Gặp bạn ở Paris
Sau cùng tôi cũng đã trở lại Paris, trở lại thành phố của những ngôi nhà chật, những đường phố hẹp, những viện bảo tàng lịch sử, những người quen cũ và cả những người mới nghe tiếng nhưng tưởng chừng như đã quen lắm từ lâu. Paris của Nguyên Sa, Võ Đình, của Trần Thiện Đạo, Trần Hồng Châu, của Cung Trầm Tưởng, Đặng Tiến, của Lê Bá Đảng, Nguyễn Cầm, Kiệt Tấn,... trước kia và bây giờ là của Diễm Châu, Thanh Tuệ, Hồ Trường An, Miêng, của Trần Vũ, Trần Công Sung, Đỗ Kh., Thụy Khuê, Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Phan Thị Trọng Tuyến, Mai Ninh, Đặng Mai Lan, Trần Thị Diệu Tâm, của Cổ Ngư, Mạch Nha, của Linda Le và Kim Lefèvre, của các nhà báo Trần Văn Ngô, Trần Trí Vũ, Ánh Nguyệt, Trần Trung Quân, ... Cho dù Diễm Châu có ở Strasbourg, Hồ Trường An có ở Troyes, Đặng Mai Lan có ở Reims, Mai Ninh có ở Normandie,... thì Paris vẫn là của những người cầm bút này. Y Chi và cả Nguyễn Hưng Quốc nữa, bây giờ đã ở Úc, nhưng trước đây cũng là người của Paris. Thành phố văn học của cả thế giới đang dành cho Việt Nam những khuôn mặt chữ nghĩa.
Tôi đến Paris đúng vào ngày mà hàng quán nào cũng treo bảng Le Nouveau Beaujolais Est Arrivé! Rượu Beaujolais đầu mùa thật ngon. Không phải là một tay sành rượu, nhưng tôi đã uống và đã thấy như vậy. Mới giữa tháng Mười Một, mà Paris đã lạnh như mùa đông. Trời hơi có chút mưa. Nhà tôi ở avenue de la République, Quận XI, gần Nghĩa trang Père Lachaise, nơi có những ngôi mộ của những nhân vật tên tuổi mà lần đầu đến Paris tôi chưa kịp thăm.
Buổi sáng đầu tiên trở lại thành phố này, tôi chưa biết mình phải làm gì trước khi thăm Huỳnh Phan Anh, người bạn đã cùng tôi sống những năm tháng của một Sài Gòn sôi nổi. Không ngờ vậy mà chúng tôi đã xa nhau gần mười lăm năm. Trước khi gặp lại bạn, tôi đã nghe Ánh Nguyệt và Đặng Tiến và Thanh Tuệ mô tả bạn tôi. Vẫn gầy ốm, đã có chút hư hao và ... Tôi muốn đến ở với bạn một ngày, nghe bạn nói về Sài Gòn, về những người bạn còn lại của chúng tôi. Trong đám bạn sáu tên vẫn thường ngồi với nhau những buổi sáng ở quán Cái Chùa thời đó, bây giờ chỉ còn Huỳnh Phan Anh và Nguyễn Nhật Duật. Bốn tên kia, Nguyễn Quốc Trụ, Đặng Phùng Quân , Nguyễn Đình Toàn, và tôi, đã rời khỏi nước. Đó là những năm 60, những năm Sài Gòn cheo leo giữa chiến tranh ngày càng ác liệt và hòa bình rất đỗi mong manh; những năm mà đời sống chúng tôi chui rúc vào những quán cà phê trên đường Tự Do, như những con đà điểu vùi đầu trong cát; những năm SàiGòn gắn liền với không khí chính trị sôi sục của những cuộc xuống đường và lưụ đạn cay; những năm mà mỗi biến động của văn chương Pháp vẫn còn làm những trang sách Sài Gòn dính đầy dấu mực Paris.
Huỳnh Phan Anh trong nhóm chúng tôi là một người rất "mặn" với tiểu thuyết mới của Alain Robbe-Grillet, Michel Butor, Nathalie Sarraute,... Với cuốn tiểu luận Văn Chương Và Kinh Nghiệm Hư Vô, Huỳnh Phan Anh đã mở ra một cánh cửa khác của cách nhìn văn chương Việt Nam sau thời Sáng Tạo. Những bài viết của anh trên tạp chí Văn cho thấy Huỳnh Phan Anh là một tài năng đa dạng: anh viết tiểu luận, anh dịch và anh sáng tác. Huỳnh Phan Anh là người có khuôn mặt của một thiền sư, nhưng mang nỗi đam mê của một Dostoievsky. Anh dựng nhà xuất bản Đêm Trắng và một trong những cuốn sách do nhà xuất bản này ấn hành là cuốn Khu Hừng Rực Lửa của tôi. Cuốn "tiểu thuyết vừa" này đã được chạy từng kỳ trên tạp chí Văn, lúc đó do Trần Phong Giao làm tổng thư ký, không phải là một cuốn sách bán chạy. Nói chung, những sách của nhóm Đêm Trắng với Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Quốc Trụ, Đặng Phùng Quân, Nguyễn Nhật Duật và tôi ra đời không được người đọc đón nhận như sách của Duyên Anh, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng hay Nguyễn Thị Thụy Vũ. Điều đó cũng dễ hiểu thôi.
Huỳnh Phan Anh mới đây đã chọn và dịch một hợp tuyển thơ của thi sĩ Pháp, Yves Bonnefoy, [từ những tác phẩm Po èm es, 1986; Ce Qui Fut Sans Lumière, 1987 và La Vie Errante, 1993, tất cả đều do Mercure de France ấn hành] và chính Bonnefoy đã viết lời tựa cho hợp tuyển đặc biệt này. Chuyến đi của Huỳnh Phan Anh là do Yves Bonnefoy bỏ tiền túi mời.
Nhưng sáu ngày ngắn ngủi của tôi ở Paris, ba ngày ở Bruxelles, tôi chỉ gặp bạn tôi ba lần. Hai lần đến và đi ở phi trường Charles de Gaulle, một lần duy nhất tại nhà Thanh Tuệ. Bạn tôi vẫn như xưa. Vẫn những đốm lửa không ngừng cháy sáng trên môi. Có gầy hơn, nhưng hơn hai tháng qua sống tại Paris, bạn tôi đã hồng hào. Anh vẫn còn giữ nguyên đôi mắt của một người đam mê. Chúng tôi không nói chuyện gì nhiều. Tất cả chỉ quây quanh đời sống. Cuộc sống của những người ở tuổi chúng tôi ngoảnh mặt nhìn lại những tháng ngày đã qua giật mình thấy sao quá nhiều biến cố dồn dập đổ xuống đời mình, bóng tối nhiều hơn ánh sáng, thiên đường ít hơn địa ngục và hãi hùng khi thấy tuổi trẻ đã không còn ở với chúng tôi nữa.
Tôi bước xuống phố. Con đường còn đọng nước mưa. Phòng điện thoại công cộng đã có ba người chiếm. Le Soleil Levant, quán cà phê góc phố. Kiosque bán sách báo đầu trạm métro. Tôi mua một tạp chí. Tờ Le Nouvel Observateur, với bìa la ảnh Marguerite Duras và Yann Andréa, người tình trẻ của bà. Duras mon amour, Le dernier homme de sa vie témoigne. Câu chuyện bắt đầu năm 1975, ở Caen, một sinh viên rất trẻ gặp nhà văn Marguerite Duras, - tác giả tiểu thuyết Người Tình - thần tượng của anh. Năm năm sau, mùa hè năm 1980, Yann Andréa gõ cửa ngôi nhà của Marguerite Duras ở Trouville. Và kể từ đó họ không rời nhau nửa bước cho đến ngày Duras qua đời vào năm 1996. Duras Mon Amour là trích đoạn trong cuốn sách của Yann Andréa. Tôi không xuống métro. Tôi đi ngược lên. Nghĩa trang Père-Lachaise. Những ngôi mộ, những nhà mồ, những bức tượng... như Oscar Wilde [tràn ngập những dấu son môi trên đá], như mộ Apollinaire rất đẹp, như Marcel Proust, Balzac, Merleau-Ponty, Gertrude Stein, Paul Eluard, Edith Piaf, Modigliani, Chopin,.... và cả mộ bia rất thấp của đôi uyên ương Yves Montand & Simone Signoret. Tôi có cảm tưởng mình đang đi giữa một thứ bảo tàng viện sống, giữa những nhà mồ và những ngôi mộ của những người vô danh [một vài ngôi mộ người Hoa và cả ngôi mộ của một người Việt Nam] nằm lẫn với những nhân vật lừng lẫy của văn học nghệ thuật nước Pháp. Những ngôi mộ với những bức tượng quá đẹp làm thành một quần thể những tác phẩm mỹ thuật...trong một nghĩa trang thầm lặng. Hai hôm sau, tôi đã trở lại nghĩa trang lần nữa với nhà văn trẻ Cổ Ngư để chụp ảnh mộ những nhân vật mà tôi từng nghe tiếng.
Ra khỏi cổng nghĩa trang trên đường Boulevard de Ménilmontant, tôi đi ngược lại trạm métro Saint Maur. Công nhân bãi việc. Một vài trạm rác rưới ngập lối đi. Những tấm bích chương quảng cáo du lịch Ai Cập và Maroc. Một ban hát xẩm chơi nhạc ở cổng xuống sân ga. Phần lớn khách đi rất nhanh, gần như chạy. Nhiều thiếu nữ ở Paris mặc áo choàng đen dầy phủ trùm tận gót chân, đứng chờ xe ở trạm . Xe vừa dừng bánh đã đẩy cửa bước nhanh vào toa và giở một cuốn sách ra đọc, không buồn nhìn ai.
Mùa đông đến sớm với Paris nhưng những chiếc áo choàng dày màu đen của những cô gái Pháp đã làm ấm một thời tiết giá băng.
Theo xe nhà báo Trần Văn Ngô, và nhà văn Trần Thị Diệu Tâm, xuống Sceaux, tôi được dự buổi ra mắt cuốn sách đầu tay của Miêng tại tư gia anh chị Quỳnh Dao-Huỳnh Hùng. Ngôi nhà đẹp, khu yên tĩnh, khách đứng chật phòng. Ấm cúng , thân mật. Đặng Tiến đang làm phóng sự văn học nghệ thuật cho BBC. Anh là người cộng tác khá lâu với Văn thời trước 1975. Những bài viết về văn học nghệ thuật của anh rất có giá trị. Tôi cũng gặp lại chị Thụy Khuê của đài RFI, Mai Ninh thường có bài trên Hợp Lưu, Trần Công Sung trên Thế Kỷ 21 và nhiều khuôn mặt quen thuộc khác.
Tại quán ăn An Hiên của anh chị Phạm Kế Viêm-Trần Thị Diệu Tâm, tôi được gặp lại "bà già trầu" Hồ Trường An, nhà báo Trần Trí Vũ, và Tuấn [RFI] , Thanh Tuệ, nhà xuất bản An Tiêm, anh chị Thụy Khuê-Lê Tất Luyện, nhiếp ảnh gia Huỳnh Tâm, nhà văn Đặng Mai Lan, nhà thơ Thụy Khanh, và giáo sư Bùi Xuân Quang...[Cũng tại quán này, trong một thời gian rất chật hẹp hai hôm sau, tôi gặp bình luận gia Trần Thanh Hiệp, nhà viết sử - nhà văn Chính Đạo-Nguyên Vũ, và người chuyên dịch Liêu Trai Chí Dị Phạm Xuân Hy.] Và sau đó [đúng đêm trước ngày lên đường trở về Mỹ] tạitư gia của anh chị Miêng-Khoa, ở Saint Denis, tôi được gặp hai vợ chồng Phan Thị Trọng Tuyến, anh chị Vương Văn Đông, Quỳnh Dao- Huỳnh Hùng. Những buổi gặp gỡ đầy tình thân ái và qua đó tôi học hỏi được nhiều điều rất hay. Miêng ít nói, văn chương sắc bén. Đặng Mai Lan cũng ít nói, truyện ngắn thơ mộng và lãng mạn. Trần Thị Diệu Tâm sôi nổi, truyện chị nhẹ, trầm; Hồ Trường An lưu loát thao thao như những trang sách của anh và Thụy Khuê kín đáo. Tôi thật may mắn có những ngày tràn ngập kỷ niệm tại một vùng đất văn vật lừng danh thế giới với những người mà tôi yêu thích.Chỉ có một điều ân hận là tôi không còn thì giờ đi thăm Trần Vũ, Đỗ Kh. và chị Nguyễn Thị Chân Quỳnh, đi Strasbourg thăm Diễm Châu, sang Anh gặp "bạn già" Nguyễn Đăng Thường, đến Đức thăm Lê Minh Hà và Nghĩa, ăn một bữa cơm với vợ chồng Thế Giang, ngồi giữa nhà hàng của Hoàng Nga nghe chuyện Việt Nam, đi một quảng đường với Ngô Nguyên Dũng... Tôi thiếu nhiều nơi phải đến, nhiều người phải gặp. Và sau cùng tôi cũng đã thiếu một ly cà phê với anh Vũ Thư Hiên như đã hẹn, vì cả anh lẫn Đỗ Kh. trong thời gian ấy đã đến Hoa Kỳ. Và Trần Vũ, ngòi bút trẻ tuổi xuất sắc của văn học Việt Nam hải ngoại đi chơi xa chưa về.
Sau cùng, tôi cũng chẳng biết thêm chút nào về Paris ngoài con đường avenue de la République, trạm metro Saint Maur và trạm République, nghĩa trang Père Lachaise, bateau mouche trên sông Seine và tháp Eiffel về đêm.lạnh buốt.
Paris, thành phố mà nhà văn Julien Green, "nhiều lần mơ ước viết một cuốn sách về nó như một cuộc dạo chơi không mục đích, thành phố mà ta không tìm thấy được những gì mà ta muốn tìm kiếm, nhưng người ta sẽ nhận ra được nhiều thứ mà người ta không chủ tâm kiếm tìm.... Thành phố này chỉ mỉm cười với những ai đến gần nó và lang thang trên những nẻo đường phố xá; thành phố ấy nói cho ta nghe thứ ngôn ngữ thân quen, yên lòng chắc dạ, thế nhưng tâm hồn của Paris chỉ hiện lên từ xa, và từ trên cao, và trong sự lặng thinh của đất trời người ta có thể nghe được tiếng kêu trầm thống của niềm kiêu hãnh và đức tin cất cao trên trời xanh."
Tạm biệt Paris và xin cám ơn những người bạn đã uống cùng tôi một ly cà phê đắng.