Tác giả tự bạch:
Tôi tên Phạm Hùng, bút hiệu Phạm Tiến Nam (trở về nước Nam, hoài bão lớn nhất trong đời tôi ). Sinh quán Bắc Ninh, vào Nam khi đất nước bị chia cắt, bỏ nước ra đi đến bến bờ tự do năm 1080, sau nhiều lần bị tù tội. Đến năm 12 tuổi tôi vẫn còn bị mù chữ ( sinh năm 1941, đến tuổi đi học thì quê huogn chinh chiến! Theo gia đình chạy giặc đến gần biên giới Hoa Việt. Trước năm 1975 tôi là giám đốc ngân hàng, giảng sư đại học.
Định cư tại quận Cam từ năm 1981 đến nay, làm nghề tự do, tự học lấy bằng Master Of Business Administration, và sau đó hoàn tất học vị tiến sĩ Quản Trị Hành Chánh ( Doctor Of Business Administration ) Suốt tuổi trẻ, mò cua bắt ốc, mù chữ, những kinh nghiệm tránh pháo rất già dặn, hai lần bỏ xứ ra đi, tôi nhấn mạnh trong vài dòng tiểu sử này như một thông điệp đến những người trẻ sau tôi. Đến hải phận rồi, anh “nái” đi. Người tài công, cũng là chủ tàu – một thuyền đánh cá chưa đầy 12m chiều dài, chòng chành, ọp ẹp – niềm hãnh diện của hắn: Ghe ba “đầu bạc” (máy mạnh, có khả năng đi xa ). Hắn lui ra sau, tôi ra hiệu bảo hắn tiếp tục lái, “lấy 23 độ tây nam”, tôi nói. Tôi rùng mình nghe rờn rợn luồn vào sau gáy, chạy dọc sống lưng ! Lần đầu tiên trong đời điều khiển Con thuyền, gần trăm sinh mạng nương tựa vào tôi .
Từ Phước Tỉnh, hắn vào Sài Gòn cưới vợ thành thị . Do người bạn tù vượt biên môi giới, tôi quen được hắn, tôi loè hắn nói không ngượng mồm, rằng tôi học giỏi, nói tiếng Anh giỏi, giỏi nghề đi biển, hắn chỉ lái tới hải phận, sau đó mình tôi “bao dàn”, tới Mã ngay chóc. Tôi cố thuyết phục hắn cho chuyến đi này, vì đã nhiều lần tanh bành tù tội, hắn tin tôi lắm, còn cho bớt nửa cây vàng nữa, mỗi đầu người hắn lấy 3 cây. Hắn mười mấy năm “đi chã” (đánh cá ngoài khơi ), kinh nghiệm dầy dạn, còn tôi vừa mới học lóm được vài điều sơ đẳng từ đứa cháu học trường Hàng Hải Thương Thuyền, cháu dặn: “ Cậu lấy 23 độ tây nam khi tới hải phận quốc tế để đến Mã nếu đi từ Vũng Tầu, biển mình sâu chừng 60 fathom, tháng tư tây có gió Monsoon (gió nồm), trời tháng ba bà già đi biển mà cậu !”
Hành trang mang theo của tôi còn cuộn dây dài gần 60 sải, có một cục sắt nhỏ ở đầu dây để dò nông sâu đáy biển, một ít lương khô, sắm cái ống nhòm và hai viên hỏa pháo.
Đi hơn một ngày đường, người tài công reo lên: “Đến rồi, đến rồi”. Sao mà mau thế, tôi không tin hỏi hắn: “ tàu em chạy mấy hải lý một giờ?”. Hắn nhăn nhó lắc đầu cười hềnh hệch. Tôi móc trong túi ra cuộn dây, thả xuống biển, hết cả cuộn dây mà có cột cục sắt vẫn chưa đụng đáy. Tôi la lên thuyền quay lại hướng cũ.
Vài tiếng đồng hồ sau, cũng chính hắn hớt ha hớt hải la to, bảo rằng thuyền đang đi ngang qua Côn Đảo, mọi người nằm rạp xuống. Mấy thanh niên vội giăng lưới lên, giả làm thuyền đi đánh cá . Phải vài tiếng sau, núi đồi Côn Đảo mới mờ dần trong tầm mắt . Giã từ quê hương yêu dấu !
Lúc ở nhà tôi vò đầu suy tính, đi Thái Lan thì gần, nhưng sợ hải tặc, bọn chúng tàn ác, qua Phi hay Nam Dương, phải vượt đại dương, đi Mã, chọn lựa sau cùng. Bốn ngày đêm đã qua, mịt mờ bờ bến, chỉ toàn nước trời mênh mông. Dầu đã cạn cùng với lương khô và nước uống. Đàn bà, trẻ con, người già yếu, rũ rượi la liệt ngổn ngang nằm trên mạn thuyền, vài ngày nữa mà không đến là chết cả thuyền. Vì công an theo dõi ngặt ngèo, sơ hở một tí là bị tóm ngay, nhiều người phải mang dầu đi chôn. Riêng tôi dặn hắn lấy ruột tượng đựng lương khô, bỏ dầu vào bao nylon, quấn ngang người, tải từ từ lên ghe, ròng rã nhiều thàng trời mới mang được chừng năm ngày dầu. Biển lặng, có gió nồm thổi xuôi Nam.
Xa xa có một con tàu, lấy ống nhòm ra chỉ thấy được một khoảng cách vài thước, bèn bắn pháo báo nguy, pháo xịt cả hai viên ! Tàu lại gần hơn, mọi người vẫy tay khẩn nài. Những cánh tay rã rời buông xuống, tiếng kêu tuyệt vọng dâng lên, tàu hải tặc đụng vào mạn thuyền chúng tôi, mấy tên đen ngòm, tóc xoăn, mắt trắng dã, mặt như quỷ dữ man rợ rợn người, quấn loại sà rông sắp tụt, lâm râm van vái, có tên còn lần tràng hạt ! Sau màn cầu nguyện, chúng la hét, sấn sổ nhẩy qua ghe chúng tôi, mã tấu, súng dài bắn loạn xạ.
Chúng lùa trai tráng vào góc thuyền, phụ nữ người già lùa vào một nơi. Chung nắn, bóp, xé quần xé áo, lột cả nịt ngực quần lót ra xem ! Tháo nhẫn dựt giây chuyền, bứt bông tai, miệng hét, tay nắn, chân đạp, đồng bọn đứng gác lăm le nổ đạn. Chúng dùng dao rạch các túi hành lý, lục lọi tung toé, chọn những thứ gì có giá bỏ vào những túi lớn chúng mang theo. Sau đó quay sang đánh đập, khảo tra đám trai tráng . Không ai dám chống, trẻ nhỏ cũng im thin thít, ai nấy im lặng chờ những nhát chém lạnh như thép phậm vào sau gáy.
Bỗng có chiếc thương thuyền đang tiến lại gần, bọn hải tặc lơ láo vội rút đi. Thương thuyền lướt qua, nhiều người quỳ xuống van lậy, xì xụp kêu gào, tế như tế sao ! Chiếc thương thuyền vẫn lặng lẽ rẽ sóng, để lại sau lưng nhiều lọn sóng cao, thuyền con chúng tôi như muốn lật nhào, tiếng khóc òa lên, vật vã kêu gào, thần chết chập chờn lởn vởn !
Gần năm ngày đêm ròng rã, chỉ toàn mênh mông biển rộng, biển xanh liền với chân trời. Mây vàng đỏ ối nơi cuối chân trời, có bầy hải âu bay lượn, người tài công reo lên, nói rằng thuyền đã gần đến bờ, hắn bỏ tay lái để chỉ cho mọi người nhìn rác rến trôi lềnh bềnh trên mặt biển. Tôi lấy cuộn dây trong túi thả xuống nước, một nắm dây vẫn nằm trong lòng bàn tay, mà đầu dây đã chạm đến đáy biển . Tôi lẩm bẩm “ba mươi fathom, đến thật rồi !”
Tôi cho thuyền chạy hướng chính tây để đâm vào bờ, gần nửa đêm nhìn bằng mắt thường cũng thấy đất liền, ánh đèn lập loè, tử thần đã đi qua ! Khôgn cặp thẳng bờ, tôi cho thuyền xuôi nam song song bờ biển, lánh xa vùng Bắc Mã có du kích Mã Cộng. Dự định vào đến bờ phải gặp ngay các cơ quan thiện nguyện và giới truyền thông, lọt vào tay bọn lính biên phòng, trước khi truyền thông biết là đại họa: Thuyền bị đục thủng, hút cạn hết dầu, cho tàu chiến kéo thuyền tị nạn ra khơi, chặt đứt dây. Nhiều thuyền đầy ắp người, bị kéo ra giữa khơi mùa biển động, rồi sau đó chẳng ai nghe gì về những con thuyền bạc mệnh ấy !
Trời đã sáng nhìn rõ mặt người, dầu cũng hết, tôi cho thuyền vào bờ, thuyền cặp bãi cát của thành phố nghỉ mát Kuantan một buổi sáng đầu tháng 6 năm 1980, bãi vắng hoe, thành phố còn thiu thiu ngủ. Mọi người chạy ùa lên bãi cát, gặp ngay anh Mỹ đen, tôi khẩn nài nhờ anh giúp. Một lát sau anh quay trở lại cười báo tin vui rằng anh đã gọi được nhiều nhà báo, báo với cả Liên Hiệp Quốc, anh còn cho một cây thuốc lá Mã Stuf, ân cần dặn dò và chúc may mắn. Tôi ngậm ngùi xiết chặt tay anh .
Chiếc thuyền cưu mang chúng tôi đã chìm hẳn, nếu không thì tôi cũng phải đục thủng nó, mọi người yên lòng: thuyền đã chìm, đã gặp được nhiều nhà báo, bọn Mã không dám đẩy chúng ta ra lại ngoài khơi. Mãi quá trưa quân đội mới tới, bốn tên lính Mã quân phục xộc xệch, đi dép nhựa, đeo súng săn, tay cầm gậy dài, hỏi chúng tôi ai là người trưởng đoàn, đập vào đầu tôi mấy hèo dằn mặt ! Không đau đòn, nhưng đau lòng, tủi phận. Sau này trên đường đi định cư Hoa Kỳ, tôi được ghé Hồng Kông để đổi máy bay, bọn chúng tôi rách rưới. Mấy tên cảnh sát phi trường dùng dùi cui xua đuổi, hăm dọa đánh đập những ai đi ra khỏi chỗ ngồi qui định . Ai đã đưa dân tộc Việt nam đến tình cảnh khổ nhục này ?
Pulau Bidong là một hoang đảo ở giữa đại dương, rộng vài cây số vương, lởm chởm núi đá, mấy chục ngàn người chen chúc, dựng lều ven vách núi chui rúc, lúc cao điểm gần 60 ngàn người. Trước ngày tôi đến đảo vài tháng, thế giới đã phải kêu lên rằng “ có phép mầu, bệnh dịch mới không xảy ra”.
Ban ngày người ta chen nhau đi như buổi chợ phiên, bụi mù mắt, nắng cháy da, tiếng ồn ào như vỡ chợ. Có những vùng đất trống, phân người và nước tiểu lầy lội lên đến mắt cá, ruồi nhặng vù vù bay kín trời, mùi hôi thối nồng nặc, nắng trưa khắc nghiệt tăng độ nồng, cơn gió nóng thổi qua, đẩy dội ngược lại đằng sau, những ai hít phải sặc sụa cúi gập người xuống ôm ngực. Chuột từng bầy, to bằng bắp chân trẻ con, trụi lông, thân mình đỏ lòm lở lói, hai cục hạch to bằng hai viên sỏi, khệnh khạng di chuyển chậm chạp lền khên, nhìn thấy lần đầu nhiều người nôn mửa ! Dọc theo con suối cạn, xác chuột nằm rải rác kín hai bên bờ, đi hứng nước tắm phải khéo lắm mới không dẫm phải xác chuột đã sưng vù. Hằng ngày nhiều thanh niên đi nhặt xác chuột bốn năm cần xế bự đầy vun tới bốn năm thanh niên lực lưỡng khiêng mới nổi.
Trong trại, những băng đảng nổi lên cướp bóc, hãm hiếp, mãi sau nhờ lính Mã tăng viện mới dẹp được. Những tranh giành lều chiếu, nơi ở tiện nghi, rồi nào tham ô, những lạm với những đổi chác để mong sớm được rời đảo. Có chợ mọc lên buôn bán, hàng hóa lính Mỹ đem qua từ đất liền, tiệm ăn, quán cà phê mọc lên ven bãi cát. Những máy tàu cải chế thành máy phát điện, gạo tẻ và khí đá chế thành rượu để uống say mèm quên đời lưu vong .
Thời gian tạm trú trên đảo thường thì trên dưới một năm, một năm cũng là dài đăng đẳng ! Những cuộc tình vội vàng, chắp nối nở rộ. Lộng ngôn mới gọi đó là những cuộc tình, thật ra chỉ là những chung đụng thân xác, được vài ba tháng thì lại chia tay nhau, mỗi người đều có phận riêng. Thuốc ngừa thai được Liên Hiệp Quốc phát không rộng rãi. Thế nhưng vẫn có tiêng khóc chào đời, tiếng khóc dư thừa ngoài mong đợi. Chưa kể những thai nhi bị xóa đi dấu vết sau “những cuộc tình trên đảo”...
Ở Bidong tôi làm việc trong phòng điều tra tội ác hải tặc, tôi thường phỏng vấn đồng bào tị nạn khắp nơi dạt vào đảo, xin kể ra đây những cảnh Kinh hoàng, tất cả là sự thật, vì trí tưởng tượng của loài người không thể nào có thể dựng lên, dù chỉ bằng phần nhỏ, những chuyện tôi sắp kể...
Có thuyền trôi dạt, đáp vào bờ cát Bidong, thuyền gần trăm người, chết còn mươi mạng, chết vì đói, chết vì khát, bị hải tặc chém đầu ném xác xuống biển cho cá dữ rỉa thây. Có thuyền bị cháy nám, lờ đờ trôi gần đảo, con thuyền ma không còn ai cầm lái, thanh niên Bidong chèo ghe ra kéo thuyền vào bờ cát, thuyền còn lại mươi người thoi thóp, nằm la liệt trên mạn thuyền, xác người ngổn ngang bốc mùi, có những bé thơ chết hồn nhiên nằm ôm vú mẹ. Có bà mẹ được dìu xuống bến, vẫn ôm chặt đứa bé trong tay, bỗng òa lên khóc, đứa bé đã chết từ lâu, bà vật vã gào thét không ra tiếng khóc, bà vẫn mớm con bằng chính nước dãi của mình, bà vẫn lấy nước tiểu của con, vàng khè quánh đặc, để rửa kinh trong những ngày có tháng !
Có mấy em gái khệnh khạng, áo quần tả tơi, bê bết vết máu đã khô đen, lờ đờ lảo đảo lên bờ trên cát, em chợt ngồi xuống ôm mặt thều thào gọi mẹ cah, em khóc không ra nước mắt. Lúc sau tỉnh lại, em gặp được mẹ được cha, được cả anh và cả thằng em trong đống xác người vừa mới được chuyển từ thuyền lên bãi cát, những cái xác tô hô nằm trên cát nắng thiêu người, không manh chiếc rách để liệm ! Có mấy bé trai, vùng dậy sau khi được mớm sữa, bé chạy tung tăng đi tìm cha mẹ, những người từ tâm ôm em vào lòng dỗ dành bảo rằng em sẽ được gặp lại cha mẹ !
Vài người sống xót chẳng hiểu vì sao mình hãy còn sống, nghẹn ngào kể lại chuyện đau buồn, hải tặc bắn xối xả vào thuyền, nhiều người đã bị chết ngay lúc đó, nhiếu người hốt hoảng nhảy xuống biển, mùa biển động cá dữ đói ăn, nghe mùi máu tanh kéo đến từng bầy, vẫy vùng giành nhau phanh thây xé xác, thịt xương, áo quần, ruôt gan lóng thòng, nổi lềnh bềnh trong vũng nước đỏ ngầu, chỉ trong khoảng khắc bầy cá dữ tha đi hết thịt xương, để lại đại dương một vùng nước đỏ ngòm . Bắn xong chúng nhẩy qua thuyền, chém loạn cuồng, mã tấu bửa xuống đầu, chẻ lên vai, phạm ngang lưng, đâm vào bụng, ruột lòi ra lóng thòng trắng hếu ! Máu đỏ từng vòi phun tung toé.
Tay chém, miệng gầm, áp đảo xong chúng bắt đầu cướp, lùa đàn bà con gái xuống khoang thuyền, những thân gái bị quăng quật, xé nát áo quần. Bọn chúng dành nhau những thân gái yếu đuối ! Những xác thân trần truồng quì xuống van lậy, chúng vẫn cười đùa chẳng tha, nhiều cô nằm thoi thóp, chúng lấy dao chích máu, rạch đùi, cắt đầu nhũ hoa, đam vào hạ bộ cười hô hố . Trước khi bỏ đi còn mang theo vài người nhan sắc, đem bán cho những thanh lâu, hay đem đến một cái hải đảo hoang vu nơi có sào huyệt của bọn chúng, nhốt ở đó để thỉnh thoảng ghé vào hành hạ, chán chường thì đem đi bán, hoặc bỏ trôi trên biển, khi chúng cướp thêm được gái mới.
Báo chí có loan tin, vài cô trốn được kể lại những chuyện thương tâm. Hải tặc thường đâm thủng thuyền, đốt phá, tạo kinh hoàng rồi cướp bóc, cướp tất cả giết nhiều người dù không chống cự, hiếp cả người già...Sau đó cho đánh đắm thuyền để phi tang, nhiều người may mắn dạt được vào bờ thác loạn thần kinh, ngập ngừng không trả lời câu hỏi rằng đã có ăn thịt người chết để sống không? Không chắc...vì trong cơn thoi thóp có người mớm cho ăn, cũng chả hiểu tại sao còn sống được !
Có những thiếu phụ mất tất cả chồng con, ôm trong lòng cái thai oan nghiệt. Có những ông chồng còn lại một mình lầm lủi. Những em nhỏ côi cút nước mắt chưa khô không còn ược sống hồn nhiên, có những bé trai khôi ngô mắt sáng sống đời ám ảnh cảnh mẹ, cảnh chi bị dày vò, có những em gái đẹp hiền dễ thương, sớm bị đọa đày sống đời buông thả. Ít có gia đình còn được đầy đủ, dọc đường mất mát . Hay lúc ra đi không thể đi chung phải phân tán nhỏ để lỡ có bề nào còn chỗ nương tựa. Bên cạnh những buông thả cuồng loạn, cũng còn những thủy chung,mực thước, đời sống đơn sơ đạm bạc, nhìn về tương lai.
Bidong được chia ra làm nhiều nơi cư trú. Khu C có bãi cát vàng, nổi lên những quán cà phê, cuối bãi có ngọn núi trọc, nơi an nghỉ sau cùng của những người chưa tìm được tự do đã vội đi vào lòng đất, nơi đây cũng là nơi an nghỉ của những cái chết đau thương. Bidong trước ngày đóng cửa vĩnh viễn đã là nơi xẩy ra những cuộc biểu tình đẫm máu của những người bị cướp đi quyền tị nạn, có nhiều người đã tự mổ bụng mình hoặc tẩm dầu thiêu rụi xác thân cháy như ngọn đuốc tự do, quyết không trở lại quê hương ngục tù.
Có nhiều trăm ngàn người đã bỏ xác trên biển đông, cũng có hàng trăm ngàn người đã chịu nhục nhằn, nhưng cả triệu người không chùn bước lũ lượt ra đi, triệu người muôn đời không phủ nhận quê hương, muôn đời hãnh diện tổ quốc, tự hào dân tộc. Chúng tôi chỉ phủ định chế độ nên chúng tôi ra đi, coi nhẹ nguy hiểm, khinh thường cái chết, lánh xa bạo quyền .
Mảnh đất tạm dung sẽ đến nếu là hoang vu cằn cỗi, nếu là sa mạc buồn tênh, liệu có triệu người bất kể sinh mạng liều chết ra đi? Tự do chất chứa cái quyền được sống là người, nhân quyền ấp ủ cuộc sống no lành.
Đường đi tới tự do gian nan, phủ đầy máu lệ, thịt xương vương vãi dọc đường. Những gì thuyền nhân Việt nam đã trải qua chưa một lần xảy ra trong nhiều nghìn năm lịch sử loài người .
::: Phạm Tiến Nam :::