Chính Lan thọ thương quá trầm trọng, mê man bất tỉnh suốt nửa tháng trời chẳng hề mở mắt, cơ thể chàng ngày càng hư nhược, hơi thở mong manh.
Biết chàng khó thoát chết, bọn Thi Mạn gạt nước mắt đưa chàng trở lại Nam Kinh, may ra còn kịp gặp vợ con.
Sùng Trinh hoàng đế rộng rãi cấp cho chiếc xe tốt nhất của hoàng cung, ban thưởng rất nhiều ngọc ngà, châu báu, và cho năm mươi giáp sĩ hộ tống.
Vô Nhân Kiếm Khách và Hán Trung Tam Ngốc thay nhau làm xà ích. Thi Mạn, Tố Bình túc trực trong xe chăm sóc bệnh nhân. Hai nàng khóc đến nỗi mắt sưng húp, hoa dung thiểu não, hốc hác hẳn đi.
Trời đã vào đông, tuyết rơi mù mịt và lạnh thấu xương. Cũng may đây là xe của vua nên thùng xe rộng rãi, tiện nghi, có cả lồng than hồng để sưởi ấm và nấu nướng.
Chính Lan chỉ uống toàn nước cháu nấu với sâm già. Thi Mạn cố cứu trượng phu, cho chàng dùng rất nhiều linh đan. Nhờ vậy, bệnh tình không nặng nề thêm, hy vọng Chính Lan cầm cự được cho đến lúc về nhà.
Giữa tháng mười một, đoàn người vượt Từ Châu, đi vào đoạn đèo Vân Mộng. Nơi đây cách xa Từ Châu hơn hai trăm dặm nên không sợ Đào Hoa cung tập kích. Hơn nữa, việc Chính Lan thọ thương được giữ kín, chắc họ Thang không dám chặn đường.
Sắp đến ngọ mà bầu trời xám xịt, gió bấc lồng lộng gào thét, thổi trận mưa tuyết vào lưng lữ khách xuôi nam. Bọn Thi Mạn lầm lũi tiến lên đèo. Mé tả là sườn núi Vân Mộng sơn, mé hữu là vực thẳm Vô Để Uyên nổi tiếng.
Chưa có ai xuống được đáy vực mà sống sót để trở lên. Nếu ném một tảng đá thì phải rất lâu sau mới nghe tiếng động vang lên.
Gần đến đình đèo, bất ngờ từ đám loạn thạch mé tả, hàng ngàn mũi trường tiễn xé gió bay vút đến, cắm vào cơ thể bọn cấm quân. Hán Trung Tam Ngốc múa tít bảo đao hộ thân và che chở cho xe ngựa. Tố Bình vội tung trái Đảo Thiên thần đạn cuối cùng vào bọn mai phục. Đồng thời, Hách Thiết Xuyên quất đôi ngựa phi nước đại.
Ba gã ngốc lao theo, còn đám cấm quân chết không sót một tên. Nhưng lên đến đỉnh đèo, Thiết Xuyên nhận ra đường quan đạo đã bị chặn ngang bởi một thân cây lớn, chẳng thể nào vượt qua được. Gã thở dài tuyệt vọng, khi thấy hàng trăm tên cao thủ áo trắng dương cung chĩa vào xe.
Có tiếng cười ghê rợn vang lên:
- Để xem bọn ngươi làm cách nào thoát khỏi tuyệt lộ này?
Người nói chính là Đào Hoa cung chủ Thang Chí Quân. Tố Bình đứng trên càng xe mắng liền:
- Lão có giỏi thì đơn đấu với tướng công của ta, sao lại bày trò mai phục đê tiện như vậy?
Nhưng nàng không dọa được lão vì cạnh họ Thang còn có một lão già mũi két, mắt diều, trên vai, có con chim ưng lông đỏ. Lão ta chính là Miêu Ưng Lão Tổ ở Quân Đô Sơn. Ngoài ra còn có Phi Hoàn đại lão Lý Hiểu Lộ và Thái Sơn Phủ Quân Vũ Diên. Bốn người ấy liên thủ thì dù Chính Lan có khoẻ mạnh cũng không mong thoát chết.
Hách Thiết Xuyên kiến văn rộng rãi nên nhận ra ngay lai lịch của đối phương. Gã hạ giọng bảo Tố Bình:
- Nàng và Thi Mạn cố cõng Chính Lan đào tẩu, ta và ba anh em họ Hồ sẽ đoạn hậu cho.
Tố Bình cười nhạt:
- Có chạy cũng không thoát, thà liều mình đánh trận cuối cùng rồi chết chung với trượng phu còn hơn.
Chính Lan đang sắp chết, nàng cũng chẳng còn ham sống nữa.
Bỗng trong xe Thi Mạn thẳng thốt kêu lên:
- Tướng công đã hồi tỉnh.
Có lẽ tiếng nổ long trời của trái Đảo Thiên thần đạn đã đánh thức chàng. Chính Lan thều thào hỏi:
- Chuyện gì vậy Mạn muội?
Thi Mạn sa lệ đáp:
- Chúng ta bị Đào Hoa cung chủ và Thái Sơn Phủ Quân vây chặt trên đỉnh đèo Vân Mộng. Chắc là lành ít dữ nhiều.
Tố Bình đã chui vào xe, ôm lấy Chính Lan nức nở:
- Phen này chúng ta cùng dắt tay nhau xuống suối vàng mà thôi.
Chính Lan lặng lẽ suy nghĩ, nghiêm giọng bảo:
- Hai nàng mau truyền cho ta ít chân khí và bảo Thiết Xuyên nói đối phương chờ một lát.
Thi Mạn vén màn xe nói với họ Hách, còn Tố Bình dựng Chính Lan ngồi lên, truyền công lực vào mệnh môn. Phe Đào Hoa cung đã nắm chắc phần thắng nên chẳng vội gì, chấp nhận chờ đợi.
Nửa khắc sau, Chính Lan đã hồi phục được hai thành, dắt tiểu kiếm vào bụng, tay xách Long Tuyền kiếm bước xuống xe. Chàng đã nhận ra Miêu Ưng Lão Tổ và Phi Hoàn đại lão nhưng vẫn thản nhiên.
Chính Lan cao giọng bảo Thái Sơn Phủ Quân:
- Vũ tiền bối, kỳ hạn ba tháng chưa đến sao tiền bối lại có mặt nơi này?
Phủ Quân cười mát:
- Bần đạo nghe nói công tử sắp chết nên đến xem thử thế nào.
Phi Hoàn đại lão gầm lên:
- Hồng Nhất Điểm, ngươi hãy đến mạng ba em của ta.
Chính Lan rút bảo kiếm ra khỏi vỏ, chậm rãi tiến lên, đối diện bốn lão ác ma. Họ đang đứng dưới chân sườn núi, vì vậy, vị trí của Chính Lan rất gần bờ vực. Chàng giơ cao thanh kiếm và nói:
- Đây chính là thanh Long Tuyền bảo kiếm thời thượng cổ. Nếu các vị đồng ý tha cho sáu người thân của tại hạ thì sẽ được thanh kiếm này và sinh mạng của Âu Dương mỗ. Nếu không, Lan này sẽ hủy ngay bảo vật.
Dứt lời, chàng chém mạnh vào tảng đá cạnh đấy. Lửa xanh bắn ra và tảng đá nứt đôi, mà thanh kiếm không hề sứt mẻ. Đào Hoa cung chủ và Thái Sơn Phủ Quân đều là kiếm khách nên hoan hỉ phi thường. Nhưng Lý Hiểu Lộ gạt phăng:
- Lão phu có đôi phi hoàn này là đủ rồi, chẳng cần bảo kiếm làm gì.
Chính Lan mỉm cười:
- Lão đến đây để lấy mạng ta chứ đâu phải vì sáu kẻ vô can kia?
Phủ Quân và Đào Hoa cung chủ bàn bạc chớp nhoáng. Vũ Diên quay sang phủ dụ đại lão, rồi nghiêm giọng:
- Được, bần đạo đồng ý tha cho thân quyến của ngươi. Nhưng ngươi phải thề sẽ để kiếm lại và nhảy xuống vực tự sát.
Thi Mạn, Tố Bình kinh hãi kêu lên:
- Tướng công, bọn thiếp thà chết chứ không bỏ chàng.
Thiết Xuyên cũng nói:
- Tại hạ chẳng phải là kẻ ham sống, công tử bất tất phải làm như vậy.
Chính Lan nghiêm giọng:
- Nếu các ngươi không nghe lời ta mà đi ngay thì chẳng còn là thê thiếp, bằng hữu gì nữa hết. Hai nàng đang mang thai, sao không lo giữ gìn hương hỏa cho ta mà lại tính chuyện chết oan?
Thi Mạn và Tố Bình sửng sốt vì họ nào có mang thai nghén gì? Thiết Xuyên cũng biết điều ấy, lặng người suy nghĩ. Chính Lan giận dữ quát:
- Đi mau đi, một năm sau quay lại cúng tế là đủ rồi. Đừng để ta phải nói nhiều.
Tố Bình và Thi Mạn quì xuống vái tạ:
- Kiếp này không còn sum họp, xin hẹn kiếp lai sinh chắp cánh uyên ương.
Ba gã ngốc cũng sụp xuống khóc ồ ồ:
- Đại ca đi đi, bọn tiểu đệ hứa sẽ đốt cho đại ca thật nhiều giấy tiền vàng bạc, để dưới âm ty có rượu mà uống.
Thiết Xuyên thì ngửa cổ cười bi thiết:
- Hảo bằng hữu, hẹn sớm gặp lại nhau.
Y nghĩ sau này sẽ liều mình báo phục, dẫu chết cũng vui lòng.
Chính Lan quay sang nói với phe đối phương:
- Tại hạ thề có hoàng thiên rằng sẽ trao bảo kiếm và tự sát, ngay sau khi bọn họ đi khỏi. Mong chư vị mở đường cho.
Người võ lâm rất trọng lời thề, nhất là một bậc đại hiệp khách như Chính Lan. Đào Hoa cung chủ lập tức phất tay ra hiệu nhường đường. Bọn cung thủ liền kéo thân cây sang một bên để xe và ngựa đi qua. Hai mỹ nhân cứ mãi quay lại, lệ tuôn như suối, luôn miệng gọi tướng công.
Chờ họ đi xa, Chính Lan tra kiếm vào vỏ, đặt xuống đất rồi tung mình nhảy vào khoảng không mù mịt của vực thẳm.
Vô Để Uyên có nghĩa là vực không đáy, nhưng mỗi khi đông đến tuyết phủ dày hàng trượng. Chính Lan đã tính đến điều này nên mới dám liều mình để cứu thê thiếp, bằng hữu. Hy vọng dẫu mong manh nhưng còn hơn cả đám chết trong tay kẻ địch.
Chính Lan dồn hết công lực vào đôi chân để chịu đựng va chạm. Nhưng từ độ cao hơn trăm trượng rơi xuống, dù tuyết dày và xốp, xương đầu gối của chàng cũng sai khớp. Thân hình Chính Lan lún sâu vào lớp tuyết, ngập cả đầu.
Chàng cố nén đau, dùng tay bới tuyết trườn lên. Sửa lại khớp xương xong, chàng thở phào lướt lên miệng vực, chỉ thấy tuyết bay mù mịt mà thôi. Đã quyết tìm cái sống trong cái chết nên Chính Lan chẳng hề tuyệt vọng.
Chàng nghỉ ngơi một lúc rồi bắt đầu thám hiểm đáy vực. Tiểu kiếm cầm sẵn trong tay, Chính Lan chậm rãi bước đi. Dù còn rất yếu đuối nhưng nhãn quang chàng vẫn tinh tường, nhờ tác dụng của thiên niên Hà Thủ Ô. Nếu không có kỳ trân này, chàng đã chết từ lâu rồi. Thi Mạn tinh thông chất độc nhưng y thuật không cao minh lắm. Nàng nóng ruột nên cho Chính Lan uống quá nhiều linh đan và sâm quí, đâu biết rằng trượng phu luyện Qui Tức BảoTâm đại pháp nên cơ thể tự nhiên giảm hoạt động để phục hồi. Thấy mạch yếu, hơi thở mong manh, nàng cứ ngỡ phu tướng sắp chết. Chính tiếng nổ của hỏa khí đã khiến chàng rời khỏi trạng thái đông miên của môn tuyệt kỹ hãn thế kia.
Nhắc lại, Chính Lan đi nửa vòng đáy vực, bỗng phát hiện một cửa hang rộng rãi. Chàng mừng rỡ vì đã có chỗ ẩn thân. Dù sao cũng chẳng thể ở mãi dưới cơn mưa tuyết lạnh lùng. Chàng biết mình phải tịnh dưỡng mấy tháng mới mong phục hồi công lực để thoát khỏi chốn này.
Nước uống thì đã có tuyết, vật thực là lũ độc xà, cóc nhái nhung nhúc khắp nơi. Nếu hang khô ráo, chàng có thể tạo ra lửa mà sưởi ấm và nướng thịt.
Chính Lan thận trọng bước vào, ngạc nhiên trước vẻ đẹp kỳ ảo của hàng ngàn thạch nhũ trên trần và sàn hang. Có những vú đá hình thành từ trăm vạn năm trước, trên dưới giao nhau thành cây cột khổng lồ.
Cuối hang là một khoảng rộng bằng phẳng, khô ráo, và kỳ diệu thay có cả dấu vết con người. Chàng lờ mờ nhận ra trong góc động có chiếc giường đá, liền bước đến xem thử. Vật đầu tiên chàng nhận thấy là hộp gỗ đựng bùi nhùi và cục đá lửa lớn bằng nắm tay. Chính Lan phấn khởi đập chúng vào nhau liên tục, tiếp tục quan sát, chàng phát lại phát hiện một đống cành khô ở chân vách động.
Lát sau, đống củi mục cháy bùng lên, tỏa ra sức nóng, làm ấm lòng kẻ cô đơn. Chính Lan trở ra ngoài bắt vài con độc xà và nhặt thêm ít củi nữa. Tuy chúng ướt át nhưng vẫn có thể cháy được. Còn việc làm thịt rắn thì chàng đã học của Liễu Thi Mạn.
Ánh lửa soi sáng cảnh vật, giúp Chính Lan nhận ra vách đá cuối động được khoét sâu một mảng vuông vức, cách mặt đất gần trượng. Và trong khoảng trống ấy, một xác người ngồi ngay ngắn theo tư thế kiết đà. Chàng hiếu kỳ rút cây củi đang cháy đến nơi quan sát, thấy da thịt của tử thi đã khô quắt lại sát xương mặt, chỉ có hàng râu năm chòm và mái tóc đen nhánh là vẫn chỉnh tề. Chính Lan là người trung hậu, thủ lễ nên sụp xuống lạy ba lạy, thầm khấn:
- Vãn bối vô tình lạc bước vào đây, quấy nhiễu chốn yên nghỉ của tiền bối, xin anh linh lượng thứ cho.
Lúc quì lạy, chàng đã đặt cây đuốc củi khô xuống sàn. Ánh lửa chập chờn nhưng cũng đủ soi sáng chân vách trước mặt. Nhờ vậy, Chính Lan nhìn thấy bốn chữ “sàng hạ hữu kinh.” Chỗ này rất tối tăm, chữ viết lại nhỏ, nếu chàng không qùy lạy, khó mà thấy được bốn chữ ấy.
Chính Lan hiểu ngay dưới chiếc giường đá kia có lưu lại chân kinh, bí kíp gì đó. Chàng xách đuốc đến nơi xem xét, và tìm ra một khung cửa nhỏ, vuông vức, mỗi bề độ hơn gang. Chính Lan lôi ra một chiếc rương đồng, tiết diện gần bằng khung cửa đá, dài khoảng hai gang. Rương không có khóa nhưng quanh nắp được gắn kín bằng nhựa cây. Chính Lan dùng tiểu kiếm cạo sạch lớp keo ấy, mở nắp rương ra. Vòn vẹn chỉ có một phong thư, vài nén vàng, một quyển kinh và tấm áo tơ mềm mại, đen bóng. Chính Lan mở phong thư, phát hiện thêm một chiếc mặt nạ da người rất tinh xảo.
Chàng đặt sang một bên, đọc thư trước đã.
“Lão phu là Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan, người đất Thiểm Tây, từng phò tá Vương Dương Minh đánh giặc Trần Hào. Nhưng quen thói tiêu dao tự tại, lão phu không nhận chức tước mà tiếp tục ngao du, hành hiệp. Trong ba mươi năm ngang dọc, với pho Cuồng Lãng chưởng pháp, lão phu tiêu diệt không biết bao nhiêu ác nhân trong võ lâm, nổi danh Báo Ứng Lang Quân. Đến năm sáu mươi tuổi, lão vô cùng hối hận, lão phu giết lầm một người vô tội, nhảy xuống Vô Để Uyên tự sát. Nào ngờ trời xanh chưa cho chết nên lão phu ở lại nơi này sám hối. Chẳng nỡ để tuyệt học thất truyền, lão phu lưu lại bí phổ cho đời sau. Chỉ mong kẻ hậu sinh thụ giáo tuyệt kỹ này trở thành Báo Ứng Lang Quân đệ nhị đại, tạo phúc cho giang hồ. Nhưng nhớ đừng giết oan người vô tội?
Trọng Phú Lan di chí.”
Hoàng Hạc Tú Sĩ Ngũ Di Nghiệp chỉ say mê kiếp thuật nên thờ ơ với quyền chưởng. Vì vậy, Chính Lan cũng chẳng khá hơn. Sau ba năm phiêu bạt, chạm trán nhiều cường địch, chàng thức ngộ rằng chưởng pháp lợi hại chẳng kém gì kiếm thuật. Chàng hiếu kỳ dở chân kinh ra đọc. Bỗng một ý niệm bừng lên khiến chàng choáng váng. Phải chăng Báo Ứng Lang Quân đã tìm ra lối xuất nhập nên mới có giấy mực mà viết di thư và quyển bí kíp này? Lão nhảy xuống vực thẳm tự sát thì làm gì có văn phòng tứ bảo? Chàng hồi hộp lướt nhanh từng trang, đến cuối mới thấy lời ghi chú:
“Sau mười năm rèn luyện chân kinh, đủ sức đánh ra trăm chưởng liên tục thì có thể phối hợp với khinh công mà trở lên miệng vực.”
Chính Lan vô cùng thán phục bản lãnh của Báo Ứng Lang Quân, quyết cố công rèn luyện pho Cuồng Lãng thần chưởng. Chàng đã có hơn sáu mươi năm công lực, chẳng cần phải mất một khoảng thời gian lâu như vậy.
Phần đầu của bí phổ là tâm pháp Đồng Tử Nhất Nguyên Công. Chính Lan đã có vợ nên chẳng thể luyện được, lật qua phần khẩu quyết Cuồng Lãng chưởng pháp và Ngự Phong thân pháp.
* * *
Hơn năm sau, trên bến đò bờ bắc sông Hoài xuất hiện một chàng trai tuổi tam tuần, mặt đẹp như ngọc. Bộ trường bào màu xanh có vẻ cũ kỹ nhưng tấm áo choàng tơ đen trên vai óng ánh như mới dệt xong. Đặc biệt, chàng ta không hề có vũ khí hay hành lý, đôi giầy vải dưới chân đã rách mũi, lộ cả ngón ra.
Chàng ta bước vào tửu quán, gọi một mâm cơm nhỏ và bầu rượu. An xong chàng nhâm nhi chén rượu, nhìn về phía rừng liễu xanh mướt đằng đông. Trời đã vào xuân, tiết trời ấm áp, hoa cỏ tốt tươi và cảnh vật đầy sức sống. Bỗng chàng ta tức cảnh sinh tình, ngâm nga nho nhỏ bài Ức Dương Liễu(11)của Bạch Cư Dị.
“Tằng tài dương liễu Giang Nam ngạn,
Nhất biệt Giang Nam lưỡng độ xuân.
Giao ức thanh thanh giang ngạn thượng,
Bất tri phan chiết hà thị nhân?”(12)
Giọng ngâm quen thuộc kia là của Âu Dương Chính Lan. Chàng đã thoát khỏi vực sâu và tái xuất giang hồ với dung mạo của Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan. Thật là tấu xảo khi chàng và Lang Quân lại trùng tên.
Chàng đang trên đường trở lại Nam Kinh sum họp với gia đình. Mất nén vàng mà Báo Ứng Lang Quân để lại không đủ để mua ngựa cỡi, chàng đành đi bộ và ngủ ngoài trời. Sau hơn năm giam mình dưới đấy vực sâu tĩnh mịch, chàng đã có thời gian để suy nghĩ về kiếp nhân sinh, đạo tâm sáng láng hơn xưa nên ung dung trong mọi hoàn cảnh.
Thấy thực khách lục tục đứng lên, Chính Lan biết đò ngang sắp sang đến, bèn tính tiền rồi bước ra.
Chàng mừng rỡ khi thấy Sơn Đông Tử Phòng Từ Kính Nhan. Lão đang đứng chắp tay sau lưng, buồn bã nhìn dòng nước chảy về Đông. Phải chăng lão u sầu về cái chết của Hồng Nhất Điểm?
Thân phụ Từ lão đã thọ ân cứu mạng của Hoàng Hạc Tú Sĩ. Vì vậy, lão theo di mệnh, một lòng trung thành với đồ đệ của Tú Sĩ. Nhưng Chính Lan bỗng nhận ra Từ Kính Nhan không đứng một mình, quanh lão còn có bảy tám cao thủ nữa. Y phục của họ đều giống nhau, đều là võ phục xanh nhạt, lưng thêu đóa hoa sen trắng. Chàng thận trọng dừng bước, không đến nhận người quen nữa. Lát sau, đò ngang cặp bến, Sơn Đông Tử Phòng cùng đám thanh y võ sĩ dẫn ngựa lên thuyền. Lạ lùng thay, chẳng ai dám đồng hành với họ. Thuyền rời bờ, Chính Lan nghe người sau lưng nói với giọng căm hận:
- Bọn Bạch Liên giáo ngày càng lộng hành, thật chướng tai gai mắt. Từ khi Hồng Nhất Điểm đại hiệp tạ thế đến nay, bọn chúng công khai khuynh đảo võ lâm, chẳng coi ai ra gì cả.
Chính Lan quay lại, nhận ra người vừa nói là một chàng trai mập mạp, tuổi độ hai bốn, hai lăm, áo thư sinh vải thô, lưng đeo trường kiếm nhưng tay tả kè kè tráp gỗ. Chính Lan nghe lòng ấm lại khi thấy còn có người mến mộ mình. Chàng mỉm cười hỏi thử:
- Dường như huynh đài có tác phong giống như Âu Dương công tử?
Chàng trai đỏ mặt, ngượng ngùng đáp:
- Tại hạ từ lâu vẫn ngưỡng mộ Âu Dương đại hiệp, cố noi gương người, ăn mặc giản dị và khổ luyện võ nghệ. Mọi người đều chê cười rằng Lâm Chấn Hạo này quá béo, chẳng thể giống được Hồng Nhất Điểm.
Chính Lan nghiêm giọng:
- Bắt chước hình dáng, cử chỉ sao bằng bắt chước nhân phẩm? Quí hồ một lòng giáng ma vệ đạo là đủ rồi.
Lâm Chấn Hạo cười buồn:
- Tiểu đệ hiếu võ nhưng chưa gặp được minh sư, bản lãnh có hạn, làm sao hiên ngang, lẫm liệt như Hồng Nhất Điểm?
Chính Lan bất giác có cảm tình với chàng trai trung hậu này. Họ Lâm cũng vậy, gã vui vẻ hỏi:
- Tứ hải giai huynh đệ, xin huynh đài cho tiều đệ biết tính danh?
Chính Lan mỉm cười:
- Tại hạ là Trọng Phú Lan.
Chấn Hạo thấy chàng rách rưới, lại không hề có hành lý, đoán rằng túi đối phương đang cạn. Gã hòa nhã nói:
- Tiểu đệ sẽ mướn thuyền con sang sông, không chờ đò nữa. Mong Trọng huynh cùng đi cho vui.
Chính Lan nóng lòng trở về nhà nên đồng ý ngay. Đò lớn do quan lại địa phương quản lý, có thể chở được người, ngựa và xe hàng. Còn khách bộ hành, thường vượt sông bằng những chiếc thuyền câu nhỏ của đám ngư dân gần bờ, đương nhiên giá cả đắt gấp ba.
Trong lúc thuyền con sang sông, Chính Lan trò truyện với họ Lâm, được biết gã quê Trường Sa, con út của một nhà đại phú, mê kiếp giang hồ nên bỏ nhà phiêu bạt đã gần năm nay. Chấn Hạo học võ của Động Đình Thần Kiếm, bản lĩnh chỉ ở vào hàng nhị lưu, tam lưu.
Trong cuộc đàm đạo, Chấn Hạo tỏ rõ lòng kính ngưỡng đối với thần tượng Hồng Nhất Điểm. Chính Lan thầm hổ thẹn, bỏ qua chuyện khác:
- Tại hạ mới xuất đạo nên không rõ tình hình võ lâm. Mong các hạ chỉ giáo cho.
Chấn Hạo thở dài kể:
- Ba tháng sau ngày Âu Dương đại hiệp nhảy xuống vực thẳm không đáy ở Vân Mộng sơn. Bạch Liên giáo dương cờ gióng trống, nhanh chóng bành trướng khắp nơi. Nghe nói giáo chủ Bạch Liên giáo là Thái Sơn Phủ Quân, còn ba chức phó dành cho Đào Hoa cung chủ, Phi Hoàn đại lão và Miêu Ưng Lão Tổ. Tháng mười năm ngoái, Âu Dương gia trang ở Nam Kinh đột nhiên phát hỏa. Quan quân kéo đến thì ba trăm mẫu rừng đã biến thành biển lửa.
Chính Lan nghe như sét đánh bên tai, chết điếng người. Lâm Chấn Hạo không nhận ra, tiếp tục nói:
- Cuộc hỏa hoạn đã thiêu hủy mọi dấu vết nên chẳng biết ai còn ai mất, và ai là hung thủ. Có điều, sau đó ít lâu, người ta thấy Hán Trung Tam Ngốc Hiệp, Vô Nhân Kiếm Khách, Sơn Đông Tử Phòng, Lôi Đao… xuất hiện trong hàng ngũ Bạch Liên giáo. Những cao thủ này chẳng hiểu sao lại phục vụ cho những kẻ đã đẩy Hồng Nhất Điểm xuống vực sâu?
Chính Lan giật mình kinh hãi, chìm vào trong suy tưởng, cố giải thích hiện tượng quái dị kia. Chàng hiểu rõ tính tình cương liệt của Lôi Đao Hứa Hoa và Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên. Họ thà chết chứ không chịu nhục. Vậy điều gì đã khiến họ phải hành động như vậy? Phải chăng Bạch Liên giáo đã bắt thê tử chàng làm con tin để uy hiếp họ?
Chính Lan bình tâm lại đôi chút, hỏi họ Lâm:
- Các hạ có biết tổng đàn của Bạch Liên giáo nằm ở đâu không?
Chấn Hạo lắc đầu:
- Đạo quán của Bạch Liên giáo nằm rải rác khắp ba phủ Sơn Đông, Giang Tô, Huy Châu, nhưng chẳng ai biết rõ bộ phận đầu não ở địa phương nào.
Chính Lan thất vọng, thẫn thờ bảo:
- Vậy biết tìm ở đâu bây giờ?
Lâm Chấn Hạo sửng sốt hỏi:
- Chẳng lẽ Trọng huynh lại muốn đối đầu với Bạch Liên giáo?
Chính Lan cười mát:
- Đúng vậy, tại hạ là Báo Ứng Lang Quân, lẽ nào lại để bọn tà ma lộng hành?
Võ lâm cũng như triều đình, đều có người chép sử. Chỉ khác ở chỗ là chốn giang hồ lưu giữ sử sách bằng cách truyền khẩu. Sự tích trong vòng trăm năm vẫn được các bô lão ghi nhớ và kể lại cho bọn tiểu bối. Vì vậy, danh tiếng của Báo Ứng Lang Quân vẫn chưa phai mờ. Trọng Phú Lan chỉ hơn Hoàng Hạc Tú Sĩ có ba mươi tuổi, thành tích lẫy lừng, lẽ nào lại bị lãng quên?
Phàm là người học võ, bao giờ cũng được sư phụ kể lại cho nghe những truyền thuyết võ lâm, đặc điểm các phái, cũng như qui củ giang hồ. Lâm Chấn Hạo cũng trải qua quá trình ấy nên nhận biết ngay. Gã ngẩn người ấp úng:
- Nhưng Báo Ứng Lang Quân đã chết được hơn bảy chục năm rồi mà?
Chính Lan gật đầu:
- Đúng vậy, tại hạ là đời thứ hai.
Chấn Hạo nhìn chàng nghi ngại:
- Nếu quả là đúng thế thì là phúc lớn của võ lâm. Nhưng hiện các hạ có sánh nổi với Âu Dương đại hiệp hay không mà dám đụng đến Bạch Liên giáo?
Lúc này thuyền con đã bắt kịp, đi song song với đò ngang. Chính Lan loáng thoáng nghe một tên trong đám giáo đồ Bạch Liên giáo nói:
- Mẹ kiếp! Chiếc đò quỉ quái này bơi chậm như rùa! Nếu chúng ta không đến được Vu Hồ kịp thời hạn sẽ bị phó giáo chủ phạt nặng đấy!
Tên thứ hai cười nhạt:
- Đến sớm hơn chưa chắc đã là điềm tốt. Bọn Bố Y hội phòng thủ rất chặt chẽ, vào được cũng phải tốn máu xương không ít.
Chính Lan hiểu rằng bọn này đang trên đường đến căn cứ của Bố Y hội ở Vu Hồ. Chàng thắc mắc, không hiểu ai là người lãnh đạo của họ, quyết định đến tận nơi xem thử. Hơn nữa, họ vốn là thuộc hạ của chàng, chẳng thể để đám hào kiệt ấy lâm nguy được.
Thuyền con vượt lên, cặp bờ nam trước đò ngang. Chính Lan vòng tay nói:
- Cảm tạ Lâm các hạ đã cho quá giang. Xin cáo biệt.
Lâm Chấn Hạo vội nói:
- Trọng huynh định đi đâu?
Chính Lan nghiêm giọng:
- Bạch Liên giáo đang chuẩn bị tấn công căn cứ Bố Y hội ở Vu Hồ. Tại hạ muốn đến đấy giúp họ một tay.
Lâm Chấn Hạo là con nhà đại phú, thế mà không chịu an hưởng cảnh giàu sang cũng do lòng hiếu sự và khao khát dọc ngang. Nay gặp được một nhân vật bí ẩn, gã chẳng thể bỏ qua, liền ấp úng nói:
- Mong Trọng huynh cho tiểu đệ theo cùng. Tiểu đệ tuy bất tài nhưng không biết sợ chết là gì.
Chính Lan cảm động, gật đầu:
- Nếu các hạ đã có lòng giáng ma vệ đạo, tại hạ xin tuân mệnh.
Chấn Hạo phấn khởi kéo Chính Lan vào Hoài Nam trấn mua hai con tuấn mã. Họ phi nước đại về hướng tây nam, cố đến Vu Hồ thật sớm.
Ba hôm sau, đúng ngày rằm tháng ba, hai người đến trấn Vu Hồ. Ăn tối xong, Chấn Hạo mua ít đồ nhắm và rượu ngon, gởi ngựa rồi cùng Chính Lan đến khu rừng đào cạnh hồ.
Chính Lan phi thân một vòng xem phe Bạch Liên giáo đã có mặt chưa. Nhưng có lẽ chưa đến ngày nên chẳng có mống nào. Chàng yên tâm trở lại với Chấn Hạo. Chính Lan dõi mắt nhìn hòn đảo giữa hồ, đoán rằng sau đám liễu dày kia là căn cứ của Bố Y hội.
Từ bờ đến đảo xa hàng dặm, muốn thông báo cũng chẳng có cách nào. Chính Lan đành nằm lại chờ đợi. Anh tà dương mùa xuân đỏ rực, xuyên qua cành là soi rõ gương mặt thuần hậu, thiện lương của Chấn Hạo. Chàng cảm thấy gã chính là hình ảnh mình ngày mới xuất đạo. Chính Lan chợt nảy sinh ý định tài bồi cho họ Lâm. Chàng hỏi gã:
- Lâm lão đệ sở đắc những tuyệt học nào?
Chính Hạo bẽn lẽn đáp:
- Tiểu đệ học được sáu thành pho Hoa Sơn kiếm pháp và vài chiêu quyền cước.
Động Đình Thần Kiếm vốn là đệ tử tục gia của phái Hoa Sơn.
Chính Lan mỉm cười:
- Lão đệ thử trổ tài cho ta được mở rộng thêm kiến văn.
Thấy chàng xưng hô thân mật, Chấn Hạo dạn dĩ hơn, rút kiếm thi triển ba mươi sáu chiêu kiếm.
Phái Hoa Sơn phát nguyên từ phái Toàn Chân, cũng nằm trong hệ thống đạo giáo. Thái Chân kiếm pháp của Hoàng Hạc Tú Sĩ là tuyệt học của Mã Ngọc chân nhân đại đệ tử của Vương Trùng Dương giáo chủ của Toàn Chân đáng được coi là võ thuật chính thống. Vì vậy, Chính Lan thấy hết những sơ hở của pho Hoa Sơn kiếm pháp kia. Dẫu sao, thiên bẩm của Hách Đại Thông sư tổ phái Hoa Sơn cũng không bằng đại sư huynh Mã Ngọc. Hai người cùng ở trong Toàn Chân thất tử nhưng căn cơ khác xa nhau.
Tuy Mã Ngọc chết sớm, giáo phái tan tác nhưng sở học của ông vẫn được lưu truyền cho đến đời Chính Lan. Chàng bèn chỉ điểm, bổ khuyết những khiếm khuyết cho Lâm Chấn Hạo. Chàng kiên nhẫn giảng giải từng chiêu, nên đến nửa đêm kiếm thuật của họ Lâm đã hoàn bị hơn trước. Gã mừng rỡ khôn cùng, say sưa luyện tập dưới ánh trăng vàng, cuối canh tư mới chịu lăn ra ngủ.
Sáng ra, Chấn Hạo chạy bổ vào trấn mau mấy mòn điểm tâm và rượu thịt, cung phụng cho sư phụ. Gã nhìn chàng bằng cặp mắt kính ngưỡng:
- Trọng huynh quả là bậc kiếm tiên, tiểu đệ học nửa ngày đã tiến bộ bằng mấy năm khổ luyện.
Thực ra, gã chẳng quá lời, vì kiếm pháp có quá nhiều sơ hở, luyện hoài cũng thế thôi. Động Đình Thần Kiếm mở võ trường để mưu sinh, đệ tử đông hàng trăm, làm sao dạy cho chu đáo từng người được?
Chính Lan thấy họ Lâm to béo phục phịch, bộ pháp chậm chạp, liền dạy cho gã một đoạn khẩu quyết trong pho Hoàng Hạc Khinh Vân, chàng dùng kiếm đánh dấu những bộ trên mặt đất bắt gã phải bước theo càng lúc tốc độ càng nhanh. Lâm Chấn Hạo hiếu võ thành tật nên chuyên cần luyện đến bở hơi tai, cuối cùng cũng nắm được yếu quyết của bộ pháp. Chính Lan hài lòng bảo:
- Nếu Lâm lão đệ chú tâm khổ luyện, muốn bảo toàn mạng sống cũng chẳng khó gì.
Đêm xuống, trăng mười sáu trải ánh sáng trên mặt hồ, gió xuân hiu hiu làm gợn sóng, trông như hàng ngàn con rắn bạc. Chính Lan buồn bã nhìn vầng nguyệt lơ lửng trên mặt nước mênh mông, nhớ đến thê tử sống chết phương nào chưa rõ. Chàng đau lòng khôn xiết thở dài, gởi gắm nhớ thương vào bài Vọng Nguyệt Hoài Viễn(13)của Trương Cửu Linh:
“Hồ thượng sinh minh nguyệt
Thiên thai cộng thử thì
Tình nhân oán dao dạ
Cảnh tịch khởi tương tư
Diệt chúc liên quang mãn
Phi y giác lộ ti
Bất kham danh thủ tặng
Hoàn tẩm mộng giai kỳ.”(14)
Lâm Chấn Hạo cũng được học hành đàng hoàng nên hiểu được tình cảm của Chính Lan. Gã rụt rè hỏi:
- Phải chăng Trọng huynh nhớ nhung hình bóng mỹ nhân nơi quê nhà?
Chính Lan gượng cười, không đáp và bảo gã:
- Lâm lão đệ, chúng ta tìm cách vào đảo thôi. Bờ hồ quá rộng, biết bọn Bạch Liên giáo đến từ hướng nào?
Chấn Hạo tán thành:
- Trọng huynh yên tâm. Lúc chiều, tiểu đệ đã ghé nhà lão ngư phủ hỏi mướn thuyền. Nơi ấy cách đây không xa.
Hai người đi về hướng tây, lát sau đã đến một túp chòi lá ven hồ. Chấn Hạo đưa lão chủ thuyền hai chục lượng bạch ngân, vui vẻ dặn dò:
- Nếu chúng ta không trở lại trả thuyền, lão cứ việc mua chiếc thuyền mới mà sử dụng.
Số bạc này gấp đôi trị giá chiếc thuyền câu nên lão dân chài này rất hoan hỉ, thầm vái hai vị thượng khách chết mất xác cho xong.
Chính Lan và Chấn Hạo chèo nhanh về phía hòn đảo giữa hồ. Vừa được hơn nửa chặng đường đã nghe tiếng quát tháo ở phía đông. Chính Lan chèo nhanh về hướng ấy, nhận ra hai mươi chiếc thuyền dài đang tiến đến đảo, và đang bị các cung thủ Bố Y hội bắn chặn. Ngoài tên thường họ còn dùng loại tên có quấn vải tẩm dầu ở mũi để đốt thuyền của Bạch Liên giáo. Những mũi tên ấy bay vun vút như dệt lưới, nên đã có ba chiếc thuyền bốc cháy, và mười mấy gã thanh y trúng tên, gào lên thảm khốc. Nói chung, người trên đảo nhờ thuật xạ tiễn điêu luyện đã chặn được bước tiến của đối phương.
Nhưng bất ngờ nhà cửa trên đảo bốc cháy ngùn ngụt. Chính Lan than thầm, đoán rằng Bạch Liên giáo đã gài nội ứng vào Bố Y hội. Đám cháy đã khiến người trên đảo phải phân tán lực lượng để cứu hỏa. Vì vậy, phòng tuyến mỏng đi. Phe Bạch Liên giáo thừa cơ tiến lên.
Chính Lan nghe tiếng chim ưng đập cánh trên cao, ngẩng đầu nhìn lên, nhận ra tám con thần điêu khổng lồ của Đào Hoa cung đang bay vút về phía đảo và sắp hạ cánh. Các cao thủ Bố Y hội vội dương trường cung bắn chặn. Nhờ vậy, mười mấy chiếc thuyền kia đến được mép đảo. Chính Lan kinh hãi đốc thúc Chấn Hạo chèo nhanh. Hai người đặt chân lên đảo thì Bố Y hội đã rút vào trung tâm cố thủ. Chính Lan nóng ruột nắm tay Chấn Hạo kéo đi như bay, tìm đến nơi đang vang lên tiếng reo hò, và lửa cháy rực trời.
Cuộc chiến đang diễn ra quanh một tòa thạch thất rất kiên cố, hình dáng kỳ lạ. Nó không vuông vức mà lại được xây thành hình bát giác, tường vây bên ngoài bằng đá, chỉ thấp ngang ngực người. Nhờ có chỗ ẩn thân kín đáo, hơn trăm cao thủ Bố Y hội cầm chân được đối phương.
Nhưng ở hướng chính nam, một nhóm người đang tiến lên như vũ bão. Chính Lan nhận ra Phi Hoàn đại lão và bảy lão nhân lùn của Đào Hoa cung. Hôm nay họ mặc võ phục vàng, ngực thêu đóa sen trắng lớn bằng hai bàn tay. Riêng Phi Hoàn đại lão có thêm ngân khôi trên tóc. Song hoàn và bảy thanh tiểu kiếm vun vút dệt lưới loang loáng dưới ánh lửa rực rỡ của đám cháy. Có bốn năm căn nhà gỗ gần thạch thất đang phát hỏa.
Chính Lan thấy họ sắp đến gần phòng tuyến của Bố Y hội, liền gầm lên:
- Có Báo Ứng Lang Quân đến đây.
Dứt lời, thân hình chàng lướt tới, đánh thủng hàng ngũ Bạch Liên giáo. Song thủ chàng tung ra hàng loạt chưởng kình liên tiếp, đánh văng thân thể những gã cản đường. Tiếng gào thét rên la vang dội cả mặt hồ.
Tám lão ma đầu kinh hãi quay lại chặn đánh chàng trai lạ mặt. Lý Hiểu Lộ phóng đôi song hoàn, tấn công từ xa. Chính Lan dùng thế Nhất Hạc Xung Thiên quen thuộc, bốc cao hai trượng, xuất chiêu Cuồng Lãng Trầm Chu. Không phải hai chưởng mà là mười tám đạo chưởng phong nối tiếp nhau như sóng dữ. Phép đánh khoái chưởng nhanh như chớp giật này khiến đại lão chới với, trúng liền hai đòn vào ngực, máu phun thành vòi. Bảy lão lùn Đào Hoa cung vội hợp chưởng tấn công Chính Lan. Chưởng phong có màu hồng nhạt của Đào Hoa Mê Tâm chưởng pháp bảy đạo chưởng kình hội tụ vào thân chàng, mãnh liệt như cuồng phong.
Chính Lan vỗ mạnh song chưởng vào khoảng không, dùng Ngự Phong Thân Pháp bốc lên cao thêm nửa trượng nữa, thoát khỏi phạm vi của lưới chưởng, và không chờ đối phương kịp đổi hơi, chàng lao xuống xuất chiêu Thăng Thượng Hoa Phi. Ba mươi sáu đạo chưởng kình liên tiếp giáng xuống như búa bổ, vỗ trúng ngực ba lão tống hôn sứ giả.
Cuồng Lãng Thần Chưởng ảo diệu ở chỗ hư thực khó phân. Trong ba mươi sáu đạo chưởng kình kia, nặng nhẹ hoàn toàn khác nhau, được đánh ra với tốc độ cực nhanh nên đối phương không tài nào phán đoán nổi. Ba lão già tội nghiệp kia rú lên thảm thiết, lăn lông lốc như trái cầu, chết không kịp trối.
Bốn lão sứ giả còn lại và Phi Hoàn đại lão trợn mắt kinh hoàng trước bản lình thần sầu quỉ khốc của người lạ mặt. Họ nhảy lùi lại quát hỏi:
- Ngươi là ai mà dám giả dạng Báo Ứng Lang Quân?
Chính Lan cười nhạt:
- Bổn nhân là đệ nhị đại của Lang Quân, có trọng trách tiêu diệt sạch bọn tà ma như lũ ngươi.
Nói xong, chàng vung chưởng đánh liền. Lúc này phe Bố Y hội đã thừa thế phản công. Lâm Chấn Hạo cũng sát cánh với họ. Phe Bạch Liên giáo thiếu cao thủ chủ chốt nên bị áp đảo.
Sơn Đông Tử Phòng câm như hến vung kiếm tấn công những người anh em cũ. Thanh Long Trảo Đặng Tân Dụ biết lão ta bị ép buộc nên chẳng nỡ xuống tay, chỉ tìm cách bắt sống.
Cả Thiểm Điện Thần Kiếm Đỗ Vĩnh Huy, Thiên Thủ Thư Sinh Trân Dật, Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều cũng có mặt ở đây.
Họ Trân thấy Sơn Đông Tử Phòng đang đánh với Thanh Long Trảo, liền lén phóng một viên thiết liên tử vào huyệt Ngưu Tỵ ở đầu gối phải của lão. Họ Từ khụy xuống, bị Thanh Long Trảo điểm huyệt, vác vào thạch thất.
Nhắc lại, Chính Lan dở pho Cuồng Lãng Thần Chưởng đấu với năm lão ma đã hơn trăm chiêu mà vẫn chưa giết được ai. Đối phương sợ hãi chàng nên dùng phép du đấu, tránh đòn trực diện và tấn công sau lưng.
Chính Lan thầm tính toán, xông vào Phi Hoàn đại lão. Họ Lý vội nhảy lùi, để bốn lão sứ giả tập kích hậu tâm Chính Lan. Nhưng việc tấn công đại lão chỉ là động tác giả, chưởng kình rất yếu ớt. Thực lực dồn cả vào song cước đưa chàng bay ngược về sau bọn sứ giả. Với vị trí thuận lợi này, Chính Lan xuất chiêu Lãng Đả Quần Thạch, hàng loạt chưởng kình như sóng dữ vỗ vào đầu đối phương. Bốn lão lùn trúng đòn gục ngã, xương đầu vỡ vụn.
Phi Hoàn đại lão hồn phi phách tán, co chân đào tẩu nhưng đã bị Chính Lan chặn đầu. Chàng cười lạnh lẽo bảo:
- Lý Hiểu Lộ, trước khi nhắm mắt lão sẽ biết ta là ai.
Dứt lời, chàng xuất chiêu Điệp Lãng Xuyên Sơn, chưởng kình thu gọn, nối nhau khoan vào màn hắc ảnh của song hoàn. Đôi vòng sắt bật khỏi tay đại lão, nhường đường cho một mũi tên máu bắn vào mắt lão, xuyên thủng não bộ. Công phu này đã tố cáo lai lịch của Chính Lan, nhưng họ Lý đã chết, chẳng thể khai báo với ai được nữa.
Chính Lan xoay qua hỗ trợ bọn Bố Y hội kết liễu chiến trường. Hơn trăm gã đao thủ Bạch Liên giáo đều chết sạch.
Bọn Thanh Long Trảo kéo đến tạ ơn tương trợ. Chính Lan nhìn những gương mặt thân quen, lòng bồi hồi xúc động. Nhưng chàng chưa dám nhận họ mà hỏi ngay:
- Chư vị tìm ra kẻ nội gián đã phóng hỏa chưa?
Thanh Long Trảo ngượng ngùng:
- Bẩm đại hiệp chưa ạ?
Chính Lan nghiêm giọng:
- Nếu không tìm ra kẻ ấy thì đừng mong gì chống lại Bạch Liên giáo.
Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều nghiến răng đáp:
- Đại hiệp dạy rất phải, tại hạ thề sẽ lôi cổ tên khốn khiếp ấy ra ánh sáng.
Chính Lan sợ Bạch Liên giáo dùng con tin để uy hiếp nên tuyệt đối không dám tiết lộ lai lịch. Trong thân phận Báo Ứng Lang Quân, chàng dễ đối phó với chúng hơn. Chàng lạnh lùng nói:
- Tại hạ tình cờ đi ngang đây, thấy bọn Bạch Liên giáo đáng ghét nên ra tay tiêu diệt, giờ xin cáo biệt.
Bọn Bố Y hội thấy võ nghệ của chàng còn cao siêu hơn cả Chính Lan, lòng vô cũng kính phục, hết lời cảm tạ chàng và Lâm Chấn Hạo.
Họ Lâm đắc ý phi thường vì có dịp được dương danh. Đồng thời trong trận vừa qua, gã thấy bản lĩnh mình lợi hại hơn hẳn, lòng vô cùng khoan khoái. Cả năm nay gã chỉ dám trừng trị vài gã lưu manh, vô danh tiểu tốt, giờ giết được đến bảy tám tên đao thủ Bạch Liên giáo, bảo sao gã không hoan hỉ?
Chấn Hạo vui vẻ nói:
- Tại hạ và Trọng huynh đã thề sẽ quét sạch tà ma, nếu chư vị biết tổng đàn của Bạch Liên giáo ở đâu xin chỉ giáo cho.
Thanh Long Trảo buồn rầu đáp:
- Bọn lão phu tìm kiếm đã lâu nhưng không thành công, có lẽ phải nhờ đến Cái bang mới được.
Chính Lan nhân dịp ấy dọ hỏi:
- Chư vị tìm tổng đàn Bạch Liên giáo làm gì? Tại hạ mới hạ sơn nên không rõ ân oán giang hồ.
Đặng lão bùi ngùi kể:
- Hội chủ của bổn hội là Hồng Nhất Điểm đại hiệp, tên gọi là Âu Dương Chính Lan. Hơn năm trước, người đến Bắc Kinh tiêu diệt bọn Ngụy Trung Hiền, cứu nguy cho xã tắc. Chính Lan thọ thương trậm trọng, trên đường về bị bọn đầu sỏ Bạch Liên giáo bây giờ phục kích, bỏ mạng dưới vực sâu. Sau đó, đối phương tập kích Âu Dương gia trang, dùng chim ưng rải độc phấn, bắt sống được toàn bộ gia quyến của Chính Lan. Bọn lão phu ngày đêm tìm kiếm nơi giam giữ để cứu họ ra.
Thiên Thủ Thư Sinh Trân Dật nhăn nhó, tiếp lời:
- Đáng sợ nhất là việc Bạch Liên giáo đã dùng các con tin cưỡng bách những người thân của bọn tại hạ trở thành kẻ thù, trở kiếm chống lại anh em.
Chính Lan cố nén thương tâm, hỏi thêm:
- Chẳng lẽ chẳng một ai thoát khỏi trận tập kích ấy?
Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều lúng túng nhìn quanh, thấy chỉ toàn những người thân thiết, liền hạ giọng:
- Đại hiệp có ân lớn, bọn tại hạ chẳng dám giấu diếm, chỉ mong người giữ kín dùm cho. Quả thực có một người thoát khỏi vòng vây, nhảy xuống Trường giang tìm đến Quí gia trang.
Chính Lan vui mừng khôn xiết, cố tỏ vẻ lãnh đạm:
- Đã có nội gián trên đảo, việc ấy đâu còn gì bí mật nữa?
Đỗ Vĩnh Huy biện bạch:
- Đại hiệp lầm rồi, việc này chỉ có vài người biết thôi. Người ấy được đưa đến đây, giấu vào mật thất trước khi Bố Y hội tụ quân.
Té ra trong tòa thạch thất kia có hầm ngầm. Chàng hài lòng, hờ hững hỏi:
- Thế người ấy là ai?
Thanh Long Trảo thì thầm:
- Ngũ phu nhân Liễu Thi Mạn. Nàng quen với chất độc nên không bất tỉnh ngay, kịp phá vòng vây chạy về phía bò sông. Dù bị trúng một chưởng vào lưng nhưng vẫn về đến Quí gia trang mới gục ngã.
Trịnh Thiều buồn bã tiếp lời:
- Tiếc rằng phu nhân cứ mãi mê man, cơ thể ngày càng hư nhược.
Chính Lan biến sắc, nhưng nhờ mang mặt nạ nên không ai phát hiện. Chàng nói thật chậm để không run giọng:
- Tại hạ có học qua y đạo, chữa trị được tất cả các loại chưởng thương. Nếu chư vị thấy cần, tại hạ sẽ ra tay cứu ngũ phu nhân.
Bốn người nhìn nhau ái ngại, sợ câu nam nữ hữu biệt. Trân Dật bi phẫn bảo:
- Chẳng lẽ vì chút tiểu tiết mà để ngũ phu nhân phải chết oan? Chính Lan là người độ lượng, chắc ở chốn suối vàng cũng hiểu cho bọn ta.
Ba người tán thành, Thanh Long Trảo vội nói:
- Lão phu cùng Trân lão đệ, Đỗ lão đệ ra tập họp anh em, trước là để kiểm tra thương vong, sau là để giữ bí mật việc trị thương. Trịnh đệ mau đưa Trọng đại hiệp vào thạch thất.
Chấn Hạo đi theo bọn Thanh Long Trảo vì không tiện đến nơi cấm địa. Giang Tây Thần Bộ đưa Chính Lan vào trong. Nửa ngoài là khách sảnh, ngăn với phần sau bởi một bức vách dày. Chính Lan hiếu kỳ hỏi:
- Đây là cơ ngơi của ai mà kiểu dáng kỳ lạ vậy?
Trịnh Thiều vội đáp:
- Bẩm đại hiệp, mười năm trước Bát Quái môn đặt căn cứ ở nơi đây. Tà phái này thường bắt cóc trinh nữ để hiến tế nên bị quân triều đình tiêu diệt. Tại hạ từng được tri phủ Giang Tây cử sang phối hợp với lực lượng bộ đầu An Khánh để điều tra, nhờ vậy mới biết rõ nơi đây.
Trịnh Thiều móc chìa khóa mở cánh cửa thép dày, vào rồi khóa lại ngay. Khu trong bày biện như khuê phòng của nữ nhân. Có giường hoa, có bàn phấn và kệ sách.
Họ Trịnh bước đến trước kệ sách, rút ra vài quyển rồi thò tay vào ấn một nút bí mật nào đấy. Chiếc giường trải nệm gấm kia tự động chạy sang một bên, để lộ nắp hầm. Xuống hết mười bậc thang, gã lại mần mò điều động cơ quan, nắp hầm sập xuống và có tiếng di chuyển về chỗ cũ của chiếc giường bên trên.
Chính Lan vô cùng thán phục người đã thiết kế ra cơ quan tinh xảo này. Căn hầm có kích thước rộng như tòa nhà bên trên, trần được chống đỡ bằng cột đá xây vững chắc. Chính Lan ngước lên, nhận ra một khe hở rộng hai gang chạy suốt nóc hầm. Gió và ánh sáng lọt vào từ đây. Té ra bức tường ngăn phía trên là hai lớp song song. Ngay dưới đường thông gió ấy có một chiếc giường gỗ. Người đang nằm thiêm thiếp chính Liễu Thi Mạn. Còn cô gái ngồi cạnh giường chẳng ai khác hơn Miêu nữ Tiểu Cúc tỳ nữ của nàng.
Chính Lan thắc mắc:
- Cô bé kia là ai vậy?
Trịnh Thiều bỗng đỏ mặt, ngượng ngùng:
- Nàng ta là Tiểu Cúc, tỳ nữ của ngũ phu nhân. Đêm ấy, nàng sang Quí gia trang thăm tại hạ nên không có mặt ở nhà. Nhờ vậy, mới có người chăm sóc ngũ phu nhân.
Chính Lan hiểu ngay họ Trịnh yêu thương nàng Miêu nữ kia nên lén lút hẹn hò.
Tiểu Cúc thấy người lạ vào, vội đứng lên. Bụng nàng nhô cao và cũng là lý do vì sao Giang Tây Thần Bộ đỏ mặt. Nếu là lúc khác, Chính Lan đã buông lời chọc ghẹo họ Trịnh. Nhưng giờ đây chàng đang bồi hồi, lo lắng cho Thi Mạn, nên chẳng nói gì, ngồi xuống mép giường thăm mạch. Chàng cau mày bảo Tiểu Cúc:
- Cô nương hãy lật sấp bệnh nhân, vén lưng áo nàng lên cho ta xem thử?
Tiểu Cúc là người Miêu nên không câu nệ lễ nghi, mau mắn làm theo lời chàng. Trịnh Thiều thở dài, bỏ lên trên, phó mặc cho số phận.
Chính Lan đã nhận ra lai lịch của chưởng thương. Tuyệt kỹ Tỳ Bà Am Thủ này là của Độc Giác Thần Ma tức Thái Sơn Phủ Quân Vũ Diên. Chàng suy nghĩ, cân nhắc một lúc lâu, cởi hết áo Thi Mạn ra, xoa bóp hai mươi bốn huyệt đạo trước sau. Luồng chân khí hùng hậu của chàng làm sống lại đường kinh mạch sắp khô cứng, giúp chân khí của Thi Mạn từ từ lưu chuyển. Chính Lan lại nhờ Tiểu Cúc giữ nàng ngồi lên để chàng truyền nội lực.
Nửa canh giờ sau, mồ hôi Chính Lan toát ra như tắm nhưng khí huyết của bệnh nhân đã điều hoà, mặt thoáng sắc hồng. Chỉ cần tĩnh dưỡng mươi hôm, Thi Mạn sẽ hồi phục như xưa.
Chính Lan bảo Tiểu Cúc:
- Cúc nhi, ngươi mặc lại áo cho phu nhân đi.
Còn chàng bước xuống giường ngồi cạnh vách tĩnh tọa. Khi chàng mở mắt ra thì chung quanh có năm người đang chờ đợi. Nghĩa là có thêm Sơn Đông Tử Phòng Từ Kính Nhan. Họ sụp xuống vái lạy:
- Ơn cứu tử ngũ phu nhân, bọn tại hạ nguyện làm thân khuyển mã để đáp đền.
Chính Lan bình thản đáp:
- Chút công lao nhỏ mọn, chẳng đáng để chư vị bận tâm, xin mời đứng lên.
Sơn Đông Tử Phòng nghiêm giọng:
- Đại hiệp là truyền nhân của Báo Ứng Lang Quân, chắc là một lòng vì võ lâm mà càn quét tà ma. Bọn lão phu muốn tôn người là hội chủ Bố Y hội để tiêu diệt Bạch Liên giáo, mầm đại họa của võ lâm.
Chính Lan mỉm cười:
- Chắc các vị muốn lợi dụng ta để báo thù cho Hồng Nhất Điểm chứ gì?
Từ lão không hề bối rối, gật đầu ngay:
- Đại hiệp đoán không sai, nhưng thực ra hai bên cùng có lợi. Nếu đại hiệp cứu được thân quyến của Âu Dương công tử, bọn lão phu xin dâng năm vạn lượng hoàng kim còn như giết luôn được ba lão Thái Sơn Phủ Quân, Đào Hoa cung chủ, Miêu Ưng Lão Tổ sẽ được thêm hai vạn lạng vàng cho mỗi thủ cấp.
Số vàng khổng lồ kia quả là vô cùng hấp dẫn, khó ai cưỡng lại được. Chính Lan đoán ngay Quí Thành Lâm là hậu thuẫn cho bọn họ. Chàng cười mát:
- Còn chư vị sẽ khoanh tay chờ kết quả hay sao?
Đỗ Vĩnh Huy nóng nảy đáp:
- Làm gì có chuyện ấy, bọn tại hạ sẽ giao sinh mạng mình cho đại hiệp sai phái, dẫu chết cũng chẳng sờn lòng.
Chính Lan gật gù:
- Thế thì được, tại hạ sẽ suy nghĩ về đề nghị của chư vị. Nhưng trước tiên xin cho biết kế hoạch hành động trước đã.
Từ lão vuốt râu đáp:
- Hòn đảo này có vị trí rất tốt, nếu phòng thủ chu đáo hơn bọn Bạch Liên giáo khó mà vào được. Nay nội gián chưa tìm ra có dọn đi nơi khác cũng vô ích. Chờ ngũ phu nhân bình phục, chiêu mộ lại đàn độc phong đang tản mác quanh nhà cũ, nơi này càng vững chắc hơn. Thứ hai, bọn lão phu sẽ phong tỏa căn cứ, không cho ai ra cả, như vậy Bạch Liên giáo sẽ không biết rõ nội tình, tất kéo quân đến một lần nữa. Chúng ta dùng kế dĩ dật đãi lao, nắm chắc phần thắng lợi.
Chính Lan im lặng tán thành và tò mò hỏi:
- Vì sao các hạ lại không rời bỏ Bạch Liên giáo sớm hơn?
Từ Kính Nhan thở dài:
- Lão phu và bọn Hách Thiết Xuyên đâu biết rằng ngũ phu nhân còn sống và anh em Bố Y hội tụ họp nơi này, nên đành nhẫn nhục chịu sự khống chế, chờ cơ hội cứu gia quyến của Âu Dương công tử.
Chính Lan vẫn còn thắc mắc:
- Vì sao Bạch Liên giáo không giết hết con tin mà lại lưu lại làm gì? Võ công của bọn Lôi Đao, Thiết Xuyên đâu đáng để Bạch Liên giáo phải nhọc công lôi kéo?
Sơn Đông Tử Phòng ngượng ngùng thú nhận:
- Đại hiệp luận việc rất chính xác. Bạch Liên giáo giữ lại con tin để sau này uy hiếp Hỏa chân nhân Tây Môn Nhỉ. Ông ta đã bất ngờ đào tẩu giữa đường và hăm dọa sẽ kéo Hỏa giáo ở Tây Vực vào Trung Nguyên. Hỏa khí của họ vô cùng lợi hại, vì vậy Thái Sơn Phủ Quân không dám đụng chạm đến con tin, và giữ kín hạ lạc tổng đàn.
Chính Lan yêu thương Hỏa chân nhân, xem ông như cha mẹ ruột của mình, nên rất hân hoan. Chàng vui vẻ nói:
- Nếu đúng như vậy thì giờ này Hỏa chân nhân đã sắp vào đến Trung Nguyên, chúng ta không đơn độc nữa rồi.
Bỗng chàng trở nên tư lự, im lặng rất lâu và tuyên bố:
- Tại hạ sẽ ở đây cho đến lúc ngũ phu nhân bình phục, sau đó sẽ trả lời dứt khoát.
Cả bọn rời mật thất, trở lên mặt đất. Chính Lan và Lâm Chấn Hạo được bố trí ở ngay trong khách sảnh tức nửa ngoài của tòa nhà bát giác.
Sáng mười tám tháng ba, Sơn Đông Tử Phòng đến bàn bạc với Chính Lan:
- Muốn tìm ra nội gián, phải mời cho được Ma Nhãn đầu đà Nhiếp Văn Sở ở Mỹ Nhân Cốc, cạnh dòng sông Ô Giang. Lão ta có thuật nhiếp hồn rất cao cường, hỏi ai cũng lòi ra sự thật. Ngoài ra, lão còn thiện nghề độc dược, rất có ích cho chúng ta.
Chính Lan có biết nhân vật tà quái ấy, chàng cười bảo:
- Chưa chắc vàng ròng đã thu phục được Ma Nhãn đầu đà, ta sẽ cùng đi với Từ các hạ.
Từ lão cũng có ý ấy, mừng rỡ chấp thuận ngay. Hai người lên thuyền con rời đảo, vào trấn lấy ngựa của Chính Lan và Lâm Chấn Hạo, đi về hướng đông.
Trên đường đi, Từ lão kể lể:
- Ma Nhãn đầu đà vốn là người dân tộc Xá, tướng mạo cổ quái, xấu xí nên mặc cảm, ít khi ra khỏi Mỹ Nhân Cốc.
Chính Lan bật cười:
- Lão ta như vậy sao lại đặt tên nơi ở là Mỹ Nhân Cốc?
Từ Kính Nhan giải thích:
- Thứ nhất trước cửa cốc có một ngôi mộ cổ bằng đá, trên bia có khắc độc một chữ Ngu. Thứ hai, dân gian vùng Ô giang có truyền tụng rằng Hạng Vũ đã đem xác Ngu Cơ Từ Chi Hạ theo mình, lúc cùng đường mới chôn nàng ở sơn cốc, và ngôi mộ cổ kia chính là của Ngu Cơ. Vì vậy, sơn cốc kia được gọi là Mỹ Nhân cốc đã hàng trăm năm nay. Khi Ma Nhãn đầu đà chọn nơi ấy làm chỗ ẩn cư thì vẫn giữ nguyên tên cũ.
Trưa hôm sau, Chính Lan và Sơn Đông Tử Phòng đến Mỹ Nhân cốc. Quả nhiên, ngay mé hữu của cốc là một ngôi mộ cao hơn đầu người, chung quanh cỏ mọc đầu, kẽ đá kín rêu xanh. Lạ lùng thay, dưới gốc hàng liễu gìa có cột đàn ngựa độ bảy con. Và trong cốc vọng ra tiếng quát tháo, tiếng rên la. Hai người vội xuống ngựa, lướt vào bên trong. Trước mặt họ là bãi chiến trường khốc liệt giữa một tăng nhân tóc dài cổ đeo vòng niệm châu tay cầm thiền trượng với sáu lão già mặc Miêu phục, sử dụng Miến Đao. Đứng vòng ngoài là một bà lão người Miêu gầy như que củi. Cuộc chiến vẫn quân bình nên Chính Lan và Từ lão ẩn sau một bụi cây quan chiến. Người lão luyện giang hồ chẳng bao giờ vội vã can thiệp khi chưa thật cần thiết. Từ Kính Nhan hạ giọng:
- Sáu lão già mặc Miêu phục kia chính là Nam Hoang lục tà. Không hiểu họ có oán thù gì với Ma Nhãn đầu đà mà lại đến đây?
Chính Lan gật gù tán thưởng thần lực và pho trượng pháp ảo diệu của Ma Nhãn đầu đà. Bản lãnh họ Nhiếp có thể so với Hỏa chân nhân Tây Môn Nhỉ. Một mình lão tả xung hữu đột giữa vòng vây của lục tà mà chẳng hề nao núng. Bỗng bà lão người Miêu mặc y phục xanh đỏ diêm dúa kia cười lên the thé:
- Nhiếp Văn Sở, hai mươi năm không gặp, xem ra lão tiến bộ hơn xưa. Nhưng bổn động chủ sẽ cho lão nếm mùi bảo bối.
Dứt lời, từ trong ống tay áo mụ ta bay ra hai con rết có cánh, thân dài ba gang, lưng đen bụng đỏ. Cặp rết giương đôi cánh bay vào trận, phủ sương độc xuống đầu Ma Nhãn đầu đà. Lão ta có vẻ úy kỵ chất độc kia, vung trượng cố đánh bạt đi. Sơn Đông Tử Phòng thấy cặp rết bay, nhận ra lai lịch đối phương.
Lão nhăn mặt bảo:
- Té ra mụ già kia là Ngô Công động chủ ở Nam Lĩnh. Mụ ta nổi danh vua độc vật ở Miêu Cương. Phen này Ma Nhãn đầu đà nguy rồi.
Chính Lan từng được nghe Liễu Thi Mạn kể chuyện đất Miêu nên biết cả bảy người kia. Nam Hoang lục tà tàn ác hại người, có giết đi cũng chẳng sao.
Nhưng Ngô Công động chủ Bội Liên kia lại là cháu ruột của Kim Xà phu nhân sư phụ Thi Mạn. Bà ta tính tình kiêu ngạo, lạnh lùng nhưng không có ác tính gì cả. Nếu chàng nói ra lai lịch thì Ngô Công động chủ sẽ rút lui ngay, nhưng chàng lại không dám. Giữ kín thân phận là điều kiện tiên quyết để đối phó với Bạch Liên giáo.
Lúc này, Ma Nhãn đầu đà đã yếu thế, trúng một đao vào vai trái. Chính Lan không dám chần chừ, lướt nhanh vào trận. Trước tiên, chàng vung chưởng đánh văng cặp Tứ Dực Ngô Công đi. Chưởng kình nặng như búa bổ khiến đôi rết đau đớn và sợ hãi, bay về với chủ nhân.
Kế đó, Chính Lan bốc thẳng lên không trung, giáng chưởng xuống đầu ba lão trong lục tà. Chiêu Hải Thượng Hàng Long chỉ gồm chín đạo chưởng phong nhưng mãnh liệt vô song. Ba lão người Miêu đâu biết chàng là ai, thản nhiên múa đao chống cự. Khi chưởng kình ập xuống như núi đổ thì mới thức ngộ ra hiểm cảnh. Nhưng đã quá muộn màng, họ gào lên, rồi gục chết.
Bản lãnh hiện nay của Chính Lan còn cao cường hơn cả Hoàng Hạc Tú Sĩ và Báo Ứng Lang Quân ngày trước. Nhất là pho Cuồng Lãng Chưởng Pháp càng bội phần lợi hại. Nguyên do là vì chàng luyện Thái Âm chân khí, chưởng kình âm nhu, mềm mại, phát ra rất êm ái, khi chạm mục tiêu đối phương mới phát hiện ra nó mãnh liệt đến dường nào.
Ma Nhãn đầu đà thừa cơ nhảy lùi, tròn mắt nhìn chàng trai lạ mặt. Ông không tin rằng có kẻ lại giết được tam tà chỉ trong một chiêu. Và Chính Lan đã xóa tan nghi vấn ấy bằng chiêu chưởng thứ hai. Song thủ của chàng xoáy tít, vỗ liền ba mươi sáu thức trong chiêu Quần Ngư Dược Ba, đánh thủng luồng độc phấn của ba lão còn lại. Thân ảnh chàng như mũi tên lao vút qua màn phấn trắng, giáng chưởng vào ngực đối phương. Hai chiêu giết sạch Nam Hoang lục tà, Ngô Công động chủ sợ đến nhũn cả tứ chi. Bà càng kinh hoàng khi thấy đại sát tinh trẻ tuổi kia bước về phía mình.
Nhưng chàng ta lại nở nụ cười hiền hoà:
- Vì sao động chủ lại theo Nam Hoang lục tà đến chốn này?
Chung nương ngỡ ngàng đáp:
- Lão thân có một người sư muội bị Bạch Liên giáo bắt giam. Lục Tà bảo rằng họ biết vị trí tổng đàn, và nếu lão thân giúp họ giết được Ma Nhãn đầu đà, thì lục tà sẽ hợp lực cùng lão thân đến đấy cứu Liễu nha đầu.
Chính Lan không ngờ bà ta lại nặng tình với Liễu Thi Mạn như vậy. Chàng cảm động nói:
- Động chủ muốn Thi Mạn thì xin đi theo tại hạ.
Ngô Công động chủ hân hoan gật đầu. Lúc này, Ma Nhãn đầu đà đã được Từ lão băng bó xong. Lão bước đến lạnh lùng nói:
- Lão phu chẳng phải kẻ vô ơn, nhưng không thích người ngoài xen vào chuyện của mình. Các hạ đến đây chắc có dụng ý?
Tính lão cổ quái đến mức này thì quả là hiếm có. Sơn Đông Tử Phòng bối rối trình bày ý định của mình. Nào ngờ Đầu Đà cười nhạt:
- Lão phu đã chán sống và không muốn dính vào ân oán giang hồ. Nếu nhị vị muốn đòi lại mạng này, lão phu sẵn sàng tự sát cho sạch nợ.
Từ Kính Nhan chết điếng người, chẳng biết phải đối phó thế nào với lão quái vật này. Đến Ngô Công động chủ còn phải than trời:
- Thực ta chưa thấy trên đời có ai lại cổ quái hơn lão.
Vậy mà Chính Lan lại thản nhiên ngâm nga:
“Nhân nhàn quế hoa lạc
Dạ tĩnh xuân sơn không
Nguyệt xuất minh sơn điểu
Thời minh xuân giản trung.”(15)
Ma Nhãn đầu đà biến sắc hỏi ngay:
- Các hạ ngâm bài Điểu Minh Giản(16)này có ý gì?
Chính Lan ung dung đáp:
- Bốn năm trước, tại hạ đi ngang cánh rừng ở chân núi Thái Bạch. Tình cờ có cứu được một gã tiều phu thoát khỏi nanh vuốt mãnh hổ. Gã liền mời tại hạ về nhà chơi, say sưa suốt ba ngày. Gã thường ngâm nga bài thơ ấy nên tại hạ thuộc lòng. Cả hai đứa con trai nhỏ bé của gã cũng thuộc, chúng rất kháu khỉnh và thông tuệ. Gã tiều phu ấy kể rằng vì tình yêu đối với người vợ hiện tại mà bị thân phụ đuổi đi. Lòng lúc nào cũng nhung nhớ cố hương mà chẳng dám về.
Ma Nhãn đầu đà như người bị chùy sắt nện vào, lảo đảo ôm ngực. Lão run rẩy hỏi:
- Các hạ có gặp vợ của hắn không?
Chính Lan nghiêm giọng:
- Có chứ, nàng ta quả là một hiền phụ hiếm có, đối với trượng phu một lòng kính cẩn và yêu thương. Dù cảnh nhà có nghèo khó vẫn luôn cười, cần mẫn chăm sóc con thơ.
Ma Nhãn đầu đà sa lệ lẩm bẩm:
- Tội nghiệp Vân nhi, té ra ta mới là kẻ hồ đồ.
Lão quì xuống vái tạ:
- Ơn cứu mạng khuyển tử, lão phu xin đê đầu bái tạ. Mong công tử chỉ chỗ để lão phu đi rước con cháu về.
Chính Lan mỉm cười:
- Tôn giá cứ viết thư, tại hạ hứa trong vòng ba tháng sẽ đưa được gia đình Nhiếp Tường Vân về đây. Trước mắt, mong tôn giá đến Vu Hồ giúp Bố Y hội tìm ra nội gián. Việc này rất cấp bách, mong tôn giá giúp cho.
Ma Nhãn đầu đà khẳng khái nói:
- Lão phu xin tuân mệnh.
Và lão ngượng nghịu cười:
- Thực ra thì lão phu cũng rất xấu hổ khi đến đấy. Công tử rước dùm là thượng sách.
Lão đã nói thực lòng mình, vì mười năm trước, con trai lão là Nhiếp Tường Vân đã chuộc một kỹ nữ về làm vợ. Đầu đà nổi lôi đình đuổi cả hai đi. Sau đó, lão sống trong niềm ray rứt khôn nguôi, tính tình trở nên quái dị. Nay nghe nói nàng kỹ nữ kia rất hiền thục và sanh cho lão hai đứa cháu trai, đầu đà mừng như sống lại. Nhưng bảo lão đến tận nơi rước về thì biết ăn nói làm sao đây?
Ma Nhãn đầu đà vác sáu tử thi quăng xuống Ô giang, giao sơn cốc lại cho lão bộc già, thu xếp hành lý đi theo Chính Lan. Tất nhiên Ngô Công động chủ cũng tháp tùng.
Chiều hôm sau, bốn người về đến Vu Hồ. Ngay đêm ấy, Ma Nhãn đầu đà thi triển Nhiếp Hồn đại pháp, tra hỏi từng người. Khi đến lượt Kim Hoàn Đao Trương Lân thì gã cắn lưỡi tự sát. Không còn ai khác, mọi người yên tâm, hết lời tán dương đầu đà. Nhiếp lão đã giải tỏa được nỗi niềm riêng nên rất vui vẻ, hòa đồng, không khó chịu như trước nữa. Nhưng Chính Lan vẫn khăng khăng giữ kín bí mật sống còn của mình, tiếp tục đóng vai Báo Ứng Lang Quân đệ nhị đại.
Hai ngày sau, Tiểu Cúc lên báo rằng Thi Mạn đã hồi tỉnh, bắt đầu ăn uống đều đặn. Sơn Đông Tử Phòng dắt Ngô Công động chủ xuống mật thất thăm nàng. Chính Lan thản nhiên đi theo.
Chung nương vừa thấy Thi Mạn đã chạy đến ôm và khóc lóc:
- Tội nghiệp sư muội, mới đôi mươi mà đã góa chồng, lại còn bệnh hoạn suýt chết thế này.
Bà liến thoắng kể lại cho nàng nghe câu chuyện ở Mỹ Nhân cốc. Thi Mạn cũng không ngờ vị sư tỷ khô khan này lại là người đầy tình nghĩa như vậy.
Trịnh Thiều giới thiệu Chính Lan với nàng:
- Bẩm phu nhân, đây chính là Trọng đại hiệp, người đã chữa trị vết chưởng thương cho phu nhân.
Khi tỉnh lại, nàng đã được tỳ nữ Tiểu Cúc kể lại cho nghe. Giờ thấy mặt ân nhân, lòng càng thêm hổ thẹn. Chàng trai anh tuấn, tài ba kia đã đụng chạm đến thân thể nàng. Nhưng do bản chất sơn dã, phóng khoáng, nàng không đặt nặng vấn đề nam nữ hữu biệt, nhanh chóng xua tan nỗi băn khoăn trong lòng. Thi Mạn vòng tay nói:
- Tiểu muội cảm ơn đại hiệp đã cứu mạng.
Chính Lan nhìn gương mặt gày gò, hốc hác, lòng yêu thương bừng cháy. Chỉ muốn bước đến ôm nàng vào lòng. Nhưng hoàn cảnh không cho phép, chàng đành gượng cười, nói vài câu khách sáo:
- Phu nhân chớ có bận tâm vì việc ấy. Tương trợ đồng đạo là nghĩa vụ của người hiệp khách.
Thi Mạn buồn bã bảo:
- Khẩu khí của đại hiệp chẳng khác gì tiên phu lúc còn sinh thời.
Chính Lan giật mình, tự nhủ sẽ cẩn trọng hơn.
Những ngày sau đó, Bố Y hội rộn ràng dốc sức xây dựng lại căn cứ và tuyến phòng thủ. Ngô Công động chủ đến khu rừng quanh Âu Dương gia trang, chiêu mộ đàn độc phong của Thi Mạn đưa về Vu Hồ.
Bà và Ma Nhãn đầu đà trở thành hộ pháp của Bố Y hội. Đầu tháng tư, Thi Mạn đã hoàn toàn bình phục, Chính Lan lặng lẽ rời Vu Hồ, không nói một lời từ biệt. Lâm Chấn Hạo bị bỏ lại, vui vẻ tham gia Bố Y hội.