Tiếng chuông điện thoại reo vang đánh thức tôi dậy. Chưa tỉnh ngủ hẳn, nhưng theo thói quen, tôi đưa tay ra nhấc ống nói. Ngay lúc đó, tôi chưa tỉnh để biết rõ hiện tại tôi hiện nằm ở đâu. Tôi vẫn tưởng như tôi đang trở dậy trong căn phòng riêng của tôi ở Hội Quán Thám Hiểm.
Giọng nói của Hải Tùng như một thùng nước lạnh dội vào mặt tôi:
- Chào anh Huy Giang - lão nói - Không muốn đánh thức anh dậy sớm nhưng...tôi muốn mời anh ăn sáng với tôi và sau đó, đi một vòng trên lưng ngựa với tôi. Ở đây chúng ta có mấy con ngựa khá tốt, buổi sáng này đẹp quá, bỏ qua rất uổng.
- Nên lắm - tôi đáp - tôi sẽ có mặt ở nhà dưới trong 10 phút nữa. Tôi tìm ông ở đâu?
- Anh cứ gọi tên Tôn, hắn sẽ đưa anh đến tôi. Tôi chờ anh...
Nói xong lão đặt máy xuống.
Ánh mặt trời chan hòa qua khung cửa sổ chiếu vào phòng. Nhìn đồng hồ, tôi thấy kim chỉ 10 giờ. Tôi đã ngủ liền sáu tiếng đồng hồ. Rửa mặt, tắm, và thay y phục xong, tôi nhấn chuông gọi Tôn đưa tôi xuống gặp Hải Tùng.Hắn đưa tôi vào một căn phòng đầy ánh nắng, đẹp xinh, dễ thương như những phòng ăn ở những miền quê nước Pháp. Phòng nầy nhìn ra một vườn cỏ rộng và xanh. Có chừng mười người ăn bận lịch sự đang ngồi trước nhũng cái bàn nhỏ ăn uống. Trong số nầy có vài người tôi đã gặp.
Hải Tùng ngồi ở một góc. Tôi đến ngồi với lão. Chúng tôi cùng ăn một bữa sáng thật ngon, hoặc ít nhất, tôi cũng ăn thật ngon. Hải Tùng có vẻ như nguời không có chút xíu lâu lo gì ở đời, lời nói chuyện của lão có cái giọng châm biếm rất thú vị. Cứ qua những gì hai chúng tôi nói với nhau sáng nay thì cuộc gặp gỡ đêm qua ở trong phòng Kiều Xuân như không xảy ra. Hải Tùng không đá động gì đến nó, và tôi, theo ý Hải Tùng, cũng làm lơ luôn.
Từ đó, chúng tôi xuống chuồng ngựa. Hải Tùng chọn một ngựa ô, lão và con vật đã quen biết nhau vì khi lão vào tới, con ngựa hí lên như chào mừng, tôi cười một con ngựa hoa. Chúng tôi cho ngựa phi nước kiệu trên con đường đất vòng giữa rừng cây, giữa những gốc thông, gốc Tùng lớn. Ðây đó trên đường, có những người đứng gác. Những nguời gác này gìơ tay chào Hải Tùng khi chúng tôi đi ngang mặt họ.
Chúng tôi yên lặng phi ngựa bên nhau cho đến lúc đột ngột, con đường đưa chúng tôi ra khỏi rừng cây. Hải Tùng gìm cương ngựa đứng lại. Chúng tôi đang đứng ơ lưng một ngọn đồi thoải dốc và dưới kia là dòng sông nước bạc phản chiếu ánh nắng sáng lên óng ánh. Vật làm tôi chú ý ngay tới trên dòng sông là một chiếc thuyền buồm.
Thuyền thật đẹp, dài tới một trăm hai mươi thước, bề ngang tới ba mươi thước. Thuyền có buồm và có cả động cơ. Chỉ nhìn nó, tôi cũng biết là nó có vận tốc khá mạnh và đi biển dễ dàng vững chắc không kém gì những tàu chiến.
- Thuyền Tiên Nữ - Hải Tùng nói - Thuyền của Ma Vương. Ông đặt tên cho thuyền là Tiên Nữ vì nó có vẻ ngây thơ và trong trắng quá. Còn có một cái tên nữa xứng với nó hơn song không được lịch sự mấy. Nó có thể chạy nhanh được ba mươi nút một giờ.
Mắt tôi rời cái thuyền để nhìn về một cây cầu gỗ bắc từ bờ sông ra xa ngoài dòng sông. Bên cầu có nhiều chiếc thuyền nhỏ buộc vào. Gần đấy là một căn nhà nhỏ nằm dưới vòm cây.
Mắt tôi nhìn theo bờ sông. Cách chỗ thuyền đậu chừng ba trăm thước bờ sông có một ghềnh đá lớn. Những tảng đá lớn như những cái nhà theo nhau trườn ra bờ sông.
Và trên đỉnh tảng đá lớn nhất, một người đang đứng, hai tay khoanh lại trước ngực, vạt áo đen bay phất phới theo gió...
Tôi giật mình vì bóng người đứng đó là Ma Vương.
Ma Vương đứng thẳng người, mắt nhìn ra dòng sông, lưng quay lại tôi và Hải Tùng.
Tôi kêu lên:
- Kìa...
Tiếng kêu của tôi ngưng ngang vì chỉ trong một chớp mắt, Ma Vương đã biến mất.
Hải Tùng quay lại hỏi tôi:
- Chi vậy?
- Ma Vương – tôi đáp - lạ quá. Tôi vừa thấy Ma Vương đứng trên tảng đá kia. Thoáng cái, hắn biến đâu mất...
Tôi tưởng là tôi hoa mắt, nhưng Hải Tùng, không ngạc nhiên chút nào, bình thản bảo tôi:
- Ông ấy nhảy xuống cái cửa hang ở đó. Có một đường hầm ăn thông từ lâu đài ra tới đó. Cửa đường hầm ở ngay dưới chân Ma Vương.
Hải Tùng tiết lộ sự kiện đó như nói đến một chuyện rất thường.
Lão giựt cương cho ngựa trở vào rừng. Tôi đi theo. Chúng tôi cho ngựa phi chừng nửa tiếng đồng hồ nữa trong rừng cây. Trời thu, lá rừng có mầu vàng ối đẹp tuyệt vời. Ðẹp và đầy đủ, không còn đòi hỏi gì hơn. Có lúc tôi nghĩ đến chuyện nếu Ma Vương đừng chọn Kiều Xuân làm vợ, rất có thể tôi không còn nghĩ đến chuyện chống trả Y, tôi có thể trung thành phục vụ Y mãi và tôi sẽ không hối hận gì hết.
Hải Tùng đưa tôi đến một vùng bãi cỏ trống ở giữa rừng. Ở đây có một dòng suối nước trong vắt chảy qua thảm cỏ xanh. Cảnh vật yên tỉnh thần tiên. Không có một tiếng động nào của loài người làm vang động bầu không khí yên tỉnh nầy. Chỉ có tiếng suối chảy hoà với tiếng lá cây reo xào xạc, tiếng chim kêu. Tôi như nghe thấy cả tiếng mây bay trên trời, tiếng hoa nở ở bên cạnh.
Hải Tùng nhẩy xuống ngựa. Lão thả cho ngựa đi rong gậm cỏ và tự do uống nước. Lão chỉ vào một gốc cây bên suối, bảo tôi:
- Huy Giang, chúng minh ngồi đây. Tôi có chuyện cần nói với ah.
Tôi cũng thả cho con ngựa tôi cưỡi được tự do đi theo con ngựa ô của Hải Tùng và tới ngồi bên lão.
Hải Tùng nói ngay vào chuyện:
- Huy Giang. Anh làm cho cuộc sống hiện tại của tôi bị đảo lộn. Anh đem sự nghi ngờ đen tối trở lại tâm trí tôi. Tôi chỉ còn coi trọng có một vài việc ở đời, trong số đó có những bước chân vàng may rủi của Ma Vương. Anh làm tôi nghi ngờ luôn cả việc đó.
Tôi hồi hộp hỏi lão:
- Như vậy có nghĩa là ông vẫn chưa tin lời của Bé Hiêu? Chính Bé Hiêu đã nói trước mặt ông rằng hắn đã xem xét kỹ bộ máy điện ở bên ngai của Ma Vương nhưng không thấy gì khả nghi kia mà?
- Anh nên nói thật ý nghĩ của anh – lão lạnh lùng và nghiêm nghị khuyến cáo tôi – Anh không nên đòn phép với tôi. Tôi đã nói ghét nhất kẻ nao lừa dối tôi. Ngay cả Ma Vương là người tôi kính sợ và mang ơn nữa, lừa dối tôi tôi cũng không chấp nhận. Anh đưa ra giả thuyết rằng Ma Vương đã lừa bịp chúng mình lên đài may rủi ấy, bằng chứng anh đưa ra là hai bàn tay ông ta lúc nào cũng thủ kín trong hai tay áo suốt trong thời gian có người bước lên đài. Bằng chứng ấy làm tôi nghi. Nếu quả thật Ma Vương lừa bịp chúng ta thi ông ta có thể dùng nhưng cơ khí điện tử tinh vi mà một anh thợ điện chuyên bắt dây đèn tầm thường như Bé Hiêu không thể nào khám phá nổi. Phải những người như tôi và anh chú tâm may ra mới tìm thấy được. Anh nghĩ sao? Nói thật đi...
- Tôi cũng có ý nghĩ như ông – tôi nói – nhưng tôi muốn giữ im lặng để tự ông nghĩ ra hơn là tôi nói. Nếu tôi nói ra trước, ông có thể cho là tôi cố tình bới móc và ông không tin tôi...
Lão lằc đầu:
- Hoặc là anh đã nói quá nhiều. Hai là anh nói chưa đủ. Anh đã làm tôi nghi ngờ. Việc anh cần làm với tôi là làm cho tôi hết nghi ngờ...Anh phải làm cho tôi biết chắc là tôi đã bị Ma Vương bịp, hoặc là tôi biết Ma Vương vẫn không bịp tôi.
Tôi vội vã hỏi:
- Nếu tôi làm cho ông thấy rõ rằng ông đã bị Ma Vương bịp như tất cả mọi người, ông sẽ xử sự ra sao?
Lão quả quyết:
- Nếu anh làm tôi biết chắc như thế anh đã làm hại được Ma Vương nhiều hơn là anh đâm được một nhát dao hay bắn một viên đạn vào ngực ông ta. Anh sẽ không còn cô đơn trong cuộc chống lại Ma Vương nữa, tôi hứa với anh như thế...
Tôi dò dẫm lão:
- Hải Tùng... Ông nên giải thích cho tôi rõ trước đã...Tại sao việc Ma Vương có lừa bịp ông hay không lại làm cho ông xúc động đến thế? Tôi muốn biết tại sao ông lại coi việc Ma Vương lừa bịp hay không, quan trọng đến thế? Ông nhận rằng Ma Vương đãi ông rất hậu, Ma Vương đã cứu sống ông và hiện giờ Ma Vương là tấm mộc che chở ông với luật pháp. Nhờ Ma Vương, ông có tất cả những gì ông cần có. Vậy thì...việc Ma Vương lừa bịp hay không theo tôi nghĩ có can hệ gì lắm đâu?
Lão vùng quay lại và vung tay ra nắm lấy haiu vai tôi...
Tôi có cảm giác đau trên người như hai vai tôi bị kẹp bởi một gọng kềm sắt:
- Bởi vì.. – đôi mắt Hải Tùng rực sáng..- tôi là người bị thua Ma Vương...Tôi đã đi trên đài may rủi và dẫm cả ba bước chân vàng của Ma Vương. Tôi bị án tử hình nhưng chưa thi hành án. Tôi có thể chết bất cứ lúc nào trong tám năm....
Tôi ngạc nhiên:
- Ông...mà bị vậy ư?
Lão gằn giọng:
- Tám năm. Tôi phải mang cái án tử hình trên đầu trong tám năm. Ma Vương có quyền hành hạ tôi, làm tôi khổ nhục trăm bề trong tám năm. Hành hạ thể xác không khổ bằng bị hành hạ tinh thần. Nhiều lúc hắn làm tôi kinh sợ thất thần khi hắn úp mở cho tôi biết hắn sắp thi hành án xử tử, nhiều lúc khác hắn làm tôi hy vọng bằng lời hứa sẽ cho tôi đi lại lên đài may rủi một lần nữa. Chỉ cần một lời nói nửa đùa, nửa thật của hắn cũng đủ làm tôi bàng hoàng, bấn loạn. Huy Giang, tôi không phải là thằng hèn nhát. Nhưng trước cái chết, không ai là không sợ hãi. Ngưòi ta có thể đối diện với cái chết một lần, hai lần mà vẫn giữ được khí phách, nhưng không ai có thể chạm mặt với cái chết cả trăm lần mà không kinh sợ. Người nào sống cũng yêu mến đời sống, cũng sợ hãi cái chết và muốn xa lánh cái chết. Can đảm của tôi bị mòn dần đi...Nếu Ma Vương không lừa bịp tôi,nếu hắn không thắng tôi nhờ bịp bợm, hắn có quyền bắt tôi phải sợ hãi, hắn có quyền bắt tôi phải chết. Nhưng nếu hắn đã thắng tôi nhờ lừa bịp, nếu trong bao nhiêu năm trời nay hắn đã làm tôi sợ hãi như đùa gìỡn với một đứa trẻ con khờ dại, trong những cơn kinh sợ mất hồn của tôi, hắn vẫn cười thầm tôi là một thằng già đầu mà ngu đần...thì không thể nào được. Tôi không chấp nhận hắn rỡn chơi với sự sống chết của tôi như thế...Hắn không có quyền...Anh hiểu chưa?
Tôi đã tận mắt trông thấy không biết bao nhiêu là người, đàn ông có, đàn bà có, thông minh có, ngu đần có..bước đi trên những bước chân vàng...Chính mắt tôi đã nhìn thấy họ chết vì họ thua may mắn,vì họ không may mắn bằng Ma Vương. Có những người chết bình thản,, có những người chết khóc lóc, van xin. Nhưng tất cả đều chết với lòng tin rằng mình kém may mắn,mình đã dự một cuộc thử thời vận công bằng. Nhưng nếu tất cả những kẻ đó đã sợ hãi, đã chết vì bị bịp, vì kẻ thi may rủi với họ nhờ một biện pháp nào đó nắm chắc cái thắng trong tay...thì không thể được. Tôi không chịu như thế.
Hải Tùng đứng bật dậy. Như nghẹn thở, lão mở nút áo ngực và hít thở nhiều hơi dài.
Tôi chờ cho lão nguôi xúc động mới nói:
- Ông phải giúp cho tôi tìm coi sự thật. Một mình tôi không đủ sức khám phá được chuyện ấy..
Lão lắc đầu:
- Anh đã có tên Hiêu giúp anh.
- Bé Hiêu cũng giúp tôi được nhiều nhưng chưa đủ. Nếu có ông, ba chúng ta có thể khám phá được sự thật mau hơn.
Lão vẫn khăng khăng:
- Không, không có lý do gì tôi phải giúp anh. Anh là người gây ra sự nghi ngờ này, bổn phận anh phải nêu ra bằng cớ làm cho tôi tin. Bằng cách nào là việc riêng của anh. Thật ra thì giả thuyết của anh đưa ra chưa có được một bằng chứng nhỏ nào hết. Anh chỉ dựa trên vài chi tiết quá nhỏ nhặt. Anh có nhiều phần có thể sai hơn là có thể đúng. Tại sao tôi phải liều mạng để giúp anh tìm ra một việc mà chỉ mình anh nói là có. Tôi biết là anh âm mưu chống lại Ma Vương mà không tố cáo anh như thế này cũng đã là quá đáng rồi. Tôi không thể đi xa hơn nữa. Anh có thể cùng Bé Hiêu đi tìm bằng chứng, tôi hứa sẽ không làm gì để cản trở anh.. Nếu anh sai, tôi vẫn đối xử với anh như thê này, còn nếu anh đúng tôi sẽ đổi khác. Khi nào anh tìm ra được bằng chứng đích xác là Ma Vương bịp tôi,cho tôi thấy...tôi hứa với anh là anh sẽ không cô đơn nữa...
Lão kết luận:
- Trong khi chờ đợi, Hải Tùng không thể giúp gì anh hơn. Vì Hải Tùng vẫn còn muốn được sống. Dù là sống với cái chết như một lưỡi dao nặng ngàn cân được treo bằng sợi chỉ ở ngay trên đầu...
Lão đi tới chỗ con ngựa ô đang gặm cỏ và nhẩy lên lưng ngựa. Lập trường của lão đã quyết, tôi thấy tôi không nên nói gì hơn nữa. Nói nữa tức là năn nỉ, và người như Hải Tùng không thích bị ai lừa bịp cũng như không trọng ai năn nỉ lão. Tôi cũng lẳng lặng lên ngựa theo lão trở về. Tuy không được lão giúp nhưng không bị lão tố cáo, đó là một điều đáng mừng lắm rồi. Không tố cáo, không cản trở việc tôi và Bé Hiêu làm tức là lão đã chịu giúp chúng tôi rồi còn gì.
Từ đó vế tới lâu đài, Hải Tùng và tôi không nói gì với nhau nữa. Tôi chia tay lão ở chuồng ngựa và lên lầu, về phòng tôi thay y phục. Một tấm thiếp của Ma Vương chờ tôi trên mặt bàn trong phòng tôi. Rất lịch sự, Ma Vương hỏi thăm sức khoẻ của tôi. Y hy vọng tôi được vui vẻ trong mấy ngày nay và hẹn để gặp tôi vào lúc 9 giờ tối.
Buổi chiều trôi qua không có chuyện gì đáng kể. Tôi suy nghĩ nhiều về những lời tâm sự của Hải Tùng. Càng ôn lại những lời lão nói, tôi lại càng thấy có cảm tình với lão. Tôi lại nhận thấy thái độ của lão là đúng. Và có một điều lạ là càng suy nghĩ, tôi càng thêm tin tưởng ở sự thành công của tôi. Tinh thần tôi lên cao, tôi hăng hái và tự tin hơn những ngày đầu mới bị Ma Vương thâu vào vòng kiềm toả rất nhiều.
Bữa ăn tối đó vẫn vắng mặt Ma Vương. Hải Tùng trở thành vị chủ toạ nhưng lão không dám ngồi vào chiếc ghế ở đầu bàn vẫn dành riêng cho Ma Vương. Phát ngồi cạnh tôi. Tôi trông thấy Kiều Xuân ngồi mãi tận đầu bàn đằng kia. Nàng cố tình không biết là bàn ăn có tôi nhưng tôi vẫn cảm thấy rõ từng hơi thở của nàng, tất cả đều cho tôi, vì tôi và của tôi. Nàng có thể không nhìn tôi nhưng tôi khó có thể làm như nàng.
Phát uống rượu nhiều. Hắn có vẻ chịu trách nhiệm về tôi. Hắn không thèm chú ý đến ai khác nhưng rất chú ý đến tôi. Hắn nói nhiều chuyện lạ nhưng càng nghe chuyện hắn, tôi càng thấy khinh, tởm hắn. Hắn luôn luôn tự nhận là một nhà khoa học để tuyên bố nhiều điều khinh mạn về đời sống con người. Theo hắn, sự sống không có qua một chút thiêng liêng, cao đẹp gì hết. Sự sống, theo giả thuyết của hắn,cũng chẳng có gì thần bí và đáng quí bởi vì các nhà khoa học trong tương lai có thể phá sinh ra sự sống, tức là chế tạo được ra sinh vật, con người. Hắn sốt sắng và hăng hái đưa ra nhiều bằng chứng chứng minh giả thuyết của hắn và quả quyết tương lai của nhân loại sẽ đúng như lời hắn nói.
Nghe Phát ba hoa, tôi nghĩ rằng giữa hắn và Ma Vương, kẻ có nhiều tính chất người hơn không phải là hắn mà lại là Ma Vương. Phát vừa nói vừa uống rượu, nhưng càng say, hắn lại càng tỏ ra khinh mạn và càng sắc sảo hơn trong những giả thuyết khoa học của hắn.
- Huy Giang - hắn bảo tôi – anh có quá nhiều cái mà ta gọi là tình cảm trong tinh thần của anh. Anh cho rằng đời sống là một cái gì cao đẹp, quí báu và không ai có quyền làm mất đời sống của kẻ khác...Bậy... đời sống là cái quái gì...Anh có thể làm mất đời sống dễ dàng như anh thò tay tắt một ngọn đèn điện. Tôi có thể diệt trừ tình cảm trong thần kinh của anh nếu anh cho phép tôi và anh sẽ trở thành một vĩ nhân...Anh bằng lòng cho tôi thí nghiệm không?
Tôi trả lời hắn là tôi sẽ suy nghĩ về lời đề nghị của hắn.
Ðúng 9 giờ, Ma Vương hiện ra. Tôi hết thắc mắc về nơi tôi sẽ gặp Ma Vương đêm nay. Y tới ngồi vào ghế chủ toạ và ra hiệu cho tôi ngồi ghế bên trái Y.
Ma Vương giơ ly rượu lên:
- Uống mừng Huy Giang, người cộng tác mới nhất của tôi..Một người cộng tác mà tôi rất hài lòng...
Tất cả đều đứng lên uống mừng tôi. Tôi thấy và nhiều người khác cũng thấy Kiều Xuân cũng giơ ly rượu của nàngl lên theo đúng phép lịch sự nhưng nàng lại đặt ly xuống bàn, không uống.
Và Ma Vương cũng giơ ly rượu lên nhưng không uống.
9 giờ 5 phút, như tuân một mệnh lệnh bí mật nào đó, mọi người từ từ theo nhau ra khỏi phòng. Vài phút sau chỉ còn có Ma Vương, tôi và Phát ngồi lại. Tôi hơi ngạc nhiên và thắc mắc khi thấy Hải Tùng thì rút lui mà Phát lại ngồi lại.
Khi bọn hầu bàn đã dọn xong bàn ăn và đi ra hết, Ma Vương đột ngột:
- Có một chiếc tàu biển chở khách sắp sửa rời bến. Ba ngày nữa tầu sẽ nhổ neo. Ðó là chiếc Phượng Hoàng. Tầu nầy có mang theo vài món cổ vật, tuy không phải tuyệt phẩm song cũng đáng được sự chú ý của tôi. Trong số đó có một pho tượng Phật lớn và 12 pho tượng Phật nhỏ bằng đủ các thứ ngọc có trên trái đất này. Tương truyền đó là bộ tượng Phật của Nữ Hoàng Sa Ba ngày xưa. Ít nhất bộ tượng Phật đó cũng có giá trị như một cổ vật. Bọn Ðức Quốc Xã cướp được bộ tượng Phật đó ở vùng Ðông Âu. Sau đó đến bọn Hồng quân Nga sô khi tiến vào đất Ðức, chiếm lại được trong những kho tàng bảo vật của Hít Le. Chúng giữ bộ tượng nầy trong điện Cẩm Linh và đã đem về dâng cho chúa tể của chúng thời đó là Sít Ta Lin. Khi Sít Ta Lin chết, những bảo vật đó được kể là công sản và mới đây bọn thủ lảnh Nga Cộng vừa mới bán đi. Laị còn một chuổi hạt ngọc cổ Trung Hoa. Trên mỗi hạt ngọc đều có khắc trọn một bài thơ tứ tuyệt của Lý Bạch. Chưa từng có một chuổi ngọc nào thứ hai như thế.
Ma Vương ngừng laị nhìn tôi, rồi nhìn Phát:
- Tôi muốn có hai bảo vật đó và tôi sẽ có chúng. Anh và Phát sẽ đi lấy chúng về đây cho tôi.
Tôi gật đầu. Tuy không hỏi nhưng tôi chờ đợi Ma Vương giải thích về cách thức, kế hoạch đi lấy bảo vật. Tôi nhận thấy Phát không uống thêm chút rượu nào nữa kể từ phút có mặt Ma Vương. Hắn nhìn xuống ly rượu, mấy ngón tay hắn vờn vờn trên ly rượu ấy, môi hắn nở một nụ cười như ngạo mạn, như mỉa mai. Tôi có cảm giác như hắn đang rình xét tôi, hắn như chờ đợi ở tôi một cái gì đó. Dù Ma Vương sắp nói những gì với tôi đi nữa, tôi nghĩ rằng Phát đã được nghe trước tôi.
Ma Vương nói tiếp:
- Huy Giang...Tôi chọn anh làm người chỉ huy vụ này không phải chỉ vì việc làm cần người tài ba, kinh nghiệm và gan dạ mà thôi. Tôi chọn anh phần lớn là vì anh chịu tuân theo kỷ luật một cách tuyệt đối. Ðêm nay tôi chỉ nói qua cho anh biết về hoàn cảnh đặc biệt của tầu Phượng Hoàng cùng những điều kiện để anh hành sự, những khó khăn mà anh phải khắc phục, để anh suy nghĩ thêm. Anh sẽ nhận được chỉ thị đầy đủ khi anh lên đường.
Lên đường! Như vậy có nghĩa là tôi sắp phải xa Kiều Xuân? Ý nghĩ đó làm tôi bối rối – tôi không muốn phải xa nàng, dù chỉ là xa trong thời gian ngắn – nhưng làm sao từ chối được? Sự bối rối, lo âu của tôi hiện ra trên mặt tôi, tôi chắc như vậy, vì như cảm thấy thế, Ma Vương nói ngay:
- Anh sẽ phải đi vắng trong ít ngày. Và anh sẽ dùng thuyền. Kế hoạch của tôi dự định anh sẽ không lên tầu Phượng Hoàng khi tầu đậu bến. Anh sẽ đi trên một chiếc thuyền riêng và lên tầu Phượng Hoàng khi nó đang lênh đênh trên biển khơi. Việc lên tầu như thế gần giống như hành động của giới hải tặc thời xưa. Thơ mộng và hào hùng lắm chứ?
Ðôi mắt Y nhìn tôi như mỉa mai, như riễu cợt:
- Anh là người thích hành động phiêu lưu mạo hiểm. Tôi tin rằng anh sẽ rất thích thú vụ nầy. Tôi cũng phiêu lưu mạo hiểm như anh, tôi ao ước được là anh để đi làm vụ nầy.
Tôi mỉm cười:
- Tôi cám ơn ông đã chọn tôi.
Tuy miệng nói vậy, nhưng lòng bàn tay tôi ướt đẫm mồ hôi, triệu chứng đó cho tôi biết rằng tôi đang bị hoang mang mạnh.
- Tầu Phượng Hoàng khởi hành vượt biển vào mùa này sẽ không sợ gặp bão lớn giữa biển. Cùng ngày tầu Phượng Hoàng nhổ neo, anh và Phát cũng lên đường trên chiếc du thuyền Tiên Nữ của tôi, chiếc du thuyền mà sáng nay tôi thấy anh đã nhìn ngắm một cách thích thú. Ngoài số thủy thủ của du thuyền toàn là những người trung thành với tôi, còn có một số người mà tôi gọi là hắc nô. Bọn hắc nô của tôi không phải chỉ toàn là người da đen. Sở dĩ tôi gọi chúng là hắc nô vi linh hồn chúng đen y như cuộc đời của chúng vậy. Bọn hắc nô sẽ được dùng đến khi cần thiết và khẩn cấp. Chúng hoàn toàn đặt dưới quyền xử dụng của anh nhưng tôi hy vọng anh sẽ không phải dùng đến chúng. Du thuyền Tiên Nữ... cái tên đẹp đấy chứ? Anh có thấy tôi chọn cho thuyền cái tên dịu dàng ấy đúng không? Du thuyền Tiên Nữ sẽ làm một chuyến du lịch, nhưng ra khơi, nó sẽ được chuyển biến thành một chiếc thuyền khác. Nó sẽ trở thành chiếc Hải Mã giống hệt như chiếc Hải Mã của một nhà tỷ phú hiện đang buông neo ở một hải cảng Nam Mỹ. Những dòng chữ Hải Mã sẽ tạm được sơn trên du thuyền Tiên Nữ trong thời gian nó đi làm công tác này.
Anh sẽ chận đường tầu Phượng Hoàng ở giữa biển. Tầu Phượng Hoàng chạy với vận tốc 15 nút một giờ trong khi Tiên Nữ chạy với vận tốc 30 nút. Anh thừa sức cho Tiên Nữ chạy vòng quanh tầu Phượng Hoàng mà người trên tầu không thể biết, cho đến giờ hành sự. Làm xong việc cần làm trên tầu Phượng Hoàng, anh và chiếc Tiên Nữ có thể yên ổn trở về đây hai ngày trước khi tầu đó về tới bến.
Người tôi nhẹ đi sau câu nói đó của Ma Vương. Như vậy có nghĩa là không đi vắng lâu. Hai nữa, một điều vô cùng quan trọng đối với tôi: Ma Vương không có ý định tàn sát những thủy thủ trên tầu Phượng Hoàng, vì y vừa nói rằng hai ngày sau khi tôi trở về đây, tầu Phượng Hoàng cũng về tới bến. Nếu kế hoạch của y bắt buộc tôi phải giết nhiều người trên tầu,tôi sẽ lâm vào một tình trạng bối rối.
Phát thốt ra một tiếng cười nghe như tiếng chó sủa. Hắn có vẻ ngạo mạn ra mặt và đôi mắt sắc lạnh của Ma Vương nhìn lâu vào mặt hắn. Biết là mình lỡ miệng, Phát vội vàng nghiêm mặt lại.
Tôi đặt câu hỏi:
- Thưa ông..Chắc ông đã có cách chận đứng được tầu Phượng Hoàng ở giữa biển?
- Lẽ tất nhiên - Ma Vương đáp – Tôi sắp nói với anh về việc đó. Trong chuyến vượt biển mùa này, chiếc tàu đó sẽ không chở quá 100 hành khách. Vài người trong số đó sẽ là người của ta. Và tôi sẽ làm cho một số hành khách chuyến này ít hơn thường lệ. Một số phòng trên tầu sẽ được dành cho hội viên một hội du lịch thật sự, và đến ngày tầu nhổ neo, vì những lý do chánh đáng nào đó, hội du lịch đó sẽ hủy bỏ lệnh mướn phòng. Nhưng dù không có người đi, hội du lịch đó vẫn trả tiền tầu như thường. Vì vậy tôi tin rằng chuyến này tầu sẽ có nhiều lắm là 30 hành khách, trong số đó có 10 người là của ta.
Bây giờ chúng ta nói đến đêm anh lên tầu Phượng Hoàng. Suốt buổi hôm đó anh ở trên du thuyền Tiên Nữ, chạy quanh chiếc Phượng Hoàng với một khoảng cách xa 15 cây số. Ðêm đó trời sẽ tối đen vì không có trăng sao. Tới 9 giờ tối trên tầu có một cuộc hoà nhạc ở phòng khách.. Số hành khàch ít ỏi của tàu sẽ tụ hết ở đó. Hai phần ba số sĩ quan của tầu cũng có mặt ở đó. Trên chiếc tầu Tiên Nữ, anh tắt hết đèn và đến gần tầu Phượng Hoàng chỉ còn cách 5 cây số.
Trên tầu Phượng Hoàng sẽ có người làm một dấu hiệu và anh sẽ cho trả lời. Cùng lúc đánh hiệu, hai người của ta sẽ ném vài trái bom vào phòng máy của tầu Phượng Hoàng. Những trái bom nầy chứa một chất hơi lạ, phát minh của anh Phát đây. Ngay sau khi bom vừa nỗ, chất hơi lạ tỏa ra, tất cả những ai ở trong phòng máy tầu đều không còn biết gì đến công việc họ đang làm cũng như trách nhiệm của họ. Một người thứ ba của ta sẽ lẻn vao phòng máy và cho tàu dừng lại.
Ma Vương ngừng nói, đôi mắt sắc và lạnh của y nhìn vào mặt tôi. Rõ ràng y dò xét phản ứng của tôi. Cả Phát cũng nhìn tôi. Nhưng may mắn sao tôi vì biết trước nên cố tình giữ được không cho những nét ghê tởm hiện rõ trên mặt tôi. Qua lời nói cũa Ma Vương, tôi hiểu rằng như vậy là tất cả bọn thủy thủ trong phòng máy tầu Phượng Hoàng sẽ bị giết chết vì chất hơi độc hại dã man ấy. Tôi cố giữ cho giọng nói của tôi không rung động để hỏi:
- Nhưng vậy là ta đã thanh toán xong bọn thủy thủ trong phòng máy. Sau đó, tôi sẽ phải làm những gì nữa?
Trong một lúc lâu, Ma Vương chăm chú nhìn tôi. Y không trả lời ngay câu hỏi của tôi và tôi cố gắng gạt ra ngoài tâm trí hình ảnh bọn thủy thủ không may quằn quại trên sàn tàu vì nghẹt thở.
Tôi chịu đựng cái nhìn soi mói ấy của Y. Tôi nhíu đôi lông mày lại như khó chịu vì không hiểu tại sao tôi lại bị Y nhìn như thế. Tôi không biết Y đã tìm thấy gì qua nét mặt tôi. Y nghĩ gì về tôi sau khi Y nhìn tôi kỹ như thế, đột nhiên, tôi cảm thấy sự chú ý của Y nhẹ bớt đi và Y nói, giọng ngọt ngào:
- Ồ Huy Giang..anh nghĩ lầm rồi đó. Chúng ta không cần giết bọn thủy thủ. Những trái bom hơi tôi vừa nói tới đó không phải là bom hơi độc, chúng chỉ tiết ra một chất hơi làm cho người nào hít phải nó lăn ra ngủ say và chỉ tỉnh lại khi nào chất hơi đã tan hết trong không khí. Công hiệu của nó cấp thời, vừa hít phải là người ta lăn ra ngủ ngay. Chỉ năm giây sau khi bom nổ là bọn thủy thủ trong phòng máy tầu Phượng Hoàng đã ngủ say như chết. Sáu tiếng đồng hồ sau, chúng sẽ tỉnh lại nhẹ nhàng, khoan khoái vì được ngủ một giấc quá ngon nữa là khác.
Y cười nhẹ:
- Chúng tôi không đến nổi khát máu quá đâu, anh yên chí..
Một cái gì đó bảo tôi nên dấu sự nhẹ nhõm, dễ chịu của tôi đi như tôi đã dấu sự khó chịu, lo âu vừa rối.
Và tôi lãnh đạm nói:
- Chúng ta hãy còn đối phó với bọn sĩ quan và thủy thủ ở những nơi khác trên tầu? Sẽ có những chuyện gì xẩy đến với họ? Thưa ông..Cứ theo những lời ông vừa nói thì cho tới lúc nầy, trong vụ này tôi chỉ là kẻ bàng quang, đứng ngoài nhìn vào, một tên tống thư văn đi đến một nơi nào đó để được người ta trao cho một món đồ cầm về cho chủ. Vai trò thống khoái của tôi ở chỗ nào? Tôi chưa thấy...?
Ma Vương trả lời tôi:
- Bắt đầu từ giây phút nầy, việc thực hiện vụ này ở trong tay anh. Lúc đo anh đã tới gần tầu Phượng Hoàng và lên tầu cùng anh Phát đây và một số người đủ để làm chủ tình hình trên tầu. Tôi có thể biết trước được tình hình lúc đó sẽ có những trở ngại gì xẩy ra nhưng tôi để anh trọn quyền dùng sự tháo vát và trí thông minh của anh để đối phó. Sẽ có sự rối loạn trên tầu Phượng Hoàng nhưng anh phải chú ý ngăn không cho một kẻ nào dùng thuyền cấp cứu thoát được khỏi tầu. Trước khi anh lên tầu, viên thuyền trưởng cùng một hay hai thủy thủ có thể bị một tai nạn nhẹ. Không có gì quan trọng đâu. Họ chỉ không hoạt động được một lúc rồi lại bình phục. Anh sẽ phải chế ngự họ, tránh đổ máu càng tốt. Nhưng dù có đổ máu hay không, anh cũng bắt buộc phải chế ngự họ. Nếu cần đổ máu, máu vẫn phải đổ. Những điều kiện về khí hậu có thể làm vụ này thêm rắc rối. Tôi chắc việc của anh sẽ không dễ làm lắm đâu...
Ma Vương nói vậy và tôi cũng nghĩ như thế. Tôi nghĩ rằng Ma Vương dường như dấu tôi điều gì đó trong vụ này.
Ma Vương lại tiếp:
- Trong những lời dặn cuối cùng trước phút anh lên đường, anh sẽ được cho biết đích xác những bảo vật anh có bổn phận đem về cho tôi nằm ở nơi nào trên tầu. Hiện lúc nầy, anh chỉ cần biết rằng những bao vật đó nằm trong một căn phòng sắt dưới tầu. Những bảo vật chứa ở trong két sắt quí báu đến nổi chỉ có một mình Thuyền trưởng là biết rõ những con số để mở két. Nhưng anh sẽ không phải mất thì giờ thuyết phục hắn nó cho anh biết số chữ để mở khoá két. Sẽ có một chuyên viên mở khoá két tài ba nhất thế giới cùng lên tầu Phượng Hoàng với anh. Với chuyên viên tài ba nầy,việc mở cái két đó dễ như trò chơi của trẻ nít. Sau khi anh lấy được những bảo vật cho tôi rồi, anh chỉ việc ung dung trở xuống du thuyền, mở máy thẳng đường về đây, đem theo một số anh em ta đã có mặt trên tầu từ trước.
Ma Vương kết luận:
- Công việc của anh chỉ có thế.
Tôi suy nghĩ trong vài giây đồng hồ. Lời nói cuối cùng của Ma Vương cho tôi biết rằng sau khi làm vụ này, vài tay sai của Y sẽ bị những nạn nhân nhớ mặt và có thể bị nhận diện sau này. Tôi nghĩ đến trường hợp của tôi. Tôi đặt câu hỏi:
- Thưa ông... Ông có nghĩ đến chuyện có thể có vài kẻ nào đó trên tầu Phượng Hoàng nhìn ra chúng tôi sau này?
Y trả lời tôi dễ dàng:
- Lẽ tất nhiên là tất cả các ngươi đều mang mặt nạ.
Phát sửa lại kiểu ngồi. Hắn có vẻ bối rối nhưng tôi vẫn chưa tìm biết được nguyên do.
Tôi lại hỏi:
- Thưa ông...còn vấn đề máy vô tuyến trên tầu? Trước khi rút lui, tôi cần phải phá hủy máy vô tuyến của họ chứ