Ðầu nhà nghi ngút khói, trên nhành lác đác sương, thỉnh thoảng, lại đưa qua luồng gió mát. Mấy đóa hường mới nở hồi rạng đông, tươi tốt dịu dàng, dường như chúm chím môi son, mà cười chào khách yêu hoa vậy. Ai nếm được cái hương vị ngọt ngào ấy cũng lấy làm thú vị như được nghe lời tao nhã của bạn tri âm.
Ðầu này, chim rủ bạn, góc nọ, gà túc con. Nhà nông sắm sửa ra đồng. Ngoài lộ đã thấy kẻ gánh, người bưng mau chân đến chợ. Cái quang cảnh buổi sáng ở chốn thôn quê nhắm cũng có thú vui đặc biệt.
Cô Ba đã thức giậy nãy giờ. Nhẹ nhàng gọn ghẽ như con chim quyên, làm cái gì đã vừa mau lại vừa kỹ. Rửa mặt xong cô nấu cháo, pha trà, đoạn đi phát lúa cho gà vịt.
Cô mặc quần lãnh [1] đen áo bà ba trắng. Mí tóc chưa gỡ xủ mành [2] trên trán làm cho cái gương mặt nhơn từ trông lắm vẻ yêu. Xem cô đứng giữa đàn gà vịt bắt tưởng tượng ra một vị tiên nữ nào đương thi ơn, tế độ cho đám chúng sanh.
Khi song đường [3] cô thức, cô bổn thân pha nuớc rửa mặt, dọn cháo lót lòng, rót nuớc, têm trầu, giũ xếp mùng mền rồi mới sửa soạn đi chợ.
Tánh cô không thích se sua trang điểm, nhưng cô mặc đơn sơ chừng nào coi lại càng thêm xinh, đáng kính đáng vì [4], khiến cho bạn đồng niên ai cũng phải thật tình yêu đương, không có chút gì ganh gổ.
Cô cắt việc cho con đòi:
- Nầy em. Ở nhà em rửa chén, quét nhà dùm chị, nghe em.
Cô Lê vì ngủ trưa nên hơi mắc cỡ:
- Sao chị không kêu em thức sớm với? Em dậy, công chuyện đã làm hết rồi. Báo hại em mắc cỡ gần chết!
Nói rồi nó ngáp mà cuời. Cô Ba cũng cười:
- Có hề chi! Thấy hồi hôm em thức khuya nên sáng chị để em ngủ nán cho khoẻ, ngủ không đã giấc, ngầy ngật lắm em à! Như em ưa thức sớm để bữa khác chị kêu cho. Thôi chị đi. Trưa rồi.
Hai vợ chồng ông Nguyễn Công Phát có một trai và một gái là cô Ba, chánh tên là Nguyễn thị Dung; thật tánh tình rất hạp với tên; ông bà yêu cô lắm.
Bà ngồi cùng ông uống nuớc, thấy cô Dung ra khỏi ngõ, chỉ theo mà nói với chồng:
- Tôi thương con gái tôi vô cùng đó ông. Không cần gì giàu có hơn nguời, miễn đủ ăn mà được con hiếu thảo thì là vui lòng hả dạ. Mấy bữa rày con Ba tôi nó cực nhọc ông có thấy không? Gần tới đám cưới thằng Hai, mình nó lo. Bữa nào cũng thức khuya, dậy sớm. Nó dành làm, không cho tôi dự việc gì hết. Nó nói nó chịu cực ít bữa rồi thì có chị Hai về chia công việc với nó chớ gì! Nó lại nói lẽ: “Má già rồi, nghỉ cho khoẻ mà ăn ngon ngủ ngon, tôi mần thì đủ rồi, tôi không biết cực.” Năm nay tôi già lắm sao mình?
Ông vuốt râu cười:
- Già mà còn duyên!
- Oái thôi đi ông! Ðến tuổi nầy mà còn diễu, không sợ trẻ nghe nó cười. À mà, ý ông tính sắp đặt đám cưới thằng Hai thể nào, nói cho tôi nghe thử? Tôi lo quá!
Hai ông bà bàn tính, cô Ba đi chợ về, con Lê chạy ra mừng rồi cùng nhau lo việc bếp núc.
Tưởng trên đời hoa nào đẹp nhứt, ngọc nào quí hạng nhứt, cũng không bằng “có duyên” nhứt là người đàn bà.
Có duyên nầy chẳng phải mắt hay liếc, miệng hay cười. Cái duyên là cái hương vị ngọt ngào của tấm lòng vàng, của cái linh hồn cao thượng. Lời nói hữu duyên như khúc đờn tiên, non nỉ thâm trầm, như giọt nước cam lồ [5] có thể chữa được vết thương đau đớn. Cái duyên không phải là món bắt chước ở đâu; nó cốt ở lòng, cũng như mùi thơm tự nhiên của hoa cốt ở nhụy. Bắt chước làm điều mình không thật muốn, hoặc mình không có tư cách làm, là sự giả dối, trông lắm buồn cười.
Cô Ba thốt lời chi cũng chậm rãi cẩn thận, thật thà mà có thanh tao, suông sẻ mà có ý vị, khiến cho người cao sang hơn nghe cũng kính vì, mà kẻ thấp thỏi hơn càng cảm phục.
Người như vậy dù nuôi loài vật ngu si cũng có thể cảm hóa được.
Con Lê là con nhà đê tiện; thèo lẻo, láo xược, gian ngoa, hỗn hào. Giá nó gặp ai thì ngày nào cũng không khỏi bị rầy la đánh đập. Nhưng từ ngày vô giúp việc nhà cô Ba thì tánh nết nó khác hẳn; biết lễ nghĩa, siêng năng có thể nói rằng nó thương chủ nhỏ nó hơn chị ruột; vì vậy nên nó hay làm chung, đi chung với cô Ba; vắng cô trong giây lát nó cũng buồn. Lúc lặt rau, nó hỏi:
- Nè chị Ba! Nữa vợ anh Hai về đây chị có thương không?
- Thương chớ! Trời khiến vậy đa em. Hồi còn người dưng thì chẳng nói gì, chớ bây giờ hễ nói đến tiếng « chị Hai » thì lòng chị đã sanh mối cảm tình. Vì sao có sự cảm ấy, em có biết không? Thứ nhứt, vì chị Hai thương anh Hai và thương cả nhà mình, nên mới ưng về làm dâu; thứ nhì, là chị Hai sẽ là người đồng chia vui chia buồn với mình; nếu khéo cư xử với nhau thì như ruột thịt vậy.
- Nghe nói phía bên chị Hai giàu lắm, phải không?
- Giàu. Nhưng em phải hiểu rằng chẳng phải cái giàu đó mà anh Hai ham, mà mình thương. Ðiều nên chuộng là sự khôn khéo, biết kính cha mẹ, biết thờ chồng, biết hòa thuận với bà con và biết cả nữ công nữ hạnh. Cũng có nhiều khi vì bên chồng ở gắt gao, em chồng ác nghiệt mà thành ra người dâu không được trọn hiền. Chị khuyên em hãy noi theo chị mà yêu kính chị Hai, nhứt là lúc chị Hai mới về còn đương bợ ngợ, còn đương nhớ quê nhà, mình phải khéo cách đối đãi cho người khỏi có điều chi tủi phận.
- Ủa! nói chuyện thì nói lặt rau thì lặt, chớ buông đó mà nhìn sao
bậu[6] ?
Con Lê cười, bưng rổ rau đứng dậy.
- Em lặt rồi chứ! Thấy cái miệng chị dễ thương quá nên em nhìn quên thôi. Thiệt em thấy mà muốn hun hết bực. Chị như vậy thì lo chi sau này chẳng được chị em phía bên chồng kính yêu.
- Oái! Ðừng nói xàm! Có rửa rau xong thì gọt mướp, rồi chị nói nữa cho mà nghe.
Cô nói: « Cũng thiệt đó chút, nghe em; mình ở phải thì tự nhiên gặp phải. Nhưng trước hết mình phải rõ phận làm dâu phải biết tùy gia phong của người mà ở vuông tròn, như vậy cha mẹ mình khỏi buồn thẹn vì lời dị nghị, chê bai; sau nữa không uổng cái tình của chồng yêu đương; vậy mới khỏi bị khinh rẻ ».
Nói đến đó cô Ba nghe phía trong có tiếng: « Chả! Cô dâu đó được quá há! Có khách tới kia kìa, nấu nước, têm trầu dùm cái!“. Nàng biết mẹ đã nghe và nói bỡn [7] mình nên mắc cỡ; vội vàng chạy vô, bẽn lẽn cười mà ngó mẹ.
Chú thích:
[1] vãi lụa mặt bóng. Chị già quần lãnh hoa chanh, chúng em khốn khó quấn quanh Lụa đào .
[2] buông xuống, thả xuống
[3] cha mẹ
[4] vị nể
[5] hay cam lộ, nước cưởi ngọt, đời xưa cho là khi thiên hạ thái bình thì trời xuống nước cưởi ngọt, xin xem chú thích từ ngữ giọt nhành dương .
[6] em
[7] giỡn, trêu ghẹo
******
Người Vợ Hiền
Theo tài liệu của hầu hết các nhà nghiên cứu về nhà văn Hồ Biểu Chánh mà chúng tôi được biết thì quyển "Người vợ hiền" không có trong danh sách truyện của Hồ Biểu Chánh. Tuy nhiên chúng tôi có được một quyển in của NXB Tổng Hợp Tiền Giang 1989, in lại theo báo Phụ Nữ Tân Văn 1929 nên phổ biến để rộng đường suy luận.
Truyện kể về anh Ðoàn Hữu Minh có một người vợ biết thương yêu và chăm sóc anh. Nhờ đó anh ta có thì giờ học thành tài. Mặc dầu Ðoàn Hữu Minh rất yêu vợ, nhưng bị sắc đẹp của cô Josiane quyến rủ. Người vợ hay được, buồn rầu và ngả bịnh.