Dân tộc Việt Nam đã sẵn truyền thống bất khuất của tổ tiên lưu lại. Người Việt Nam không chịu cúi đầu làm nô lệ ngoại bang. Dù có những khi thế cùng lực tận bắt buộc phải lệ thuộc họ, nhưng tinh thần bất khuất đã biến thành ngòi thuốc súng cứ cháy âm ỉ trong lòng chiến sĩ cách mạng. Người thanh niên Việt Nam sẵn sàng hy sinh mối tình riêng tư của mình để đem thân ra bảo vệ quê hương dân tộc.
Giặc Tây đánh tới Cần Giờ
Biểu đừng thương nhớ đợi chờ uổng công!
Quê hương xứ sở của mình dù nhỏ nhoi nghèo thiếu, nhưng người Việt vẫn yêu mến nó, quý trọng nó:
Ta về ta tắm ao ta,
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.
Vì sẵn tinh thần bất khuất nên người Việt Nam không chịu ỷ lại; tự mình phải gây dựng cho mình, dù gian nan cách mấy cũng vui:
Có vất vả mới thanh nhàn,
Không dưng ai dễ cầm tàn che cho.
2. TÌNH ÐOÀN KẾT
Nếu chỉ có tính bất khuất thì chưa đủ để chiến thắng quân thù, người Việt còn luôn luôn kêu gọi tình đoàn kết. Trong Hội nghị Diên Hồng, chúng ta thấy muôn người như một, quyết chung lưng đấu cật chiến đấu tới cùng. Tình đoàn kết đó, chúng ta đã nghe văng vẳng từ đồng quê vọng lại:
Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Thực vậy, nếu người có tài khôn ngoan thì hãy đem tài mình ra chống cự ngoại xâm. Anh em trong nhà cùng chung máu mủ ai nỡ giết hại nhau. Nếu đứng riêng một mình thì người có tài giỏi đến đâu cũng không làm nên việc gì, cần phải góp tay chung sức mới làm nên việc lớn:
Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây giụm lại nên hòn núi cao.
Nước Việt Nam nằm bên cạnh nước Trung Hoa, một cường quốc nổi danh thời Trung cổ, người Việt lúc nào cũng lo lắng hồi hộp mình bị xâm lăng, nên lời kêu gọi đoàn kết không dừng. Do đó, tình đoàn kết đã thấm sâu trong tim não người Việt Nam.
3. BAO DUNG
Trên giải đất Việt Nam nhỏ bé, nhưng rất nhiều giống dân chung sống, nếu thiếu tâm lượng bao dung thì nội loạn sẽ dâng khởi liên miên. Vì thế tâm lượng bao dung của người Việt được biểu lộ cụ thể qua câu ca dao:
Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Cùng chung sống trong một đất nước thì khổ vui cũng đồng chịu, chúng ta phải thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Với tinh thần chị ngã em nâng, sự cứu giúp nầy sẽ làm lành mạnh hóa tổ chức xã hội. Ðây, tự đáy lòng người nông dân phát xuất ra những lời tha thiết:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Gặp cơn nguy biến hoạn nạn, tình đồng bào chúng ta đâu nỡ làm ngơ, mà phải ra tay cứu giúp nhau. Người biết chia sớt khổ đau cho nhau thật là một tình thương đáng kính đáng quý. Tình thương ấy đã phát ra ngôn ngữ, mà người Việt Nam chúng ta không có quyền quên:
Ðường xa xin chớ ngại ngùng,
Trèo non, xuống biển ta cùng đỡ nhau.
4. HIẾU KÍNH
Xã hội Việt Nam xây dựng trên nền tảng gia đình. Gia đình có an vui hạnh phúc thì quốc gia mới vững mạnh. Vì thế, trong gia đình người cha phải từ, người con phải hiếu. Muốn những đứa con khởi lòng hiếu kính, trước phải dạy chúng nhớ công ơn sanh thành khổ cực của cha mẹ. Công ơn cha mẹ được người bình dân hình dung rộng như biển, cao như núi.
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Những ai còn được cha mẹ sanh tiền là có cả một kho tàng quý báu, là được uống những dòng suối ngọt, ăn những thức bùi. Sự thơm ngon quý báu ấy còn dư vị trong cổ họng chúng ta qua lời ca chất phác của người bình dân:
Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp một, như đường mía lau.
Ðã biết công ơn cha mẹ nặng nề như vậy, kẻ làm con lúc nào cũng hy vọng đền đáp. Có người cho sự học hành đỗ đạt, làm đẹp mặt nở mày cha mẹ là đền ơn:
Bao giờ? cá Lý hóa long,
Ðền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xưa.
Có người sống trong cảnh nghèo thiếu vất vả, nhưng lòng biết ơn cha mẹ không bao giờ quên. Họ phải nhịn ăn để nhường phần nuôi cha mẹ:
Ðói lòng ăn đọt chà là,
Ðể cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
Khi cha mẹ gặp lúc trở trời trái gió, người con hiếu thảo lo sợ cha mẹ chết nên đến trước bàn Phật thắp hương lâm râm khấn vái, cầu nguyện Phật, Trời phò hộ cho cha mẹ sống đời với con:
Lâm râm khấn vái Phật, Trời,
Xin cho cha mẹ ở đời nuôi con.
Công ơn cha mẹ sanh thành nuôi dưỡng rộng sâu như trời bể, người con hiếu thảo lúc nào cũng canh cánh bên lòng, mong ngày đền đáp. Rồi được cha mẹ cho đi học hành, ông thầy sẽ thay thế cha mẹ dạy bảo văn chương chữ nghĩa và cách cư xử ở đời. Người con hiếu ấy đã thấy mang thêm một ơn nặng nữa:
Gươm vàng rớt xuống hồ Tây,
Công cha cũng trọng, nghĩa thầy cũng sâu.
Lớn lên được dịp đi chùa lễ Phật, hoặc nghe các sư giảng dạy, người con hiếu phát tâm ham mộ đạo đức, muốn dứt khoát cuộc đời thế tục, vào nương mình dưới bóng từ bi. Hoặc những lúc chiều về nghe tiếng trống công phu dồn dập, giọng chuông cảnh tỉnh ngân dài, khiến lòng khoan khoái nhẹ nhàng muốn gởi thân vào cửa Phật. Nhưng còn cha mẹ già yếu chưa đền đáp được chút ơn sanh thành, nên khó lòng cất bước ra đi. Thế là, người con hiếu bị dằng co giữa hai tâm niệm: vừa muốn tìm đường thoát tục, vừa lo đền đáp công ơn sanh thành:
Ðến chùa thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ đi tu không đành.
Nhưng rồi, quan niệm chữ hiếu nặng hơn. Người ta cho rằng đạo hiếu là đạo chơn chánh của con người. Người biết thờ cha kính mẹ là người đã tu đúng chánh đạo:
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ mới là chơn tu.
Hoặc giả người ta đã thần thánh hóa cha mẹ, coi cha mẹ như Phật, biết thờ kính cha mẹ là thờ kính Phật. Cho nên người bình dân đã nói "Phật trong nhà không thờ, thờ Thích Ca ngoài đường".
Hiếu thảo là chất liệu thiết yếu trong xã hội Việt Nam. Vì thế, trong tinh thần dân tộc Việt Nam, ai cũng đặt chữ hiếu lên trên tất cả. Những đứa con bất hiếu luôn luôn bị dân chúng Việt Nam chê ghét, nguyền rủa.
B. PHẬT GIÁO THÍCH HỢP VỚI TINH THẦN DÂN TỘC VIỆT NAM
1.TÙYCƠ:
Dù ai quê dốt đến đâu cũng biết đạo Phật xuất phát từ nước Ấn Ðộ. Thế là, đạo Phật đã đầy đủ tính chất ngoại lai, sao được gọi là đạo của dân tộc. Muốn thấu hiểu điều này, chúng ta phải chín chắn chiêm nghiệm. Hiện tại, chúng ta thường nghe những danh từ Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Ấn Ðộ - Tại sao Phật giáo ở nước nào đều được mang tên của nước đó ? - Vì Phật giáo không có giáo quyền chung, không lệ thuộc Giáo hội trung ương điều khiển, cho nên truyền bá đến địa phương nào, tùy sự thích hợp của dân tộc địa phương đó, Phật giáo hình thành theo phong tục tập quán của địa phương. Bởi không lệ thuộc Giáo hội Trung ương nên tất cả động sản, bất động sản của Phật giáo ở nước nào đều là của dân tộc nước đó. Cho đến cách kiến trúc chùa chiền, cách ăn mặc của các vị sư cũng đều tùy theo phong tục và tập quán của địa phương cả. Nếu chúng ta phàn nàn Phật giáo có nhiều hình thức phức tạp khó thống nhất, thì chúng ta phải phục Phật giáo đã khéo tùy dân tộc tính mà biến thành đạo của dân tộc từng quốc gia.
Lại nữa, nói đến Phật pháp là nói đến phương pháp hợp lý, hợp cơ. Ðem chánh lý áp dụng thích hợp nơi căn cơ con người hiện thời là Phật pháp. Hoặc nói "Phật pháp bất định pháp", tức là giáo pháp của đức Phật không cố định, không câu nệ một cách cứng nhắc, mà luôn luôn linh động tùy thời, tùy cơ. Nhưng không phải tùy cơ là biến mất bản chất Phật giáo. Chủ trương của Phật giáo là "Tùy duyên nhi bất biến", hoặc ngược lại, "Bất biến nhi tùy duyên". Bản chất từ bi, trí tuệ, giải thoát của đạo Phật không bao giờ thay đổi, nhưng phương tiện thực hiện từ bi. cần phải tùy thời, tùy cảnh và tùy căn cơ chúng sanh. Vì thế, Phật giáo đến nước nào liền có hình thái thích nghi với dân tộc nước ấy. Cho nên, Phật giáo ở nước nào là của dân tộc nước đó và cũng mang tên nước đó.
2. TỰ TÍN VÀ GIẢI THOÁT.
Bước chân vào chùa, chúng ta đã thấy trước chánh điện đề bốn chữ ÐẠI HÙNG BỬU ÐIỆN. Ðiện báu thờ đức Ðại Hùng. Phật được gọi là đấng Ðại Hùng, Ðại Lực, vì Ðức Phật đã cương quyết đập tan hết mọi xiềng xích: xiềng xích do xã hội tạo ra như chế độ giai cấp của Bà La Môn giáo đã đặt ra ở Ấn Ðộ, xiềng xích tại bản thân con người do ngũ dục trói buộc, xiềng xích ở nội tâm do tham, sân, si sai sử. Tất cả thứ xiềng xích đó, Ðức Phật đã phá vỡ, nên Ngài là bậc hoàn toàn giải thoát. Ðức Phật không bao giờ chịu khuất phục dưới một sức mạnh nào, dù là sức mạnh vô biên của nghiệp lực truyền kiếp lưu lại. Nghiệp lực ấy đã hiển hiện qua hình thức vô số ma vương bao quanh cây Bồ Ðề chiến đấu với Ngài, cuối cùng Ngài vẫn chiến thắng chúng và thành bậc Ðại Giác Ngộ.
Chủ trương giải thoát của đạo Phật là vượt ra ngoài vòng nô lệ, bất cứ loại nô lệ nào; từ ở ngoài đem đến hay từ ở trong phát sanh. Bởi quyết thoát nô lệ nên Phật giáo luôn luôn phá trừ tính ỷ lại, dạy Phật tử phải nỗ lực tự cường, như câu: "Các người phải tự thắp đuốc lên mà đi". Vì thế, tinh thần hùng lực và giải thoát của đạo Phật rất thích hợp với tinh thần bất khuất và độc lập của dân tộc Việt Nam. Biết đâu không do ảnh hưởng sâu đậm tinh thần Phật giáo mà người Việt Nam đã viết thành những trang sử oai hùng dưới triều Lý, triều Trần.
3. TINH THẦN ÐOÀN THỂ
Nói đến Tăng chúng là nói đến bản chất Lục hòa. Có hòa thuận mới có tin yêu và đoàn kết. Lục hoà là kích thích tố phát khởi hành động đoàn kết. Thiếu Lục hòa, dù chúng ta có lạc giọng kêu gọi đoàn kết cũng không khi nào có đoàn kết. Muốn thành một tu sĩ Phật giáo trước hết phải thành tựu Lục hòa. Cho nên tinh thần đoàn kết là then chốt trong đạo Phật. Trước tiên phải có hòa kính, nhiên hậu mới có đoàn kết. Ðoàn kết là một sức mạnh phi thường, không việc gì làm chẳng được. Câu chuyện ngài Mục Kiền Liên cầu Phật dạy phương pháp cứu mẹ đang mắc trong vòng Ngạ quỉ. Phật bảo Ngài đi thỉnh mười phương Tăng chúng cúng dường, nhờ sức chú nguyện của chúng Tăng, mẹ Ngài sẽ thoát vòng đau khổ. Tại sao ngài Mục Kiền Liên đầy đủ thần thông, Ðức Phật có vô biên công đức mà không đích thân ra tay cứu độ cho mẹ Ngài Mục Kiền Liên, phải đợi đến sức chú nguyện của Tăng chúng ? Ðiều này đủ chứng tỏ Phật dạy đoàn kết là sức mạnh trên tất cả sức mạnh. Vì ý nghĩa nầy nên Phật chủ trương "Ðức chúng như hải". Bởi Phật giáo chủ trương hòa kính để đi đến đoàn kết nên rất thích hợp với tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
4. TINH THẦN BAO DUNG
Ðạo Phật thừa nhận tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Ðã có Phật tánh thì dù các chúng sanh do hành nghiệp bất đồng bị quả báo sai biệt, nhưng Phật tánh vẫn đầy đủ như nhau. Bởi hành nghiệp bất đồng nên chúng sanh chiêu cảm thân thể, ngôn ngữ, tư tưởng, hành động khác nhau. Như vậy, ta không thể bắt buộc mọi người đều hiểu biết, hành động như ta được. Lại nữa, trong kinh Phật dạy : "Khi có Phật ra đời giáo hóa, người y theo pháp Phật dạy tu hành chứng quả, gọi là Thanh văn ; khi không có Phật ra đời và không còn giáo hóa của Phật, người tự quán sát lý sanh diệt của vạn vật mà ngộ đạo, gọi là Ðộc giác". Như thế, không phải chỉ y cứ theo lời Phật dạy tu hành mới thành thánh quả, mà bất cứ ai biết xét đúng lý sanh hóa của vũ trụ được giác ngộ đều chứng thánh quả cả. Thế thì, đức Lão Tử, đức Khổng Tử. đâu không phải là hàng Ðộc giác. Bởi quan niệm nầy, Phật giáo không bao giờ kỳ thị các tôn giáo khác, trái lại còn dung hòa thân mật là khác. Bằng chứng trong lịch sử Việt Nam, thời Lý, Trần là thời độc tôn của Phật giáo, mà khoa thi Tam giáo vẫn được mở đời Lý Nhân Tôn và chủ trương Tam giáo đồng nguyên thịnh đạt nhất đời Trần Thái Tôn, một ông vua rất thâm hiểu Phật giáo. Ðây, ta hãy nghe Ngài nói:
"Ấy, thân mệnh tuy là chú trọng thật, song cũng chưa trọng bằng chí đạo kia. Thế cho nên Khổng Phu Tử có câu rằng: "Sớm nghe đạo, tối chết cũng cam". Ông Lão Tử có câu rằng: "Ta có sự lo lớn là vì ta có cái thân". Ðức Thế Tôn cầu đạo, xả thân cứu khổ, thế chả phải "ba đấng thánh đều khinh thân mà trọng đạo đó sao?" (Khóa Hư, Thiều Chửu dịch) (Tuy vân thân mệnh cho chí trọng, do vị túc trọng ư chí đạo giả giã. Cố Khổng Tử viết: Triêu văn đạo tịch, tử khả hỉ. Lão Tử viết: Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả vị ngô hữu thân. Thế Tôn cầu đạo, xả thân cứu khổ, khởi phi tam thánh nhân khinh thân nhi trọng đạo tai !).
Hoặc câu:
"Hỏi chi tăng, chỉ cốt tỏ tâm; nguyện không gái trai, sao nên nệ tướng. Người chưa hiểu càng chia tam giáo, hiểu đến nơi cùng thấu nhất tâm".
(Hưu biệt tại gia xuất gia, bất câu tăng tục, chỉ yếu biện tâm. Bổn vô nam nữ, hà tu trước tướng. Vị minh nhơn vọng phân tam giao, liễu đắc đế đồng ngộ nhất tâm).
Vua Trần Thái Tôn đã có lần đi trốn lên núi xuất gia và đã viết nhiều tác phẩm về Phật giáo, mà vẫn tôn trọng Khổng Tử, Lão Tử, xem hai Ngài cũng là bậc Thánh, đồng hàng với Phật. Ðó đủ chứng tỏ tinh thần bao dung rộng rãi của Phật giáo. Không phải như các tôn giáo khác, chỉ chú trọng ông Giáo chủ của mình là Thánh, còn Giáo chủ của tôn giáo khác là yêu quái, đạo mình là chánh đạo, đạo khác là tà, rồi sanh tâm khinh miệt kỳ thị.
Ðến thời Nho học độc tôn, triều Lê Thái Tổ về sau, Phật giáo bị chống báng kịch liệt và bị đẩy lui về thôn dã. Bởi Phậ? giáo sẵn bản chất bao dung như vậy nên thích ứng với tinh thần dân tộc Việt Nam.
5. HIẾU KÍNH
Ðạo Phật cũng chú ý đặc biệt đến lòng hiếu thảo của kẻ làm con. Những kinh điển chuyên dạy người con phải hiểu kính cha mẹ như: Kinh Báo Phụ Mẫu Ân, Kinh Thai Cốt, Kinh Hiếu Tử, Kinh Ðại Tập, Kinh Nhẫn Nhục, Kinh Vu Lan. Ngoài ra, những Kinh chỉ đề cập đến chữ hiếu vài tờ, vài đoạ? thì bàng bạc khắp Tam tạng Thánh điển, không thể kể xiết. Nhắc lại công ơn cha mẹ không thể tính kể, không thể đo lường, kẻ làm con đền đáp suốt đời vẫn chưa thấm vào đâu. Phật dạy: Thế gian vạn pháp, mạc quá phụ mẫu cù lao ân đại" (Kinh Thai Cốt), Nghĩa là "Muôn việc ở thế gian, không gì hơn công nuôi dưỡng lớn lao của cha mẹ". Công đức của cha mẹ đã quá lớn lao, nếu kẻ làm con không lo đền đáp, lại ăn ở bất hiếu thì mắc tội không biết đền ngần nào. Phật dạy: "Ân đức cha mẹ vô lượng vô biên, kể không bao giờ cùng" (Kinh Báo Phụ Mẫu Ân). Kẻ làm con biết sợ điều ác, biết ưa điều thiện thì không gì hơn ăn ở hiếu kính với cha mẹ. Phật dạy: "Cùng tột điều thiện không gì bằng hiếu, cùng tột điều ác không gì bằng bất hiếu" (Kinh Nhẫn Nhục). Cho đến trong Luật, Phật liệt tội bất hiếu đứng đầu năm tội "ngũ nghịch".
Bởi Phật giáo đặt trọng chữ hiếu nên thích hợp với tinh thần dân tộc Việt Nam. Như hạt giống tốt gieo xuống thửa ruộng phì nhiêu, lại đủ nước, phân .. Nên chóng đơm hoa kết quả. Tinh thần hiếu kính của Phật giáo đã hun đúc ăn sâu trong tinh thần dân tộc.
C. TÍN NGƯỠNG
1.TIN CÓ SỰ CHE CHỞ CỦA PHẬT, TRỜI.
Tín ngưỡng của người Việt Nam trước kia cũng giống tín ngưỡng của các dân tộc bán khai thời Trung cổ. Bởi so sánh với thiên nhiên thấy con người bé nhỏ, thiên nhiên mênh mông, sức người tầm thường mà quyền lực thiên nhiên vô hạn, tự nhiên người ta đâm ra kinh sợ thiên nhiên. Một ngọn cuồng phong thổi qua làm sập đổ bao nhiêu nhà cửa cây cối, người ta hoảng sợ cho là thần gió hung hăng phá hoại. Một cơn mưa lũ cuốn phăng cả xóm làng người vật, người ta tin đó là thần mưa quở phạt nhân dân. Những tiếng sét nổ kinh hồn giết người chết vật, người ta tin đó là thần sấm hay thiên lôi ra oai trừng trị yêu tinh, kẻ hung ác. Thế là, người ta thần thánh hóa thiên nhiên. Thiên nhiên đã bị thần thánh hóa thì cũng giống như xã hội loài người. Xã hội loài người thời ấy, trên có vua cai trị, dưới có bá quan thừa hành; xã hội thần thánh cũng được an bài; trên có Trời thống lãnh, dưới có chư thiên thần ngự trị nhân gian. Cho nên, người nhân gian muốn được yên ổn hạnh phúc phải kính thờ Trời:
Dù ai nói ngược nói xuôi,
Ta đây cũng giữ đạo Trời khăng khăng.
Từ khi Phật giáo được thấm nhuần trong huyết quản dân tộc Việt Nam, thì người bình dân cũng tin tưởng Ðức Phật có đủ quyền năng như ông Trời. Thế là địa vị ông Trời được đặt ngang hàng với ông Phật. Có lắm khi người ta lại thấy Ðức Phật gần gũi với họ hơn, vì Phật có hình tượng cụ thể, có kinh giáo rõ ràng. Vì thế, mỗi khi có tai biến, người bình dân liền thắp hương cầu nguyện:
Nghiêng vai ngửa vái Phật, Trời,
Ðương cơn hoạn nạn độ người trầm luân.
Người bình dân đã hòa đồng tín ngưỡng Phật giáo và tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc thành một mối. Vì thế, trong nhà lập trang thờ Phật, ngoài sân dựng bàn thờ ông Thiên.
2. TIN PHẬT SẼ BAN CHO NHỮNG ÐỨA CON QUÝ.
Sau khi đã tin Phật, người Việt Nam tin tưởng rằng mình thiếu thốn cái gì, chân thành cầu Phật, Phật sẽ ban cho như nguyện. Nhất là những người hiếm con, muốn có một đứa con trai nối dõi thì họ mua nhang, bưng nếp vào chùa cầu khấn để được con:
Tay bưng quả nếp vô chùa,
Thắp nhang lạy Phật xin bùa em đeo.
Chẳng những người bình dân tin đi chùa cầu con sẽ được con, mà hàng trí thức Việt Nam ngày xưa cũng tin như thế. Theo sử chép: "Vua Lý Thánh Tôn đã 40 tuổi mà chưa có con trai, năm 1063 vua sai lập chùa ở Ba Sơn để cầu tự. Vua đi đến chùa Dâu thuộc làng Siêu Loại gặp Ỷ Lan, tuyển làm cung phi, sau sinh ra Thái tử Càn Ðức.". Tin tưởng cầu tự sẽ được con quý có rất nhiều truyền thuyết trong dân gian Việt Nam.
3.TIN CHẾT RỒI KHÔNG PHẢI MẤT.
Người Việt Nam tin rằng sau khi chết thân này tan rã, phần anh hồn vẫn còn. Cho nên chết trong vòng một năm, mỗi bữa cơm, con cháu trong nhà sắm một mâm cơm bưng đặt trên bàn thờ, thắp ba cây nhang lâm râm khấn vái, như mời mọc cha mẹ về nhận thức dâng cúng của mình. Hoặc trong mỗi bữa ăn chung gia đình, người ta vẫn xới riêng một chén cơm, một đôi đũa dành phần cho người chết, tưởng chừng như người chết cũng về ngồi ăn chung với gia đình. Qua những buổi tế lễ hoặc cúng kỵ ở thôn quê, chúng ta càng thấy rõ lòng tin tưởng người chết không phải là mất của người bình dân một cách đầy đủ.
Do lòng tin tưởng chết không phải là hết, người Việt Nam rất dễ chấp nhận lý thuyết luân hồi trong Phật giáo. Tin rằng người chết còn lảng vảng bên cạnh gia đình để phù hộ con cái, hoặc đã đi đầu thai kiếp khác ở cõi nầy hay cõi kia. Và?sự đầu thai ấy sẽ tùy theo tội phước của mình đời nầy đã gây tạo, kiếp sau được sung sướng hay đau khổ. Cho nên người bình dân hằng khuyên nhủ nhau:
Ai ơi ! Hãy ở cho lành
Kiếp này chẳng được để dành kiếp sau.
Người bình dân lại so sánh kẻ biết lo xa và người chỉ nhìn hiện tại. Người chú mục vào hiện tại chỉ thích hưởng lạc thú hiện tiền. Người nhìn xa xôi về tương lai, chẳng những lo cho đời này mà còn lo dành dụm phước đức để đời sau nữa:
Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời về sau
Tin "chết không phải là hết" giúp cho người Việt Nam biết sợ điều ác, biết ham điều lành. Nhờ đó xã hội Việt Nam được nhiều phần nhân nghĩa.
D. TẬP QUÁN:
1. CHÙA ÐÌNH LÀ CHỖ CHE CHỞ CHO DÂN LÀNG
Người Việt Nam đã sẵn lòng tín ngưỡng cho nên mỗi làng xã ở thôn quê tối thiểu đều phải xây dựng một ngôi chùa thờ Phật và một cái đình thờ thần. Vị thần được thờ ở trong làng là để xua đuổi ôn dịch bảo vệ dân làng, trừng trị kẻ gian ác, ủng hộ người lương thiện. Vì vậy những khi trong làng có bệnh dịch, dân chúng trong làng nhóm họp, vào đình thỉnh xác thần đi quanh làng. Hoặc trong làng có xảy ra sự kiện tụng mà các vị hương chức trong làng xử chưa ổn thì họ dắt hai bên lại trước bàn thờ vặn cổ gà thề, nếu bên nào gian giảo thần xui con gà nhào lăn bên ấy. Dân chúng trong làng có bổn phận bốn mùa cúng tế thần và mướn một ông từ ở thắp hương, săn sóc quét dọn đình thần. Nếu đình hư hao, dân chúng trong làng phải đóng góp xây cất lại.
Chùa cũng do dân làng xây cất, thỉnh Phật về thờ. Ngôi chùa là chỗ để cho dân làng những ngày sóc vọng qui tụ về tụng kinh sám hối. Hoặc những khi người trong làng gặp tai ách bịnh hoạn thì đến chùa cúng vái, cầu cho tai qua bịnh lành. Ðức Phật được thờ trong làng, chẳng những che chở cứu độ dân làng mà còn ban cho họ những điều họ mong ước. Như cầu con, cầu an ổn, cầu siêu rỗi. Ðể thấy rõ lòng tin tưởng của dân làng đối với ngôi chùa trong làng, ta hãy đọc đoạn nầy của tác giả Huỳnh Minh nói về chùa Trà Nồng:
"Trước kia làng im lìm, vắng vẻ bao nhiêu, nay rộn rịp tưng bừng bấy nhiêu. Mỗi ngày, sáng chiều hai buổi tiếng chuông mõ công phu đánh thức người nông dân ra đồng cho sớm, kẻ buôn bán không trễ buổi chợ mai. Câu kinh, tiếng kệ vang lừng, nam phụ lão ấu ra vào tấp nập trong chùa những ngày rằm, ba mươi hay vía lớn.
Lòng người dân phấn khởi an lạc, một niềm tin dồi dào, nhờ đó sự làm ăn trong dân làng càng ngày càng phát đạt.
Mùa lúa trúng mùa. Mùa cá cá nhiều. Cây trái đơm oằn bông, sự mua bán thạnh hành tấp nập".
(Trích Kiến Hòa xưa và nay, trang 63, tác giả Huỳnh Minh).
Mỗi làng một ngôi chùa là điều thiết yếu không thể thiếu được. Thiếu một ngôi chùa coi như làng đã thiếu sự che chở thiêng liêng, dân làng nơm nớp lo sợ. Cho nên họ đã bảo nhau:
"Ðất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt". Vì chùa là chỗ che chở cho dân làng và do dân làng kiến thiết, cho nên đi đâu lỡ đường lỡ sá thì người ta ghé chùa xin nghỉ nhờ. Những người ăn xin tàn tật, ban ngày đi xin ăn đầu đường xó chợ, tối về hành lang chùa nghỉ. Nếu ai rầy đuổi sẽ bị họ la: "Cửa chùa mở rộng ! Cửa chùa là cửa từ bi ! Chùa là của dân chúng, không ai có quyền đuổi !". Nhiều thầy trụ trì bực bội về việc ăn ở bẩ? thỉu của họ, nhưng rồi cũng không biết làm gì hơn. Bởi vì chùa là của dân tộc thì nó phải bình đẳng che chở cho tất cả. Lại bọn trẻ con trong làng cứ vào chùa hái trộm trái cây, nếu bị mấy ông đạo bắt gặp, chúng lại trút tội rằng: "Của chùa là của chung, đâu phải của riêng các thầy". Bấy nhiêu đó đủ chứng tỏ người Việt Nam quan niệm chùa là chung của dân tộc, không phải riêng của ai.
2. HÀNH HƯƠNG, TRẨY HỘI.
Xã hội Việt Nam là xã hội nông nghiệp. Mùa ướt dân chúng lo cày cấy, mùa khô lo gặt hái. Qua hai mùa nầy, dân chúng được nhàn rỗi, nên thường hay tổ chức những cuộc hành hương, trẩy hội. Những cuộc hành hương, trẩy hội là khởi hứng, trong cuộc sống của xã hội nông nghiệp. Ðể thấy rõ ý nghĩa hành hương, trẩy hội của dân tộc Việt Nam, ta hãy đọc đoạn văn sau đây trong quyển Tư tưởng Việt Nam:
"Chúng ta thấy xuất hiện ở nông thôn Việt Nam xưa, cái cảnh tượng trẩy hội, già trẻ lũ lượt kẻ gánh kẻ gồng, người bồng người bế, bỏ nhà cửa sau lũy tre xanh để tìm vào các nơi hang động có danh tiếng linh thiêng. Ở Bắc Việt, hang động linh thiêng nhất có động Hương Tích, Ðền Sòng, Phố Cát, Phủ Giầy, Kiếp Bạc và Ðền Hùng.
"Theo lịch trình tiến hóa của đời sống tín ngưỡng bình dân nông nghiệp cổ xưa ở Việt Nam, chúng ta có thể có thể nhận thấy ở động Thẩm Lệ là tình cảm bản năng sinh lý, đem thái độ sống hiện thực để diễn ta cái vũ trụ quan thần bí của nguồn sống tràn ngập, sống của người với sống của cây cỏ, trong ấy tín ngưỡng với tình dục chưa phân biệt. Ở đồi Lim với tục hát giao duyên, quan họ thì tình dục ly khai với tín ngưỡng, mất tính cách thiêng liêng, trở nên tình cảm bồng bột có tính cách văn nghệ. Và sau đấy là trình độ tình cảm đi đến tín ngưỡng thần bí tập thể. Cả ba trạng thái sinh hoạt tình cảm ấy vẫn lấy thiên nhiên, hang động làm bối cảnh. Cho nên, có thể nói được rằng không có cảnh thiên nhiên thì người dân Việt hầu như không có hứng thú để sinh hoạt, vì thiên nhiên đối với họ là nguồn khởi hứng độc nhất cho tình cảm và tín ngưỡng vậy. Qua thiên nhiên, nhân dân nông nghiệp tìm nối lại cái nguồn sống phân hóa ra cá nhân, xã hội với cái nguồn sống vũ trụ bằng những cuộc biểu diễn văn nghệ tập thể như các cuộc hát giao duyên trong động (Thẩm Lệ), trên đồi (Ðồi Lim), hay qua những cuộc trẩy hội hành hương *Phủ Giầy, Kiếp Bạc, Hương Tích)".
(Tư tưởng Việt Nam, trang 86-87, của Nguyễn Ðăng Thục)
Hiện nay chúng ta vẫn thấy, những năm thái bình, vào khoảng tháng giêng, tháng hai, dân chúng đi hành hương tấp nập ở Ngũ Hành Sơn miền Trung, ở núi Ðiện Bà (Tây Ninh), núi Sam, chùa Tây An (Châu Ðốc), Thạch Ðộng (Hà Tiên) miền Nam. Những nơi ấy, khách thập phương kéo nhau như dòng nước lũ, mỗi người mang theo hương đăng để kính lễ nguyện cầu. Con đường vào điện hay lối lên động, hai bên lề khói hương nghi ngút. Người ta đi hành hương với cái vẻ tín ngưỡng linh thiêng, cộng với sự thích thú lâng lâng trong tâm tưởng. Cái hứng thú sống hòa nhịp với thiên nhiên ở động và lòng tin tưởng Phật, Thánh sẽ chứng giám cho tâm thành của họ từ xa xôi về đảnh lễ các Ngài, khiến người dân Việt Nam vui vẻ hăng hái đi hành hương. Nhất là ở miền Nam, khi dân chúng mới di chuyển về sinh cơ lập nghiệp, chỗ ở chỉ là những túp lều tranh trong những cụm rừng, đám sậy, chung quanh là sình lầy nước đọng nên không thể kiến thiết được những ngôi chùa để làm nơi kính ngưỡng. Vì vậy đi hành hương thực là nơi cần thiết đối với họ. Ta hãy nghe ông Sơn Nam nói về tánh cách thiết yếu này:
"Từ bấy lâu, đa số làng mạc ở vùng Rạch Giá, Cà Mau chưa có chùa. Nếu có thì nói chung các sư sãi chưa gây được uy tín đáng kể. Thỉnh thoảng, các tu sĩ từ Thất Sơn hoặc từ bên kia biên giới (núi Tà Sơn, Kampot) thường hạ san, giảng đạo, bán thuốc núi, chiêu mộ tín đồ riêng cho cá nhân mình. Ðiều kiện nhập đạo do các thầy nêu ra thật đơn giản: thường niên đáo lệ, tín đồ chỉ cần lên núi viếng thầy, lưu trú tại am (cốc) đôi mươi ngày để làm công quả. Người hành hương ngạc nhiên như lạc vào bồng đảo thần tiên ! Họ thấy tận mắt những loài cây, những cầm thú mới lạ (cây trắc, cây tùng, cây kỳ nam, ngãi núi, chim cao các.) cùng là khung cảnh "lững lờ khe yến cá nghe kinh". Mùa nước, vùng đồng ruộng chung quanh bị ngập nước như thuở mới tạo thiên lập địa. Mùa nắng, lửa cháy đồng khô, khói bốc cuồn cuộn tứ bề như buổi hoàng hôn tận thế. Chốn núi non khác hẳn vùng phù sa nê địa đầy ô rô, cóc kèn, đước, vẹt ở vịnh Xiêm La hoặc vùng Cù lao xanh mát bóng bần ở sông Cửu Long. Ðã thỏa mãn về tinh thần du lịch, khách hành hương còn nghe những vấn đề liên quan đến phần hồn của con người, đến thần linh, vũ trụ, trong quá khứ vị lai. Hoặc các chuyện quốc sự mà nội dung là chống thực dân Pháp bằng. bùa phép".
(Tìm hiểu đất Hậu Giang, trang 112 của Sơn Nam)
3. LỄ CÚNG
Lễ cúng ở chùa đã thành tập quán của dân tộc. Ðầu năm đêm giao thừa, hầu hết người Việt Nam đều tấp nập đến chùa lễ Phật và hái lộc lộc. Người Việt tin rằng nhờ lộc của Phật suốt năm làm ăn phát đạt. Bởi niềm tin nầy nên nhất định họ phải hái kỳ được một cái hoa, một cành lá đem về nhà vào ngày đầu năm mới hài lòng, dù rằng các cây ở chùa đã trụi lá cả. Chính niềm tin này khiến ta thấy người Việt Nam tin tưởng vô biên vào sức Từ bi của Ðức Phật. Ðời sống của họ trọn năm được an lành, được sung túc đều nhờ vào đức Từ bi của Phật ban bố cho. Ðến lúc trăm tuổi, người Việt nếu không theo tôn giáo khác thì họ phải thỉnh bằng được một hoặc vài ba vị sư đến tụng kinh và tiễn đưa người chết đến mộ. Nếu thiếu một vị sư tụng kinh đưa đám, coi như đám ấy rất tẻ lạnh và tang quyến rất đau buồn. Rồi đến những lễ tuần, cũng phải đến chùa hoặc rước sư về nhà thiết bàn Phật tụng kinh. Dù là vị sư ấy không đủ tư cách của người xuất gia chân chánh cũng được, miễn biết tụng kinh là tốt. Như thế Phật giáo thật rất thủy chung với người Việt Nam: Khi sống nhờ Phật che chở, khi chết nhờ Phật cứu độ.
Nếu cha mẹ anh em, quyến thuộc chết rồi, muốn vối đền đáp ân xưa, người Việt đến ngày rằm tháng bảy, không ai rủ ai mà lũ lượt kéo về chùa thiết lễ Vu Lan. Tuy có đa số người không biết lễ Vu Lan là gì, nhưng đến rằm tháng bảy là tự họ thấy có bổn phận phải đi chùa. Ngày rằm tháng bảy đã thành ngày linh thiêng của dân tộc. Nếu không đi chùa được, mỗi người phải thiết lễ cúng tại nhà. Người dân Việt Nam tin rằng ngày rằm tháng bảy là ngày cứu độ vong nhân khỏi vòng khổ đau ở địa ngục và được Phật rước về nơi cõi Tây phương:
"Tiết đầu thu dựng đàn giải thoát.
Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi.
Muôn nhờ Phật lực Từ bi.
Giải oan, cứu khổ, hồn về Tây phương".
Những vong hồn kẻ chết, đến ngày lễ Vu Lan nhờ nghe tiếng kinh kệ và nhờ phép thiêng của Phật mà họ được siêu thăng Tịnh độ.
"Sống đã chịu mọi bề thảm thiết,
Ruột héo khô da rét căm căm.
Dãi dầu trong mấy mươi năm,
Thở than dưới đất, ăn nằm trong sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra.
Lôi thôi bồng trẻ dắt già,
Có khôn thiêng nhẽ, lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh Tịnh độ,
Bóng hào quang cứu khổ độ u.
Rắp hòa tứ hải quần chu,
Não phiền trút sạch, oán thù rửa không".
Cúng lễ Vu Lan và lập đàn chẩn tế là cứu độ vong nhân thoát khỏi chốn u đồ, cũng đem lại sự ấm no cho họ.
"Ðàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có chi bát nước nén nhang,
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
Trên nhờ Tôn giả chia đều chúng sinh.
Phật hữu tình từ bi phổ độ,
Chớ ngại rằng có có không không,
Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng,
Nam mô nhất thiết siêu thăng thượng đài.
(Văn tế thập loại chúng sanh, NGUYỄN DU)
Quan niệm cúng tế của Phật giáo đã ăn sâu trong lòng dân tộc. Ngày lễ Vu Lan thể hiện đầy đủ ý nghĩa tín ngưỡng dân tộc và Phật giáo hòa hợp thành một.
Bởi tập tục lễ cúng nầy nên có nhiều nơi người ta chỉ cần có một vị sư ở giữ chùa làng để cúng lễ trong chùa, và cúng lễ cho các nhà Phật tử. Muốn vị sư ấy mắc gốc rễ ở đó, dân làng tổ chức cưới vợ cho sư. Thế là trong chùa có thầy, có cô, có các chú điệu. Ngôi chùa gần biến thành một gia đình. Những vị sư sống như vậy, người ta đặt cho một tên riêng là "thầy cúng". Nếu chúng ta căn cứ vào giới luật mà xét, thì những trường hợp nầy rất tồi tệ, làm mất giá trị Tăng bảo. Nhưng chúng ta y cứ trên tinh thần dân tộc mà bàn, thì những trường hợp trên đủ chứng tỏ người dân Việt mong mỏi bảo vệ Phật giáo, muốn còn mãi mãi bên cạnh họ.
4. CÂU NIỆM PHẬT ĂN SÂU TRONG LÒNG DÂN TỘC.
Người Việt Nam thấm nhuần Phật giáo tận trong huyết quản, trong tủy não. Cho nên, không cần chỉ dạy, không cần khuyên bảo, lòng tin Phật vẫn ở sẵn trong lòng. Như khi chúng ta cùng sang một chuyến đò qua sông. Nếu gặp sóng gió, đò có thể bị nguy hại, mọi người không ai bảo ai đều niệm Phật thầm, hoặc niệm Quan Thế Âm Bồ Tát to lên để cầu cứu khổ. Bất cứ một tai nạn nào sắp hại đến thân, người ta đều to tiếng niệm Phật cầu cứu.
Cho nến ông đồng bà cốt lên xuống khề khà, nếu cô cậu gì nhập vào, mở miệng nói chuyện đều "Mô Phật". Hình như bất cứ một việc gì có tánh cách linh thiêng đều phải có tiếng niệm Phật. Như vậy, tiếng niệm Phật đã biến thành một thói quen, một tín ngưỡng hồn nhiên của dân tộc.