Thầy có viết thơ tuyệt giao với cô Josiane, cô ấy hồi âm tỏ lời tiếc thương và cho hay rằng mình mới kết nghĩa châu trần với một ông chủ hát xiếc.
Cái tình của hai nguời, có bao nhiêu đó mà thôi; mà cái khổ của cô Dung lại vô giới hạn. Săn sóc cách nào, ân cần thế nào, Ðoàn Hữu Minh vẫn thấy vợ ủ dột, héo hon hoài. Thầy rầu, xem kỹ lại thì thấy thầy có ốm, nét mặt kém tươi, chỉ nghĩ rằng hổm rày vì sự đau đớn linh hồn rỉa vậy.
Hôm kia, mặt trời đã lặn rồi, cảnh vật lần khuất trong cái ánh sáng mờ mờ, còn một chút nữa là cái màn tối tăm của ban đêm nó che lấp đi mất. Ðoàn Hữu Minh thấy vợ còn đứng tần ngần ở vườn hoa, bèn lại gần, hỏi:
- Bữa nay thứ bông nào nở đẹp nhứt?
Cô Dung giựt mình, lộ vẻ ái ngại:
- Bữa nào tôi cũng thấy có một thứ hoa hường là đẹp mãi thôi.
- Hồi chiều mình ăn cơm ngon không?
- Ngon.
- Có uống thuốc chưa?
- Rồi.
- Mình…
Thầy muốn nói điều chi lại nín đi, mà vợ cũng giả như không nghe cái tiếng gọi sau ấy. Hai người đứng im như hình gỗ. Giây lát, cô Dung nghe chồng thở dài, bèn nói, và toan trở gót.
- Thôi vô.
Chẳng dè Ðoàn Hữu Minh nắm lấy vạt áo, năn nỉ.
- Khoan đã mình! Hãy ngồi đây với tôi một chút.
Nàng cùng ngồi với chàng trên cái kệ.
Im lìm! Chỉ nghe hơi thở của Ðoàn Hữu Minh cái hơi thở tỏ rằng trong tâm có sự cảm giác nôn nao, mạnh mẽ. Thầy nắm tay vợ, tay lạnh như đồng. Tay mấy tháng trường mới được rớ đến mà không thối thác.
- Mình lạnh sao?
- Lạnh! Thôi vô!
- Khoan! Tội nghiệp mà! Mình! Tôi lỗi với mình, lỗi nặng vô cùng, tôi biết rằng dầu tôi phải đau đớn, phải khổ sở bao nhiêu cũng không chuộc đặng. Cái lỗi tôi, mình đã biết rồi, biết mà làm thinh, để ôm đau khổ dù cho đến chết. Mình chết, tôi sống được sao mình? Mình cho phép tôi hôn bàn tay mình nghe, đặng rồi tôi xưng tội.
Thầy sụp quỳ gối, úp mặt lên tay vợ. Cô Dung nghe trên bàn tay mình có nước mắt chảy, bất giác cũng tầm tả châu rơi.
- Thôi, mình ôi! Thiệt vậy, tôi đã thấy, đã biết hết rồi. Mình ngồi dậy đi, tôi thề quên lỗi của mình mà cũng không hề bao giờ chịu nghe mình nhắc lại với tôi rằng mình có lỗi đó nữa. Tôi sống với mình.
Thế là thầy được tha lỗi rồi. Từ đây chàng phải ở thế nào hầu gầy dựng cái hạnh phước ngày xưa, cái hạnh phước độc nhứt vô nhị mà thiếu chút nữa đã tan tành, đổi ra sự thất vọng vô biên vô tận.
(1929)
(NXB Tổng Hợp Tiền Giang 1989, in lại theo báo Phụ Nữ Tân Văn 1929)