguyên nhân hay duyên cớ. Những nguyên nhân và duyên cớ ấy đều phát xuất từ bản thân chúng ta. Muốn tìm hiểu thấu đáo nguyên nhân và duyên cớ đó, phải căn cứ vào tâm tưởng, ngôn ngữ và hành động của chúng ta. Bỏ ta mà tìm kiếm bên ngoài, Ðức Phật cho đó là suy xét sai lầm, lệch lạc (tà kiến). Phải nhìn thẳng vào chúng ta, phải quán sát lại nội tâm của mình, một khi thấy rõ rồi thì mọi việc đều hiểu biết tường tận, hoặc nói cách khác là được giác ngộ. Muốn quan sát nội tâm mình, dĩ nhiên cặp mắt phải đăm chiêu ngó xuống. Tóm lại, cặp mắt Phật ngó xuống nói lên giáo lý đạo Phật là giáo lý "nội quan".
Quán sát nội tâm để thấu đạt mọi nguyên nhân phát xuất nơi mình, đó lại thái độ tiêu cực tự giác, tự ngộ. Ðối với xã hội, Phật giáo còn có thái độ tích cực giác tha và độ tha. Cho nên nhìn vào tượng Phật Di Ðà phóng quang, chúng ta thấy tượng đứng thẳng, một tay kiết ấn cam lồ, một tay duỗi xuống phóng quang. Phật giáo nhận xét chúng sanh còn trong vòng trầm luân muôn vàn đau khổ, chẳng khác nào những kẻ đang đắm chìm ngụp lặn trong biển cả. Cử chỉ duỗi tay xuống của Ðức Phật để nói lên ý nghĩa, Ngài lúc nào cũng sẵn sàng đưa tay cứu vớt tất cả chúng sanh. Tinh thần độ tha của đạo Phật biểu lộ rất đầy đủ trong cử chỉ ấy.
Ðến tượng Bồ Tát Quan Thế Âm, tay trái cầm bình Thanh tịnh đựng nước cam lồ, tay nặt cầm cành Dương liễu để nhúng nước cam lồ rưới xuống chúng sanh. Ðức Quan Thế Âm là hình ảnh một bà mẹ hiền của tất cả chúng sanh. Ngài lúc nào cũng nguyện dẹp hết đau khổ (lòng bi) đem mọi an vui (lòng từ) lại cho chúng sanh. Nước cam lồ để tượng trưng lòng từ bi của Ngài. Nó có công dụng rưới tắt ngọn lửa phiền não đang bừng cháy trong tâm chúng sinh, và đem lại sự thanh lương an tịnh cho mọi loài. Nó không đóng khung trong một hình thức vuông, tròn, không cố định trong cá thể lỏng, cứng, tùy hoàn cảnh, tùy tâm niệm chúng sinh liền theo đó ứng hiện cứu độ. Lòng từ bi thật là mênh mông, bát ngát không thể lường, không thể biết hết được.
Ðó là phác họa vài nét điêu khắc, hội họa hình tượng Phật, Bồ Tát, nói lên tinh thần Phật giáo một cách cụ thể. Chúng ta có thể nhơn đây có những nhận xét tổng quát về điêu khắc chứa đựng đầy đủ tinh thần Phật giáo.
3. PHẬT GIÁO GIÚP NGÀNH ÐIÊU KHẮC, HỘI HỌA VIỆT NAM SỚM PHÁT TRIỂN.
Chúng ta không thể chối cãi được những hình ảnh điêu khắc trong các hang động xưa kia lưu lại, những cốt tượng tìm được hiện còn giữ trong Bảo tàng viện Quốc gia, đa số là hình ảnh Phật giáo và cốt tượng Phật, Bồ Tát. Bao nhiêu đó cũng đủ minh chứng nhờ ảnh hưởng Phật giáo mà nghành điêu khắc, hội họa Việt Nam sớm được phát triển.