Lịch sử cho thấy ba tôn giáo tại Việt Nam chống Cộng Sản mạnh mẽ nhất là Công Giáo, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo. Khi Việt Minh cướp chính quyền vào năm 1945, có một số chức sắc và tín đồ của ba tôn giáo này đã tham gia Mặt Trận Việt Minh với tư cách cá nhân vì lầm tưởng đó là một lực lượng chống ngoại xâm. Nhưng khi nhận ra được bộ mặt thật của Đảng Cộng Sản Đông Dương, đa số đã từ bỏ Mặt Trận Việt Minh.
Tại sao Công Giáo, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo không gia nhập Mặt Trận Việt Minh ?
Trước hết, Mặt Trận Việt Minh chỉ là mặt nổi của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Các nhà lãnh đạo ba tôn giáo nói trên đều nhận thức rằng chủ nghĩa cộng sản là một chủ nghĩa vô thần, không dung hợp với các tôn giáo. Nếu cần phải có sự liên kết với các tôn giáo để chống xâm lăng, Cộng Sản chỉ liên kết trong giai đoạn mà thôi. Cuối cùng, Cộng Sản cũng thanh toán tôn giáo. Karl Marx đã từng nhận định :
"
Tôn giáo là hơi thờ của tạo vật quằn quại, là trái tim của thế giới không trái tim, là tinh thần của thời đại không tinh thần. Nó là thuốc phiện của dân chúng."
Sau đó Karl Marx tuyên bố :
"
Xóa bỏ tôn giáo, một thứ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là đòi hỏi hạnh phúc thật sự của nhân dân."
Nói một cách khác, Karl Marx cho rằng tôn giáo chỉ là một thứ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân. Vậy phải hủy bỏ tôn giáo đi mới có thể đem lại hạnh phúc cho nhân dân.
Trong khi đó, tín đồ của các tôn giáo đều tin rằng tôn giáo là con đường giải thoát của nhân loại. Bauldelaire đã nói :
"
Dù không có Thượng Đế đi nữa, tôn giáo vẫn thánh thiện và thần thánh."
Ngoài sự bất dung hợp giữa tôn giáo với chủ nghĩa cộng sản, sự tráo trở và phản bội của Đảng Cộng Sản Đông Dương đã làm cho Công Giáo, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo dứt khoát với Việt Cộng.
Sau khi Hồ Chí Minh cướp được chính quyền tháng 8 năm 1945, tình hình trong nước rối loạn, bên trong các đảng phái quốc gia chống đối mạnh mẽ vì cho rằng Việt Minh đã cướp công của họ, bên ngoài Pháp bắt đầu mở cuộc tấn công để chiếm lại Đông Dương. Trong tình thế này, Hồ Chí Minh đã giả vờ thỏa hiệp với các đảng phái quốc gia và các tôn giáo để rảnh tay thương lượng với Pháp. Ngày 1.1.1946, Hồ Chí Minh thành lập Chính Phủ Liên Hiệp Lâm Thời với các đảng phái quốc gia, dành cho các đảng phái quốc gia 5 ghế :
- Nguyễn Tường Tam (Đại Việt Dân Chính) : Bộ Trưởng Ngoại Giao.
- Huỳnh Thúc Kháng : Bộ Trưởng Nội Vụ.
- Trần Đình Chi (Việt Cách) : Bộ Trưởng Xã Hội và Y Tế.
- Bồ Xuân Luật (Việt Cách) : Bộ Trưởng Canh Nông.
- Chu Bá Phượng (Việt Quốc) : Bộ Trưởng Kinh Tế.
Ngoài ra, Nguyễn Hải Thần (Việt Cách) được giữ chức Phó Chủ Tịch, còn Vũ Hồng Khanh (Việt Quốc) giữ chức đồng ủy Viên Quốc Phòng với Võ Nguyên Giáp. Nhưng trong thực tế, công an và bộ đội đều nằm trong tay Đảng Cộng Sản Đông Dương.
Ngày 6.3.1946, Hồ Chí Minh ký thỏa ước sơ bộ với Pháp để làm kế hoãn binh. Thỏa hiệp xong với Pháp, Hồ Chí Minh quay lại thanh toán các đảng phái quốc gia và các tôn giáo. Hai vụ tàn sát có quy mô nhất là hai vụ sau đây :
Vụ thứ nhất xẩy ra vào đêm 27.6.1946. Để cho các đảng phái và các tôn giáo không nghi ngờ và đề phòng, ngày 7.5.1946 Hồ Chí Minh cho lập Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam và kêu gọi các tôn giáo và các đảng phái quốc gia tham gia để chống Pháp. Bất thần, trong đêm 27.6.1946, Hồ Chí Minh ra lệnh cho bộ đội và công an tấn công các cơ sở tôn giáo và đảng phái quốc gia được xếp vào loại "phản động" trên toàn quốc, giết hoặc đem đi thủ tiêu các lãnh tụ và cán bộ của các tổ chức này. Con số bị giết tại chỗ hoặc bị thủ tiêu lên đến khoảng 50.000 người. Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh chạy trốn qua Trung Hoa.
Vụ tàn sát thứ hai xẩy ra vào đêm 19.12.1946 còn khốc liệt hơn. Ngày 18.12.1946, Bộ Tư Lệnh Pháp thấy có nhiều chuyện bất thường trong việc điều quân của Việt Minh tại Hà Nội. Nhiều chướng ngại vật được dựng lên trong thành phố, các đơn vị Tự Vệ được tập trung về bố trí nhiều nơi, tình hình trở nên nghiêm trọng. Bộ Tư Lệnh Pháp liền ra mật lệnh cho các kiều dân Pháp tập trung vào các khu vực gần các trại lính Pháp để dễ bảo vệ, đồng thời gởi thư cho Hoàng Hữu Nam phản đối thái độ khiêu khích của các toán Tự Vệ. Vào khoảng 20 giờ ngày 19.12.1946, Hồ Chí Minh ra lệnh cho nổ súng trên toàn thành phố Hà Nội, vừa tấn công các đồn của Pháp vừa lùng bắt các lãnh tụ và cán bộ của các đảng phái và tôn giáo. Số người bị giết lần này còn cao hơn lần trước. Nhà cách mạng Trương Tử Anh đã bị giết trong đợt tấn công này. Cuộc tấn công cũng được mở rộng cùng một lúc trên toàn quốc.
Sau hai vụ đó, đa số các sĩ phu và tín đồ Công Giáo, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo đã từ bỏ Mặt Trận Việt Minh và Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam. Nhưng các tăng sĩ Phật Giáo vẫn còn tiếp tục ở lại trong tổ chức Hội Phật Giáo Cứu Quốc như chúng tôi đã trình bày ở Chương II.
Diệt xong hầu hết các thành phần được coi là phản động trong các tôn giáo và đảng phái, Hồ Chí Minh quay lại ve vãn tín đồ các tôn giáo để thu hút họ tham gia Mặt Trận Việt Minh. Nghị Quyết của Hội Nghị Trung ương Mở Rộng của Đảng Cộng Sản Đông Dương họp từ 15 - 17.1.1948, có ghi rõ về chính sách tôn giáo vận của Đảng như sau :
"
Phải đi sâu vào các tầng lớp quần chúng Công Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, gây cơ sở tổ chức, đặt những hình thức tổ chức thấp như "hội cầu nguyện cho các chiến sĩ", "hội cầu nguyện cho nước độc lập", v.v. Cải thiện đời sống cho đồng bào có đạo, kéo họ khỏi ảnh hưởng chính trị của bọn đội lốt tôn giáo làm bậy." "Về tuyên truyền nên dựa vào những điều dạy trong thánh kinh mà cổ động nhiệm vụ cứu nước, phải phát hành một cuốn sách gồm những tài liệu, tranh ảnh, nêu sự tàn phá của giặc Pháp đối với đồng bào có đạo. Vạch cho giáo dân thấy rõ kháng chiến thì sống, khuất phục thì chết, tham gia tổ chức là có quyền lợi thực tế. Đặc biệt chú ý không đụng chạm đến tôn giáo tín ngưỡng của giáo dân. "Trong số cha cố, tu sĩ cũng có nhiều tầng lớp, nhiều xu hướng khác nhau. Chú ý lớp tông đồ hay kẻ giảng (cathéchiste) đời sống thường khổ sở, có thể gần gũi và đào tạo thành cán bộ tốt. Đối với những cha cố có tinh thần yêu nước hay trung lập, nên đưa vào Ban Chấp Hành Liên - Việt, "Hội ủng hộ kháng chiến". Đối với những phần tử phản động, chính sách đoàn kết một chiều là sai, phải thẳng tay trừng trị những hành động quấy rối và chia rẽ giáo dân, chia rẽ dân tộc."(2)
Nhưng sau khi cướp được chính quyền rồi, Đảng Cộng Sản Việt Nam trở mặt ngay, quay lại đàn áp thẳng tay các tôn giáo. Hà Nội đã gởi khoảng 200 công an qua Tiệp Khắc học về cách thức khống chế các tôn giáo và cho ấn hành cuốn Chủ Nghĩa Vô Thần Khoa Học do một số giáo sư biên soạn để làm kim chỉ nam cho các cán bộ và công an cách thức khống chế các tôn giáo.
Vì thế, Công Giáo, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo không đứng chung hàng ngũ với Cộng Sản.
TƯƠNG QUAN GIỮA CÔNG GIÁO VÀ CỘNG SẢN VIỆT NAM XÁC ĐỊNH DANH TỪ Trước khi nói về tương quan giữa Công Giáo và Cộng Sản Việt Nam, chúng tôi nhận thấy cần phải xác định ngay một vài danh từ để tránh ngộ nhận.
Tại sao không gọi là Thiên Chúa Giáo mà gọi là Công Giáo ?
Lục soát trong các cuốn tự điển cũng như niên giám bằng ngoại ngữ trên thế giới hiện nay chúng ta không thấy có tôn giáo nào có tên là "Thiên Chúa Giáo" hay "đạo Thiên Chúa". Những người theo đạo Chúa Jesus Christ được gọi là
Chrétien (Pháp) hay
Christian (Anh).
Chữ Christus (Latin), Le Christ (Pháp) hay Jesus Christ (Anh), nghĩa là Chúa Cứu Thế hay Chúa Giêsu thành Nazareth. Chữ Christus trong tiếng Latin được người Tàu phiên âm ra chữ Hán là 耶穌. Nếu đọc đúng giọng Tàu là Ki-tô, nhưng nếu đọc theo lối Hán Việt thì thành
Gia-Tô. Cũng vậy, chữ Buddha khi phiên âm ra chữ Hán là 佛陀 người Tàu vẫn đọc là Bu-đa, nhưng người Việt đọc thành
Phật Đà. Ngày nay, người Công Giáo phiên âm thẳng từ tiếng Latin, không qua lối Hán Việt, nên gọi là
Ki-tô.
Đạo Chúa Ki-tô chia ra nhiều chi nhánh: Roman Catholics (Công Giáo La Mã), Protestants (Tin Lành), Orthodox (Chính Thống), v.v.. Không có chi nhánh nào gọi là "Thiên Chúa Giáo" hay "Đạo Thiên Chúa".
Giáo Hội La Mã được người Việt Nam gọi là
Giáo Hội Công Giáo, vì dịch ở chữ
Ecclesia Catholica trong tiếng Latin. Nhiều người lầm tưởng rằng "công giáo" là đạo nhà nước hay quốc giáo. Sự thật chữ Catholic gốc tiếng Hy Lạp là Katholikos, có nghĩa là hoàn toàn, tất cả và tiếng Latin là Catholicus, có nghĩa là phổ biến (universal), chung (general). Chữ Ecclesia Catholica trước tiên lấy trong Kinh Tin Kính do các Tông Đồ của Chúa Giêsu đặt ra trước khi lên đường đi rao giảng tin mừng để có sự thống nhất về các điều buộc phải tin mới được chịu phép rửa. Trong kinh này có câu : "
Credo in Spiritum Sanctum, Santam Ecelesiam Catholicam ... "(I believe in the Holy Spirit, the Holy Catholic Church), có nghĩa là "Tôi tin Đức Chúa Thánh Thần, tin có một Giáo Hội Thánh thiện và Công Giáo (hay phổ biến)". Kinh Tin Kính này được gọi là Kinh Tin Kính của các Tông Đồ (Apostles Creed).
Năm 325, một Đại Công Đồng (Great Council) đã được tổ chức tại thành Nicaea từ ngày 20.5.325, gồm tất cả các Giám Mục trên thế giới. Sau hơn một tháng thảo luận, Đại Công Đồng đã đưa ra một Kinh Tin Kính thứ hai, gọi là Kinh Tin Kính Công Đồng Nicaea (Nicene Creed), trong đó có câu : "Et unam, sanctam,
catholicam et apostolicam Ecclesiam" (We believe in one, holy, catholic and apostolic Church), có nghĩa là "Chúng tôi tin có một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền ". Kinh Tin Kính này được đọc hàng ngày trong thánh lễ của Giáo Hội Công Giáo.
Nguồn gốc của chữ Ecclelica Catholica phát xuất từ hai Kinh Tin Kính này và có nghĩa là một Giáo Hội phổ biến (universal), một Giáo Hội chung (general) cho mọi người (chứ không phải chỉ là đạo dân tộc). Sở dĩ các linh mục thừa sai đã dịch chữ "Catholicus" là "Công Giáo" vì trong chữ Hán chữ CÔNG có nghĩa là "việc chung", "mọi người" (xem Tự Điển Hán Việt của Đào Duy Anh). Dùng chữ CÔNG để dịch chữ Catholicus trong tiếng Latin vừa sát nghĩa, vừa vắn gọn, và chữ Ecclesia Catholica đã được dịch là Giáo Hội Công Giáo. Nếu dùng chữ "Thiên Chúa Giáo", khi dịch ra tiếng Latin, tiếng Anh hay tiếng Pháp, không có chữ tương đương. Tuy nhiên, những người Việt Nam ngoài Công Giáo quen dùng chữ "Thiên Chúa Giáo" để chỉ những người theo đạo Chúa Giêsu Kitô, nên một đôi khi chúng tôi cũng tạm dùng theo thói quen này.
LÝ DO NGƯỜI CÔNG GIÁO KHÔNG THEO CỘNG SẢN 1 -
Giáo Hội Công Giáo đã lên án chủ nghĩa vô thần Giáo Hội Công Giáo đã ban hành rất nhiều thông điệp phi bác chủ nghĩa vô thần, đặc biệt là Thông Điệp
Divini Redemtoris 19.3.1937 của Đức Giáo Hoàng Pio XI. Trong Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, Giáo Hội Công Giáo xác định lại một lần nữa :
"
Trung thành với Thiên Chúa cũng như với con người, Giáo Hội không thể không tiếp tục phi bác với nỗi đau buồn và với tất cả sự cương quyết, như đã từng phi bác, những chủ thuyết vô thần và những hành động nguy hại đi ngược lại lý tính và kinh nghiệm chung của con người cũng như làm cho con người mất đi sự cao cả bẩm sinh của mình. "
Hồ Chí Minh đã thấy rõ điều đó. Trong văn thư ngày 2.3.1947 phúc đáp thư đề ngày 17.2.1947 của Đức Giám Mục Lê Hữu Từ khiếu nại việc Việt Cộng bắt giam các tự vệ Công Giáo, Hồ Chí Minh đã viết :
"
Tôi có nhận được một ít tài liệu. Sau khi nghiên cứu kỹ, thì thấy rõ ba điều : 1. Đồng bào công záo rất ghét thực zân Fáp, rất yêu nước. 2. Đồng bào công záo ghét cộng sản. 3. Một số đồng bào công záo nhẹ zạ, vì vậy có người đã lợi dụng chỗ đó mà gây mối chia rẽ. Bọn này nói : chính phủ là Việt Minh, Việt Minh là cộng sản. " Điểm 1, chúng ta sẵn biết, không cần bàn. Điểm 2, lý thuyết Zuy Thần và học thuyết Zuy Vật không hợp nhau, là lẽ tất nhiên... "(3)
Hồ Chí Minh không biết gì về ngữ học, đã nhiều lần cổ võ lối viết Việt ngữ như trên để biến dần di sản quốc ngữ mà các linh mục thừa sai đã hình thành, nhưng không ai hưởng ứng. Đây cũng là một nỗ lực chống Công Giáo của Hồ Chí Minh.
2.-
Bộ Giáo Luật cấm người Công Giáo tham gia các hội bị Giáo Hội lên án Bộ Giáo luật của Giáo Hội La Mã ban hành năm 1917 cấm giáo sĩ và giáo dân không được tham gia các hội kín, các hội đáng nghi ngờ, các tổ chức phiến loạn đã bị Giáo Hội lên án. Cũng không được tham gia vào các hội cố ý tách khỏi quyền kiểm soát của Giáo Hội (điều 684). Các giáo dân không được kết hôn với những người đã gia nhập vào các hội vô thần (điều 1060 và 1240). Điều 1374 của Bộ Giáo Luật năm 1983 dự liệu một cách tổng quát hơn, cấm người Công Giáo không được gia nhập vào các hội có âm mưu chống lại Giáo Hội. Ai gia nhập sẽ bị phạt xứng đáng. Ai cổ động hay điều khiển các hội đó sẽ bị phạt cấm chỉ (không cho phép lãnh nhận bí tích Thánh Thể).
Trong Thư Luân Lưu số 34 ngày 10.10.1948, Đức Giám Mục Lê Hữu Từ đã nhắc nhở người Công Giáo không được vi phạm các điều luật vừa kể. Ngày 9.11.1951, Hội Đồng Giám Mục Đông Dương đã dựa vào tinh thần của Thông Điệp Divini Redemtoris nói trên, cho phổ biến một Thư Chung cấm người Công Giáo không được tham gia các tổ chức của Cộng Sản. Với những sự quy định chặt chẽ như vậy, ít người Công Giáo nào dám gia nhập hay đi theo Đảng Cộng Sản Việt Nam
3.-
Hồ Chí Minh đã khai chiến với Công Giáo khi còn lưu vong chống Pháp Trong thời kỳ lưu vong chống Pháp, Hồ Chí Minh đã viết vô số bài vu khống và mạ lỵ Thiên Chúa Giáo. Các tài liệu này đã được đăng lại trong bộ Hồ Chí Minh Toàn Tập do nhà xuất bản Sự Thật ở Hà Nội ấn hành. Những luận điệu mà Hồ Chí Minh đã đưa ra để phi bác Công Giáo đang được nhóm nấp sau lưng Đỗ Mậu, Lê Trọng Văn và Lý Khôi Việt lặp lại.
Vì những lý do trên, giáo sĩ và giáo dân Công Giáo Việt Nam tẩy chay các tổ chức của Việt Cộng.
NHỮNG NỖ LỰC ĐÀN ÁP CÔNG GIÁO CỦA VIỆT CỘNG a)
Khởi đầu bằng chính sách ve vãn Công Giáo Như chúng tôi đã nói ở trên, khi mới cướp được chính quyền, Việt Minh bị đánh phá tứ phía nên Hồ Chí Minh đã ve vãn các tôn giáo để sống còn. Ông vuốt ve cả Phật Giáo lẫn Công Giáo.
Khi tình hình Công Giáo miền Bắc đang gặp khó khăn thì ngày 1.10.1945, Linh Mục Lê Hữu Từ được Tòa Thánh La Mã cử đến nhận chức Giám Mục Giáo Phận Phát Diệm. Ngày 29.10.1945, ngài được tấn phong tại đây. Nhân dịp này Hồ Chí Minh đã gởi một phái đoàn chính phủ tới tham dự và một thư chúc mừng :
"
Thưa Ngài, Mừng Ngài vì cuộc tấn phong này đã chứng tỏ một cách vẻ vang đạo đức của Ngài. Mừng đồng bào Công Giáo, vì từ nay các bạn đã được một vị lãnh đạo rất xứng đáng. Đồng thời mừng cho nước ta vì tôi chắc rằng Ngài sẽ lãnh đạo đồng bào Công Giáo noi gương hy sinh của Đức Chúa mà hy sinh phấn đấu để giữ gìn quyền Tự Do và Độc Lập của nước nhà. Kính chúc Ngài được luôn luôn an mạnh"(4)
Mặc dầu có những lời ve vãn và chúc tụng của Hồ Chí Minh, Đức Giám Mục Lê Hữu Từ hiểu rằng cần phải chuẩn bị để ứng phó với tình thế mới. Ngài cho lập ngay những cơ cấu mới, trong đó có cả Ủy Ban Quân Chính, Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam và Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc. Phạm Văn Đồng đã phải về ở Phát Diệm một tuần để nghiên cứu theo dõi và xoa dịu tình hình. Ông Huỳnh Thúc Kháng, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ lúc đó đã ký Nghị Định số 52/BNV ngày 6.4.1946 cho phép thành lập Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam. Tổ chức Liên Đoàn lan rộng một cách nhanh chóng trên toàn quốc.
Ngày 25.1.1946, nhân lễ bế mạc tuần Tĩnh Tâm của Giáo phận Phát Diệm, Hồ Chí Minh xuất hiện, ra đứng trước đồng bào Công Giáo và hô to: "Đức Chúa muôn năm!" Sau đó Hồ Chí Minh tuyên bố mời Đức Giám Mục Lê Hữu Từ làm cố vấn cho chính phủ.
Trong "
Đơn xin cứu xét nhiều việc" đề ngày 26.5.1992 gởi nhà cầm quyền Hà Nội, Hòa Thượng Thích Huyền Quang đã viết:
"
Cụ Hồ lãnh đạo Kháng Chiến chống Pháp, nhưng mỗi lần lễ Noel đến, cụ Hồ không quên gởi Thông điệp chúc mừng Noel, thân thiện với Thiên Chúa Giáo. Năm rồi Đài Phát Thanh Hà Nội có dành hai giờ văn nghệ, để cúng dường Giáng Sinh. Trong lúc đó, lễ Phật đản chúng tôi, không được nhà nước nói đến một lời nào mà còn làm khó dễ đủ thứ trong việc tổ chức lễ Phật đản. Tôi nghĩ, và có lẽ tôi nghĩ không sai: Ai mạnh thì Nhà nước coi trọng, ai yếu thì nhà nước xem khinh..."
Đọc qua đoạn này, người ta thấy rằng Hòa Thượng Huyền Quang đã viết lá đơn nói trên trong tình trạng mất bình tĩnh và có tinh thần bài bác Thiên Chúa Giáo. Sự thật, như chúng tôi đã trình bày ở Chương II, mỗi lần lễ Giáng Sinh, lễ Phật Đản hay Rằm Tháng Bảy, Hồ Chí Minh đều có gởi Thông Điệp chúc mừng đến các tín đồ liên hệ. Chúng tôi đã trích một phần thông điệp đề ngày 15 tháng 7 âm lịch năm Bính Tuất (tức 11.8.1946) của Hồ Chí Minh gởi Hội Phật Tử Việt Nam ở Chương II để chứng minh điều đó.
Về phía Công Giáo, Hồ Chí Minh cũng làm tương tự như thế. Vào dịp lễ Giáng Sinh, Hồ Chí Minh cũng đã gởi đến đồng bào Công Giáo những Thông Điệp với giọng điệu như đã viết cho Phật tử. Sau đây là một đoạn trong Thông Điệp ngày 24.12.1946 gởi đồng bào nhân ngày lễ Giáng Sinh :
"
Gần 20 thế kỷ trước, một vị thánh nhân đã ra đời. Cả đời người chỉ lo cứu độ dân, hy sinh cho tự do, bình đẳng. "Trong lúc này, thực dân Pháp gây cuộc chiến tranh, chúng mong cướp nước ta lần nữa. Chúng làm trái hẳn với lòng bác ái của Đức Giêsu..."
Hồ Chí Minh còn đi xa hơn nữa trong trò ảo thuật ve vãn Công Giáo. Cuối năm 1947, Hồ Chí Minh ra lệnh tiêu thổ kháng chiến, nhưng đồng bào Công Giáo Phát Diệm và Bùi Chu không chịu tuân hành. Ngày 20. 12. 1947, Hồ Chí Minh về huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình và mời Đức Giám Mục Lê Hữu Từ đến dùng cơm trưa với ông và các Bộ Trưởng trong chính phủ. Trong dịp này,
Hồ Chí Minh đã xin chịu phép rửa tội! Đức Giám Mục Hữu Từ kể lại như sau :
"
Cơm xong, họ mời tôi lại cái ghế phản (đi-văng) có đặt sẵn hai cái gối để tôi cùng ông Hồ nói chuyện nằm nghỉ trưa. Nằm sát bên nhau, ông Hồ nói chuyện rỉ rón thân mật hết sức. Bỗng nhiên ông nắm chặt tay tôi và bằng một giọng run run ông nói : "Xin cụ làm Báptêm (Rửa tội) cho tôi để tôi cùng làm con Đức Chúa. " Nghe thế tôi phải hết sức cầm mình ở bình tĩnh cho khỏi phát cười và nói: "Thật là vô cùng quý giá và bất ngờ cho tôi, tôi rất lấy làm sung sướng, nhưng vì là việc rất can hệ, phải phải biết đủ các lẽ đạo và nhiều điều kiện phải dự bị trước, nên để sau sẽ tính."(6)
b)
Đàn áp Công Giáo từ 1946 - 1954 Bên ngoài Hồ Chí Minh ve vãn Công Giáo như trên, nhưng bên trong Hồ Chí Minh chuẩn bị để thanh toán. Hồ Chí Minh biết Công Giáo và Cộng Sản không bao giờ dung hợp được. Sau biến cố đêm 27.6.1946 nói trên, Việt Minh bắt đầu cho công an bắt giữ hoặc bắt cóc những thành phần Công giáo hoạt động tích cực cho các tổ chức Công Giáo tại mỗi địa phương.
Trên toàn quốc, có ba vùng có đông giáo dân tập trung được Việt Minh chú ý là Nghệ An (137 giáo xứ), Nam Định 117 giáo xứ) và Ninh Bình (32 giáo xứ). Nghệ An thuộc Giáo Phận Vinh, nắm trong vùng kiểm soát của Việt Minh nên không thể võ trang tự vệ được. Các giáo xứ chỉ có thể đối kháng thụ động, không cho Việt Minh chi phối vào các hoạt động của giáo phận và các giáo xứ. Giáo Phận Bùi Chu ở Nam Định và Giáo Phận Phát Diệm ở Ninh Bình nằm trong vùng tranh chấp giữa hai bên nên Hồ Chí Minh tìm cách lôi kéo hai giáo phận này đi theo Việt Minh. Cả hai Giáo Phận đã phải đối phó một cách khôn khéo để sống còn. Khi không còn thuyết phục được, Hồ Chí Minh cho lệnh tấn công.
Từ tháng 10 đến tháng 12 năm 1946, Việt Minh cho mở các cuộc hành quân vào một số giáo xứ thuộc Giáo Phận Phát Diệm gọi là cuộc hành quân "vây bắt côn đồ". Cuộc hành quân này đã mang đi khoảng 5.000 người, cả giáo sĩ lẫn giáo dân. Những người bị bắt được đưa về giam ở Huyện Nho Quan, đồn điền Ria và sau đó chuyển về trại giam Đầm Đùn ở Thanh Hóa, trong số người bị giam có Linh mục Trần Đức Lại, chánh xứ Nam Biên. Hồ Chí Minh cũng đã cho phục kích mưu sát "Đức Cha Cố Vấn" ba lần, nhưng Ngài đều thoát nạn.
Trước tình trạng này, đồng bào Công Giáo ở hai Giáo Phận Bùi Chu và Phát Diệm không thể làm cách nào khác hơn là thành lập các tổ chức tự vệ. Các tổ chức tự vệ này được đặt dưới quyền điều khiển của một Tổng Bộ Chỉ Huy Tự Vệ Bùi Chu - Phát Diệm do ông Bùi Công Nga làm Chủ Tịch.
Phát Diệm thành lập một khu an toàn để bảo vệ giáo dân và các cơ sở của Giáo Phận. Đa số giáo dân tập trung ở Huyện Kim Sơn đều phải trông nhờ vào sự bảo vệ và giúp đỡ của tổ chức tự vệ Phát Diệm. Huyện này có 40 xã, 32 giáo xứ gồm các tổng Hồi Thuần, Quy Hậu, Hướng Đạo, Như Tân và Phát Diệm với dân số khoảng 150.000 người. Khu An Toàn Phát Diệm được thành lập nằm trong một vị thế địa dư rất thuận lợi cho việc phòng thủ : ba mặt được bọc bởi ba con rạch ngăn cách các giáo xứ Phát Ngoại, Phú Vinh Trung và Lưu Phương. Tòa Giám Mục và Nhà Chung nằm ở giữa. Tính đến tháng 2 năm 1947 đã có khoảng 60.000 người tản cư về vùng Phát Diệm. Riêng thị xã Phát Diệm đã phải chứa khoảng 30.000 người. Giáo dân đùm bọc lấy nhau.
Tổ chức Công Giáo Cứu Quốc trở thành một lực lượng vũ trang chống cả Việt Minh lẫn Pháp. Tổ chức đã cho người vượt biên đi tìm mua vũ khí. Hai Giáo Phận Phát Diệm và Bùi Chu cũng đã liên lạc được với Hoà Thượng Thích Thiện Chiếu ở Thanh Hóa và Thượng Tọa Thích Tâm Châu ở Ninh Bình thành lập Mặt Trận Liên Tôn chống Cộng.
Pháp thuyết phục Đức Giám Mục Lê Hữu Từ để cho Pháp đem quân đến bảo vệ khu Phát Diệm, nhưng Đức Giám Mục không đồng ý. Ngày 22.11.1947, Pháp cho máy bay đến bắn phá khu Phát Diệm, bắn đạn vào cả Nhà Chung để uy hiếp tinh thần đồng bào Công Giáo. Trong khi đó Việt Minh cho bộ đội vây các xã Văn Hải, Phúc Nhạc và Mưỡu Giáp, bắt đi 596 người, trong đó có 13 người bị xử bắn ở núi Cánh Diều. Bị tấn công từ cả hai phía, khu tự vệ Phát Diệm vẫn đứng vững.
Ngày 29.2.1948, Chủ Tịch Mặt Trận Việt Minh Tỉnh Bộ Ninh Bình có triệu lập một buổi họp liên tôn để trấn an dư luận về những vụ bắt bớ vừa qua. Ông nói rằng Mặt Trận Việt Minh không chủ trương diệt tôn giáo và "có một vài hiểu lầm tại nơi nọ nơi kia là do hạ cấp làm" !
Tình trạng căng thẳng kéo dài đến ngày 16.10.1949, khi Pháp bất thần đem quân chiếm Phát Diệm.
Sau này, Linh mục Hoàng Quỳnh có viết trên tạp chí Đời Sống ngày 22.12.1953 cho biết rằng trong thời gian chiến đấu chống Cộng Sản, đã có khoảng 5 ngàn thanh niên Công Giáo bi Việt Minh bắt giam ở các trại Đầm Đùn, Yên Lai và Kim Tân.
Khu Phát Diệm có Pháp đóng nên Việt Minh gặp khó khăn khi mở cuộc tấn công vào các giáo xứ, Việt Minh quay qua tấn công ở các vùng khác, đặc biệt là trận Phú Ninh ở Bùi Chu vào tháng 11 năm 1949. Bộ đội và công an Việt Minh đã bắt hết các thanh niên trong giáo xứ, chiếm nhà thờ và nhà cha xứ, nhưng Linh mục Nguyễn Duy Tôn trốn được. Ngày 19.11.1949, Pháp mở một cuộc hành quân đi ngang qua vùng này, dân làng Phú Ninh mới được giải thoát.
Trong thời gian chống Việt Minh và chống Pháp, khu Phát Diệm cũng đã che chớ được nhiều nhân vật quan trọng, giúp họ thoát được sự sát hại của Việt Cộng. Đặc biệt là trường hợp của các ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Trần Văn Chương.
Khoảng tháng 6 năm 1946, khi Hồ Chí Minh ra lệnh tàn sát các lãnh tụ đảng phái quốc gia thì ông Ngô Đình Diệm đến ẩn nấp ở nhà Linh mục Độ, Chánh xứ Tuy Hòa. Việt Minh biết được nên đến giả vờ mời ông đi họp rồi đưa lên giam tại Tuyên Quang. Sợ ông Diệm cũng bị sát hại như trường hợp của ông Ngô Đình Khôi, nhiều người đã báo tin cho đức Giám Mục Lê Hữu Từ nhờ can thiệp gấp. Đức Giám Mục Lê Hữu Từ đã cùng Linh mục Phạm Quang Hàm và ông Ngô Tử Hạ (sau làm Bộ Trưởng Bộ Cựu Chiến Binh của Việt Minh) đến gặp Hồ Chí Minh yêu cầu trả tự do cho ông Ngô Đình Diệm. Hồ Chí Minh giả vờ không biết gì chuyện bắt ông Diệm và hứa sẽ cho lệnh thả ra. Ít lâu sau, ông Diệm đưa đưa về Hà Nội gặp Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh mời ông Diệm làm cố vấn, nhưng ông Diệm từ chối, viện lý do xin về thăm gia đình rồi mới quyết định. Hồ Chí Minh chỉ thị trả tự do cho ông Diệm.
Ông Trần Văn Chương bị quản chế ở Yên Mô, đã tìm cách chạy thoát về khu an toàn Phát Diệm. Ông Chương đổi tên thành Tham Huệ và ở trong Trường Lý Đoán (Đại Chủng Viện) Phát Diệm còn bà Trần Văn Chương ở Dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm. Một thời gian sau, Đức Giám Mục Hữu Từ cho người dẫn cả hai ông bà ra Hà Nội qua ngã Phủ Lý.
Ông Ngô Đình Nhu cũng đến tá túc ở Trường Lý đoán (Đại Chủng Viện) Phát Diệm khi bị Việt Minh lùng bắt. Nhân một đêm mưa gió, Bộ Chỉ Huy Phát Diệm đã dùng một chiếc xe tay che kín cho người kéo ông đi vào Thanh Hóa, nhà cha già Mai, Chánh xứ Tam Tổng. Đạp xe đạp đi kè kè một bên để dẫn đường cho người kéo xe và hộ tống ông Ngô Đình Nhu là một cậu thanh niên mặc áo tơi bằng lá và đội nón lá, đó là cậu Trần Kim Tuyến. Trần Kim Tuyến quê ở Tam Tổng nên rất rành đường sá ở khu này vì thế Bộ Chỉ Huy Phát Diệm đã giao cho cậu làm công việc dẫn đường và hộ tống ông Nhu. Cha già Mai đã nhờ Nguyễn Văn Châu, người Quảng Bình, đưa ông Nhu lên Bái Thượng và từ Bái Thượng đi theo tỉnh lộ 14 vượt rừng qua Lào. Khi hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu chấp chánh, Trần Kim Tuyến trở thành Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị, tức cơ quan mật vụ của ông Ngô Đình Nhu, còn Trung Tá Nguyễn Văn Châu làm Giám Đốc Nha Chiến Tranh Tâm Lý của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa.
Nhìn chung, trên toàn quốc, đa số các giáo xứ đều có thành lập các đơn vị tự vệ để chống sự xâm nhập hay tấn công của du kích Việt Minh.
c) Đàn áp Công Giáo từ 1954 đến 1975
1.- Ngăn cản và đàn áp đẫm máu cuộc di cư của người Công Giáo
Điều 14, đoạn b, của Hiệp Định Genève ngày 20.7.1954 quy định :
"Trong thời gian kể từ khi hiệp định này bắt đầu có hiệu lực đến ngày hoàn thành việc chuyển quân, nếu có những thường dân ở một khu thuộc quyền kiểm soát của bên này mà muốn sang ở vùng giao cho bên kia, thì nhà chức trách của khu trên phải cho phép và giúp đỡ sự di chuyển ấy.”
Trong Lời Tuyên Bố Cuối Cùng ngày 21.7.1954, ở đoạn 8 có nói :
"Phải triệt để thi hành những điều khoản trong hiệp định đình chỉ chiến sự nhằm mục đích bảo vệ tính mạng và tài sản của mọi người và nhất là phải để cho tất cả mọi người ở Việt Nam tự do lựa chọn vùng mình muốn sống."
Lúc đầu, Việt Cộng cho di cư khá dễ dàng. Người Công Giáo ý thức rằng không thể có tự do tôn giáo dưới chế độ cộng sản nên đa số quyết tâm ra đi. Về sau, số người bỏ làng mạc di cư vào Nam ngày càng đông, Việt Cộng thấy rằng nếu tình trạng này tiếp tục diễn ra, có thể làm suy yếu tiềm năng nhân lực và kinh tế của miền Bắc nên đã dùng nhiều biện pháp đàn áp dã man để ngăn chận. Nạn nhân chính của vụ đàn áp này đa số là người Công Giáo. Các ký giả Tây Phương đã viết khá nhiều về các cuộc đàn áp phong trào di cư với đầy đủ chi tiết. Sau đây là những vụ chính :
- Vụ Ba Làng : khoảng 8.000 giáo dân biểu tình trước nhà thờ Ba Làng đòi được quyền di cư, đã bị bộ đội và công an Việt Cộng xả súng bắn thẳng vào họ làm vô số người chết.
- Vụ Trà Lý : khoảng 2.000 giáo dân ra một cồn cát ở biển Trà Lý đợi tàu đến đón đi. Khi nước thủy triều dâng lên, mọi người bắt đầu xôn xao thì bộ đội ở trong bờ xả súng bắn ra khiến nhiều người bị chết trôi dạt trên sóng. Tiếng la kêu cứu vang cả một vùng trời. Tàu Le Capricieux và một vài tàu khác trông thấy đã đến cứu được 1445 người. Khoảng 600 người bị chìm dưới bể.
- Vụ Cửa Lò : Cửa Lò là vùng duyên hải nằm cách Hải Phòng chỉ khoảng 300 cây số, nhưng giáo dân không đi được vì bộ đội và công an canh gác rất kỹ. Em Mai Văn Thịnh, 12 tuổi, phải đánh lừa bằng cách tạo những đám cháy khắp nơi khiến bộ đội lo chữa cháy, nhờ đó 1156 dân làng xuôi thuyền đi được. Số phận em Mai Văn Thịnh không biết sau ra sao !
Những vụ đàn áp từng toán, từng gia đình hay từng cá nhân, có khi rất nghiêm trọng, nhưng không thể kể hết ở đây được. Sau 30.4.1975, người ta được biết có rất nhiều người Công Giáo đứng ra tổ chức di cư vào năm 1954 đã bị công an bắt và xử phạt từ 12 đến 20 năm khổ sai !
Kết quả : Đã có 860.206 người di cư được vào Nam, chia như sau :
- Thiên Chúa Giáo : 677.389 người (Công Giáo : 676.348 người, Tin Lành : 1.041 người)
- Phật Giáo : 182.817 người 2.
Giáo Hội Công Giáo miền Bắc từ 1954 - 1975
Sau cuộc di cư năm 1954, số giáo dân còn lại ở miền Bắc khoảng 750.000 người với 254 linh mục và 7 Giám Mục, chia làm 10 Giáo Phận. Ngoài ra, Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Jean Dooley cũng đã quyết định ở lại với Giáo Hội miền Bắc.
Việt Cộng đã ban hành nhiều biện pháp rất tinh vi để khống chế Giáo Hội Công Giáo. Trước hết, nhà cầm quyền quyết định cho ban hành một quy chế tôn giáo để giới hạn hoạt động của Giáo Hội Công Giáo. Để chuẩn bị dư luận cho việc công bố quy chế này Hà Nội đã mời một phái đoàn Công Giáo quốc doanh từ Ba Lan đến miền Bắc vào dịp lễ Phục Sinh năm 1955 để phối hợp với nhóm "Công Giáo cấp tiến" miền Bắc tuyên truyền về "tự do tôn giáo" tại các nước cộng sản. Phái đoàn đi gặp các Giám Mục Việt Nam và cho biết Ba Lan tuy theo chủ nghĩa xã hội nhưng Công Giáo vẫn được sinh hoạt bình thường.
* Sắc lệnh về tôn giáo
Ngày 14.6.1955 Hồ Chính Minh ban hành Sắc Lệnh số 234/SL về tôn giáo. Tuy đã chuẩn bị dư luận trước, nhưng khi Sắc Lệnh này vừa được công bố trên Nhật báo Nhân Dân số 488 ngày 15.8.1955 thì đã gặp ngay phản ứng mạnh mẽ của Giáo Hội Công Giáo miền Bắc vì các quyền tự do sống đạo và truyền đạo trong khoảng 100 năm qua không còn nữa. Sắc Lệnh quy định :
- Không được giảng đạo ngoài phạm vi nhà thờ. Cấm nói về tôn giáo trong các hội quán. Khi thuyết giảng trong các nhà thờ, giáo sĩ phải giảng về lòng yêu nước, nghĩa vụ công dân, sự phục tùng chính phủ và các đạo luật ban hành, ngay cả các đạo luật bài tôn giáo.
- Cho phép tôn giáo mở trường tư thục, nhưng phải dạy theo chương trình của chính phủ. Chỉ có thể dạy thêm giáo lý cho các học sinh muốn học.
- Các linh mục không được vào bệnh viện, trừ khi chính bệnh nhân xin đích danh.
- Tài sản của Giáo Hội do nhà nước quản lý. Các giáo sĩ chỉ được cấp một ít đất đai để sinh sống.
Chương trình giáo dục mà chính phủ bắt phải theo bao gồm cả môn học về chủ nghĩa Mác-Lênin và các bài cổ võ chủ nghĩa vô thần và bài xích tôn giáo.
Để làm dịu bớt dư luận, Hà Nội lại cho mời phái đoàn Công Giáo quốc doanh Tiệp Khắc qua thăm Giáo Hội miền Bắc. Phái đoàn do ông Rostielov Petra cầm đầu đã đi thăm khắp các giáo phận miền Bắc. Ông nói rằng khi người Công Giáo thực hiện các kế hoạch của Nhà Nước và Mặt Trận Tổ Quốc là thực hiện "lý tưởng Công Giáo". Đức Giám Mục Trịnh Như Khuê không cho phép các linh mục trong phái đoàn làm lễ cho giáo dân mà chỉ cho phép làm lễ riêng ở nhà thờ Cửa Bắc. Thái độ này đã làm nhà cầm quyền Hà Nội tức giận.
Vào dịp lễ Giáng Sinh năm 19(?), chính phủ bắt phải đọc trong các nhà thờ thông điệp của Hồ Chí Minh nguyền rủa đế quốc
* Thành lập tổ chức Công Giáo quốc doanh
Giáo sĩ đầu tiên của Công Giáo đã tham chính trong chính quyền Cộng Sản là Linh mục Nguyễn Bá Trực. Ông thuộc Giáo Phận Hà Nội và là một trong ba linh mục Việt Nam đầu tiên được đưa qua La Mã và Pháp học lấy bằng Tiến Sĩ. Ông cũng như Linh mục Ngô Đình Thục (sau nầy trở thành Giám Mục) đều đậu ba bằng Tiến Sĩ.
Linh mục Nguyễn Bá Trực tham gia kháng chiến từ 1945, được chọn làm đại biểu Quốc Hội đầu tiên của Việt Minh và là ủy Viên Thường Trực của Quốc Hội. Khi Pháp chiếm Bắc Việt, ông theo Việt Minh vào chiến khu và được cử làm Quốc Vụ Khanh của chính phủ, có nhiệm vụ liên lạc giữa chính phủ và Công Giáo. Ông đã nhiều lần được Hồ Chí Minh giao cho tiếp xúc với Đức Giám Mục Lê Hữu Từ ở Phát Diệm để giải quyết những vấn đề liên hệ đến khu tự trị này. Nhưng ông không đủ uy thế để thương lượng nên nhiều lần Hồ Chí Minh phải đích thân đến. Sau Linh mục Nguyễn Bá Trực, còn có hai linh mục nổi tiếng khác đã cộng tác với Cộng Sản, đó là Linh mục Vũ Xuân Kỹ và Linh mục Nguyễn Thế Vịnh. Linh mục Nguyễn Thế Vịnh sinh năm 1909 ở xứ Văn Hải, Phát Diệm, chịu chức linh mục năm 1936. Đầu tiên ông được bổ nhiệm coi sóc giáo xứ Hướng Đạo, rồi đến Phương Thượng và Quảng Phúc thuộc Giáo Phận Phát Diệm. Năm 1947, khi Việt Minh rút vào chiến khu, ông đã đi theo tham gia kháng chiến chống Pháp. Ông được Hồ Chí Minh giao cho phụ trách công tác Công Giáo vận ở trong cũng như ngoài nước .
Sau khi chiếm được miền Bắc, Hồ Chí Minh cũng muốn biến Giáo Hội Công Giáo miền Bắc thành một Giáo Hội Công Giáo Tự Trị như ở Trung Quốc, nhưng sau nhiều lần thăm dò, Hồ Chí Minh thấy rằng miền Bắc vẫn còn có một Khâm Sứ Tòa Thánh, 7 Giám Mục, 254 linh mục và 750.000 giáo dân. Đa số giáo dân ở vào những khu tập trung, được tổ chức rất chặt chẽ, có tinh thần chống Cộng mạnh nên việc đối phó không dễ dàng như Phật Giáo. Kinh nghiệm của khu tự trị Phát Diệm trong thời kỳ kháng chiến bắt buộc Hồ Chính Minh phải thận trọng. Vì thế, Hồ Chí Minh quyết định chỉ lập một tổ chức song hành để quấy phá Giáo Hội Công Giáo.
Vào đầu năm 1955, Mặt Trận Tổ Quốc, hậu thân của Mặt Trận Liên Việt, đã quyết định cho triệu tập một Đại Hội Đại Biểu Công Giáo vào ngày 11.3.1955 tại Hà Nội để thành lập một tổ chức liên kết người Công Giáo miền Bắc. Các đại biểu tham dự đại hội đều do Mặt Trận Tổ Quốc chỉ định. Các linh mục Nguyễn Bá Trực, Nguyễn Thế Vịnh, Vũ Xuân Kỹ, Hồ thành Biên (miền Nam tập kết) và ông Ngô Tử Hạ đã vận động tích cực cho việc tổ chức Đại Hội. Sau hai ngày thảo luận, Đại Hội đã quyết định thành lập "ủy Ban Liên Lạc Công Giáo Yêu Tổ Quốc và Hòa Bình" và bầu linh mục quốc doanh Vũ Xuân Kỷ làm Chủ Tịch, linh mục quốc doanh Hồ Thành Biên làm Phó Chủ Tịch. Ba linh mục quốc doanh khác là Nguyễn Thế Vịnh, Phạm Quang Phước và Võ Thành Trinh làm ủy Viên Trung ương của ủy Ban. Nhiệm vụ chính của ủy Ban là hô hào giáo dân tham gia tích cực vào việc thực hiện các kế hoạch của chính phủ. Tuy được Nhà Nước yểm trợ nhưng ủy Ban không làm được việc gì quan trọng vì giáo dân tẩy chay.
Sau khi lập xong tổ chức Công Giáo quốc doanh nói trên, nhà cầm quyền coi các Giám Mục miền Bắc như không nữa, họ tiếp xúc thẳng với từng linh mục và kết hợp hoạt động qua ủy Ban Liên Lạc Công Giáo. Năm 1960, linh mục Phạm Hân Quynh đã lên tiếng chỉ trích các hành động gây chia rẽ trong nội bộ Giáo Hội Công Giáo của ủy Ban nên bị công an bắt đi cải tạo và quản thúc trong suốt 30 năm.
* Xiết chặt vòng kiểm soát
Cũng trong năm 1955, nhà cầm quyền cho triệu tập một Hội Nghị Công Giáo Toàn Quốc thứ hai tại Hà Nội, trong có 16 linh mục bị chỉ định phải đến tham dự. Trong hội nghị này, Mặt Trận Tổ Quốc đã đưa ra một thỉnh nguyện thư gửi Đức Giáo Hoàng yêu cầu "trừng trị bọn lợi dụng tôn giáo phục vụ đế quốc. " Thỉnh nguyện thư này mở màn cho việc đàn áp các giáo sĩ và giáo dân có tư tưởng đối kháng với chính sách tôn giáo của chính phủ và bị lên án là "tay sai đế quốc".
Trước hết, Việt Cộng hạn chế sự di chuyển của linh mục nên những giáo xứ không có linh mục thường không có nghi lễ tôn giáo cho giáo dân. Giáo dân nào muốn dự thánh lễ phải đi rất xa, có khi phải nghỉ lại đêm. Các giáo xứ ở Quảng Yên, Hòn Gay và Cẩm Phả có khoảng 40.000 giáo dân nhưng không có linh mục nào. Suốt năm này qua năm khác, giáo dân không được dự thánh lễ, kể cả các ngày lễ lớn như lễ Giáng Sinh hay lễ Phục Sinh.
Tại những nơi có linh mục, Việt Cộng cố tình sắp xếp các giờ lao động hay hội họp trùng với các giờ kinh hay giờ lễ để giáo dân không tham dự được.
Năm 1956, Nhà cầm quyền miền Bắc bắt đầu trục xuất dần các linh mục thừa sai ngoại quốc. Sau 1954, có khoảng 20 linh mục thừa sai đã tình nguyện ở lại với giáo dân miền Bắc, trong đó có Đức Khâm Sứ Jean Dooley. Số linh mục này lần lượt bị gọi đến và ra lệnh phải rời Việt Nam. Đầu năm 1959, Đức Khâm Sứ Jean Dooley đang đau nặng, cũng đã bị trục xuất qua ngả Nam Vang. Đến năm 1960, việc trục xuất các linh mục thừa sai coi như đã hoàn tất. Sự thiếu thốn linh mục càng trở nên trầm trọng hơn.
Đến giai đoạn thứ hai, Việt Cộng bắt đầu thanh toán các trường Công Giáo. Bỗng dưng các học sinh không công giáo từ các vùng kế cận đến ghi tên học trường Công Giáo rất đông. Nhiều trường rất mừng khi thấy hiện tượng này, không ngờ đó là một âm mưu thâm độc của nhà cầm quyền Cộng Sản. Sau khi dồn được một số đông học sinh không công giáo vào trường Công Giáo, công an hướng dẫn cho những học sinh này đứng ra tố cáo linh mục hiệu trưởng và nổi loạn. Chinh phủ lấy lý do ổn định học đường, đã đứng ra quản lý trường Công Giáo. Vụ gay cấn nhất là vụ trường Dũng Lạc ở Hà Nội do Linh mục Nguyễn Văn Vinh làm hiệu trưởng. Khi nhà cầm quyền tuyên bố quản lý trường này, Linh Mục Nguyễn Văn Vinh đã gởi một văn thư phản đối đi khắp nơi. Thư này cũng được đọc trong các nhà thờ ở Hà Nội. Sau vụ này, Linh mục Nguyễn Văn Vinh bị đưa đi học tập cải tạo ở lại Quyết Tiến (còn gọi là trại Cổng Trời) thuộc tỉnh Hoàng Liên sơn, sát biên giới Trung quốc, phải sống chung với các tội nhân hình sự có án nặng và chết tại đây.
Xong vụ các trường tư thục Công Giáo, nhà cầm quyền miền Bắc từ từ chiếm đoạt các tài sản của Giáo Hội, kể cả các nơi thờ tự. Khi đang bị giam ở Thanh Hoá, tôi được gặp một ông chánh trương của một giáo xứ ở Nam Định cùng bị giam chung một trại với tôi. Ông có kể lại cho tôi nghe rằng khi muốn lấy nhà thờ giáo xứ của ông làm kho lúa, bọn cán bộ đã cho làm cạnh nhà thờ một kho lúa lợp sơ sài. Một hôm trời mưa to gió lớn, mái kho lúa bị trốc, cán bộ xin cha xứ cho tạm gởi lúa vào phần nửa dưới của nhà thờ trong khi chờ đợi sửa kho lúa lại. Linh mục chánh xứ đã đánh chuông kêu giáo dân tới giúp đưa lúa vào nhà thờ. Nhưng khi đưa lúa vào nhà thờ xong, bọn cán bộ đã cho chận phân nửa nhà thờ làm luôn kho lúa và dẹp kho lúa của họ. Bằng những thủ đoạn tinh vi tương tự, nhà cầm quyền miền Bắc cướp dần các tài sản còn lại của Giáo Hội.
Sau phần tước đoạt tài sản, nhà cầm quyền miền Bắc tiến tới chỗ phân tán các giáo xứ đông đảo, bằng cách buộc đi xây dựng các nông trường tập thể. Thời gian ở nông trường kéo dài năm này qua năm khác khiến giáo dân phải xin làm nhà tại nông trường và đưa gia đình đến ở luôn. Đặc biệt, nhà cầm quyền chú ý đến các thành phần ưu tú trong giáo xứ, họ tìm mọi cách để đưa các thành phần này ra khỏi giáo xứ, kể cả cho những công ăn việc làm tốt. Một ông chánh trương khác mà tôi được gặp khi đi lao động ngoài trại cho biết trường hợp gia đình ông bị đưa lên miền núi như sau : Trước đây gia đình ông ở một giáo xứ gần biển tại Thanh Hóa. Một hôm, có người quen ở làng kế cận đến rủ con trai của ông đi làm ăn. Chuyến đầu, cậu con trai đem tiền lời về khá nhiều. Hỏi ra, thì cháu đi buôn thuốc lá. Chuyến thứ hai bình an vô sự. Nhưng đến chuyến thứ ba thì bị bắt. Cán bộ xã đã gọi ông lên và bảo nếu chịu dời gia đình lên huyện Cẩm Thủy ở vùng núi canh tác thì họ tha cho, còn nếu gia đình không chấp nhận, con trai ông sẽ phải đi cải tạo lâu dài về tội buôn bán trái phép. Khi biết thằng con trai ông bị gài bẫy, ông đành chấp nhận giải pháp do công an xã đưa ra. Bằng những hình thức như thế, nhà cầm quyền đã làm các giáo xứ miền Bắc mất đi các thành phần có khả năng lãnh đạo giáo xứ.
* Quỳnh Lưu nổi dậy
Trong thời gian Pháp chiếm đóng Việt Nam, các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh nằm trong vùng Việt Minh kiểm soát nên các giáo xứ thuộc các tỉnh này bị kìm kẹp gắt gao. Sau khi hiệp định Genève được ký kết, giáo dân các giáo xứ trong vùng Việt Cộng kiểm soát không thể di cư được. Bị xiết chặt quá lâu, vào đầu năm 1956, các giáo dân thuộc các giáo xứ Vạn Kim, Quang Trung, Minh Châu, Tân Nho, Diễm Tân, Diễm Đức, Diễm Đông, Diễm Nguyên, Yên Trung, Đức Vinh, Hồng Thăng và Đại Gia ở Nghệ An đã triệu tập một đại hội, có mời đại diện chính quyền đến tham dự. Trong đại hội này, giáo dân đã bất thần đưa ra một bản kiến nghị gồm 4 điểm sau đây :
1. Trả lại tất cả các linh mục đang bị bắt bớ giam cầm.
2. Trả lại xác các linh mục đã bị hành quyết hay thủ tiêu.
3. Trả lại các tài sản của Giáo Phận, giáo xứ và đền Đức Mẹ đã bị chính phủ tịch thu.
4. Đền bù xứng đáng danh dự của các giáo sĩ và giáo dân bị nhục mạ và phỉ báng.
Kiến nghị này được lập thành 5 bản gởi cho Tòa Thánh Vatican, Hồ Chí Minh, Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến và Chính quyền miền Nam.
Đến ngày 9.11.1956, khi hay tin ủy Hội Quốc Tế sắp đi qua Cầu Giát, hàng ngàn giáo dân kéo ra nằm ở trên quốc lộ 1, đưa hàng bao bố đơn thỉnh nguyện xin được di cư. Sau đó họ tập trung tại làng Cẩm Trường mở hội nghị. Bộ đội và công an kéo đến giải tán, hai bên xô xát nhau, chết khá nhiều.
Sáng ngày 13.11.1956, giáo dân thành lập những toán nghĩa quân võ trang tập họp tại Quỳnh Lưu, kéo đi biểu tình biểu dương lực lượng. Khoảng 3.000 thanh niên ở Ba Làng, Do Xuyên và Nông Cống ở Thanh Hóa bí mật kéo vào yểm trợ. Thanh niên các vùng khác cũng kéo tới cứu viện. Trước tình thế này, Hồ Chí Minh ra lệnh cho Văn Tiến Dũng huy động các lực lượng quân sự ở Thanh Hóa, Phủ Quỳ và Đồng Hới vây đánh và Quỳnh Lưu ngập chìm trong máu lửa. Nghĩa quân không kháng cự nổi phải chạy vào rừng. Bộ đội tiến vào làng bắt cả đàn bà và trẻ con dẫn đi để tra khảo từng người xem ai chủ xướng vụ nổi loạn này. Các linh mục bị đưa về giam tại Hà Nội.
* Những ngày đen tối
Năm 1970, khi Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa mở cuộc hành quân qua Cambodia, nhà cầm quyền miền Bắc sợ Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa có thể bất thần tấn công miền Bắc nên đã ra lệnh cho công an đưa đi cải tạo gần hết các giáo sĩ và giáo dân có khả năng lãnh đạo của Công Giáo. Năm 1976, khi chúng tôi được chuyển từ trại Long Thành ra trại Thanh Cẩm ở Thanh Hóa, chúng tôi được gặp khoảng 160 tu sĩ và giáo dân thuộc các vùng Thái Bình, Bùi Chu, Phát Diệm, Thanh Hóa ... đang bị giam giữ tại đây. Những người này được tập trung vào một khu riêng. ọỌ cho chúng tôi biết họ đã bị tập trung từ 1970. Đến năm 1978 họ bị chuyển qua lập trại Thanh Phong, cũng ở Thanh Hóa. Phải đến năm 1986 họ mới được thả về. Ở các trại khác cũng có những thành phần như vậy bị giam giữ, nhưng chúng tôi không tìm hiểu được. Một thanh niên Công Giáo ở Thái Bình đã kể lại cho tôi nghe trường hợp anh bị bắt như sau: Một hôm nhà cầm quyền cho biết Đức Giám Mục Đinh Đức Trụ sẽ về thăm các giáo xứ trong vùng. Các cán bộ thông tin đã giúp đỡ phương tiện cho các giáo xứ tổ chức đón tiếp Đức Giám Mục rất trọng thể. Ai cũng tưởng chính phủ có chính sách tôn giáo mới. Nhưng sau khi Đức Cha Trụ đi được một tuần, những thành phần đứng ra tổ chức tiếp đón Đức Cha, từ anh giúp lễ, hát thánh ca đến những người tổ chức đám rước đều bị gọi đi học tập cải tạo. Người thanh niên Thái Bình kể chuyện này cho tôi vào năm 1978 khi anh mới 26 tuổi và đã ở tù được 7 năm. Nhà cầm quyền miền Bắc đã tạo ra rất nhiều cái bẫy khác nhau để các phần tử tích cực của các giáo xứ xuất đầu lộ diện rồi bắt. Phải đến năm 1986 họ mới được trả tự do hết, nghĩa là sau 16 năm giam giữ.
Phật Giáo không hề bị những vụ "pháp nạn" này.
Kết quả, sau 20 năm đàn áp, số giáo dân miền Bắc vẫn tăng đều theo nhịp tăng của dân số. Tới ngày 30.4.1975, người ta được biết số giáo dân Công Giáo tại miền Bắc có khoảng 1.158.000 người với khoảng 600 giáo xứ, nhưng số linh mục không còn bao nhiêu, đa số từ 60 tuổi trở lên. Có Giáo Phận như Giáo Phận Hải Phòng có 145.000 giáo dân mà chỉ có 7 linh mục từ 62 tuổi trở lên. Giáo Phận Phát Diệm có 95.000 giáo dân cũng chỉ có 15 linh mục. Trung bình cứ 4.000 giáo dân mới có một linh mục. Nhà cầm quyền miền Bắc tính rằng chỉ trong vòng 15 năm nữa, số linh mục già sẽ qua đời, giáo dân không ai coi sóc, Giáo Hội Công Giáo sẽ tan rã !
Nhưng Việt Cộng đã lầm. Sau khi tìm hiểu tình hình Giáo Hội miền Bắc, các giáo sĩ và giáo dân miền Nam đã ngạc nhiên khi nhận ra rằng đức tin của giáo dân miền Bắc còn vững vàng hơn giáo dân ở miền Nam vì đức tin của họ đã được tôi luyện trong đau khổ, đúng như Ralph Waldo Enerson đã nói :
"Trên sự đổ nát của giáo hội và tôn giáo, Thượng Đế đã xây đền thờ trong lòng cơn người".
Một số linh mục "chui" đã được phong chức để đi làm mục vụ cho giáo dân. Nhiều thầy giảng đã được huấn luyện bí mật để hướng dẫn các giáo xứ không có linh mục. Cha mẹ dạy đạo cho con v.v. Bằng những hình thức đó, Giáo Hội vẫn tồn tại.
d) Tình hình Giáo Hội Công Giáo sau 30.4.1975 Sau 30.4.1975, nhà cầm quyền Hà Nội cho áp dụng tại miền Nam các biện pháp đàn áp Công Giáo đã áp dụng ở miền bắc.
1.- Dùng Công Giáo khống chế Công Giáo
Công việc đầu tiên mà Việt Cộng nhận thấy phải làm ngay sau khi chiếm được miền Nam là trục xuất Đức Khâm Sứ Tòa Thánh, giam giữ các các Giám Mục, linh mục và giáo dân được xếp vào loại "phản động", có thể lãnh đạo chống chế độ. Nguyễn Đình Đầu, một cán bộ Việt Cộng nội tuyến trong hàng ngũ Công Giáo, ở trong nhóm Sống Đạo, đã đúng sau sắp xếp và tổ chức các trận đánh phá này.
* Trục xuất Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Henri Lemaitre
Để yểm trợ cho quyết định của chính phủ trong việc trục xuất Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Henri Lemaitre, nhà cầm quyền giao cho hai linh mục Huỳnh Công Minh và Trương Bá Cần, là hai linh mục họ đã móc nối được trong thời gian hai ông này được Giáo Hội cho đi du học ở Pháp, đứng ra tổ chức "phong trào quần chúng" yêu cầu trục xuất Đức Khâm Sứ. Phong trào này gồm có 7 tổ chức sau đây : Thanh Niên Công Giáo Đại Học, Công Giáo Xây Dựng Hòa Bình, Thanh Lao Công, Liên Đoàn Sinh Viên Công Giáo, Công Giáo và Dân Tộc, Tổng Đoàn Thanh Niên Công Giáo, Nhóm Liên Tu Trẻ và Đoàn Sinh Viên Dự Tập Dòng Chúa Cứu Thế. Đa số tổ chức này mới được thành lập, mỗi tổ chức chỉ có vài người.
Trước hết, họ cho phổ biến một bức tâm thư tố cáo Tổng Giám Mục Henri Lemaitre trước đây đã yểm trợ cho chính sách thực dân mới của Hoa Kỳ và cho chính quyền sai Nguyễn Văn Thiệu, tố cáo các Khâm Sứ Tòa Thánh đã can thiệp quá nhiều vào vấn đề nội bộ của Giáo Hội Việt Nam và tuyên bố "
Giải thoát các Giám Mục miền Nam Việt Nam khỏi áp lực xâm lấn của Khâm Sứ Tòa Thánh là giúp Giáo Hội Việt Nam được trưởng thành. " Ngày 2.5.1975 họ biểu tình đòi Đức Khâm Sứ Tòa Thánh phải ra đi. Ngày 14.5.1975, một đoàn biểu tình do
Đoàn Phú Khánh đứng đầu, đã xâm nhập Tòa Khâm Sứ ở đường Hai Bà Trưng, trèo lên nóc nhà hạ cờ Tòa Thánh xuống và căng biểu ngữ đòi Khâm Sứ Tòa Thánh phải cút đi. Họ đẩy Đức Khâm Sứ, một linh mục phụ tá người Ba Lan và linh mục bí thư Trần Ngọc Thụ ra khỏi Tòa Khâm Sứ. Linh mục Huỳnh Công Minh chụp hình còn Linh mục Thanh Lãng phát bản cáo trạng tố cáo năm đời Khâm Sứ Tòa Thánh can dự vào vấn đề nội bộ của Việt Nam.
Trong thời gian từ 5.5.1975 - 4.6.1975, các nhóm trên đã tiếp xúc với Đức Khâm Sứ Tòa Thánh để đe dọa và nói nếu không rời Việt Nam, họ sẽ có những "biện pháp đáng tiếc."
Ngày 3.6.1975, các nhóm nói trên đến quấy phá Tòa Khâm Sứ một lân nữa, họ quấy phá cả vào lúc ban đêm. Nghe tin này các thanh niên giáo xứ Bùi Phát kéo tới định can thiệp, nhưng khi mới kéo tới cầu Trương Minh Giảng thì bị bộ đội xả súng bắn thẳng vào, một người bị chết và nhiều người bị thương. Linh mục Vũ Bình Định, phó xứ Bùi Phát, bị bắt sau đó.
Ngày 4.6.1975, Bộ Ngoại Giao Chính Phủ Lâm Thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã mời Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre tới, yêu cầu Ngài phải lánh khỏi Việt nam một thời gian càng sớm càng tốt. Ngày hôm sau, Đức Khâm Sứ đã phải rời Việt Nam.
* Trục xuất Đức Tổng Giám Giám Mục Nguyễn Văn Thuận
Trước 30.4.1975, theo đề nghị của Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre, ngày 25.4.1975, Tòa Thánh Vatican đã bổ nhiệm Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, đang là Giám Mục Nha Trang, làm Tổng Giám Mục hiệu tòa Vadesitana, Phụ Tá Tổng Giám Mục Saigon với năng quyền kế vị Tổng Giám Mục Saigon. Ngày 12.5.1975, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình cho phổ biến thông cáo thông báo sự bổ nhiệm nói trên. Được tin này, một số linh mục đã đến bao vây Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình và Đức Phó Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận đang có mặt tại Chủng Viện Tháp Giuse ở đường Cường Để để chất vấn và yêu cầu Đức Phó Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận từ chức. Nhóm linh mục này gồm có các Linh mục Trương Bá Cần, Trần Viết Thọ, Vương Đình Bích, Phan Khắc Từ, Thanh Lãng, Nguyễn Quang Lãm và Hoàng Kim.
Trước đó, ngày 8.5.1975, nhóm linh mục nói trên đã gửi Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình một văn thư yêu cầu hoãn công bố việc bổ nhiệm Đức Phó Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận. Ký tên trong văn thư này còn có các Linh mục Huỳnh Công Minh, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Đinh Bình Định, Nguyễn Thiện Toàn, Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Văn Huệ và Nguyễn Nghị.
Ngày 13.5.1975, một toán sinh viên Công Giáo nằm trong tổ chức đòi trục xuất Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre đã xâm nhập Tòa Tổng Giám Mục Saigon, căng lên ba biểu ngữ như sau : "
Nguyễn Văn Thuận, Giám Mục của ai ?", "
Vì quyền lợi của Giáo Hội Việt Nam, yêu cầu Nguyễn Văn Thuận từ chức", "
Không có hòa giải, Nguyễn Văn Thuận phải rút lui. "
Ngoài ra, nhóm này cũng gởi lên Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Henri Lemaire, người mà họ đang yêu cầu "cút đi", một thỉnh nguyện thư tố cáo Giám Mục Nguyễn Văn Thuận là một Giám Mục chống Cộng, thuộc dòng dõi chống Cộng cực đoan, đã tổ chức Phong Trào Công Lý và Hòa Bình để huấn luyện cán bộ chống Cộng và góp phần thành lập đảng Nhân Xã, hậu thân của Đảng Cần Lao. Họ lên án Giám Mục Nguyễn Văn Thuận là thành phần chống Cộng thâm tín nhất, quy mô nhất và hữu hiệu nhất ... Theo họ, trong tinh thần hòa hợp hiện nay, khi "
Mỹ Thiệu và tay sai đã dẫm lên nhau chạy trôn, sự bổ nhiệm một Giám Mục chống Cộng tại Saigon là một điều nguy hiểm không những cho Giáo Hội mà còn cho cả dân tộc Việt Nam" Họ đòi Đức Phó Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận phải từ chức để "
tránh cho Giáo Hội và dân tộc Việt Nam những phiêu lưu vô vọng và nguy hiểm."
Sau khi hội kiến với nhóm chống đối để thông cảm không thành công, ngày 7.6.1975, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đã gởi thư thông báo cho các linh mục, tu sĩ và giáo dân cho biết :
"
Tôi đã hết sức ôn hòa, lắng nghe và thông cảm đồng thời giải thích trực tiếp hoặc gián tiếp cho những ai muốn đối thoại với tôi về những sự việc trên. Nhưng tình trạng ấy chưa khả quan hơn."
Sau đó, Ngài kêu gọi như sau :
"
Tôi kêu gọi tất cả quý cha, các tu sĩ nam nữ và toàn thể giáo dân sẵn sàng tuân phục hoàn toàn quyết định của Tòa Thánh La Mã"
Ngày 8.6.1975, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình cũng gởi cho Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Ủy Ban Trung ương Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam yêu cầu ba điểm sau đây :
1 Triệt để thi hành Sắc Lệnh Tự Do Tín Ngưỡng và chính sách 10 điểm của chính phủ để gây tin tưởng và phấn khởi của toàn dân đối với chính phủ.
2. Chấm dứt chiến dịch tuyên truyền bôi nhọ, vu cáo các chức sắc của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.
3. Chận đứng ngay chiến dịch vận động phi pháp trục xuất Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, vì việc trục xuất phi pháp này vi phạm trầm trọng Sắc Lệnh Tự Do Tín Ngưỡng và chính sách 10 điểm của chính phủ, sẽ gây nguy hại cực kỳ lớn lao không lường được, về đối nội cũng như đối ngoại, cho Quốc Gia Dân Tộc.
Nhưng câu chuyện cãi qua cãi lại này rồi cũng phải kết thúc. Chiều ngày 15.8.1975, tại Nhà Hát Thành Phố (trụ sở Hạ Nghị Viện cũ), Ủy Ban Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Thành Phố Hồ Chí Minh tổ chức cuộc họp gồm 350 đại diện các dòng tu nam nữ và giáo xứ để nghe trình bày về trường hợp Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận. Ông Mai Chí Thọ tuyên bố chính quyền Cách Mạng quyết định đưa Giám Mục Nguyễn Văn Thuận về lại Nha Trang, nơi đương sự cư trú trước ngày giải phóng với lý do sự hiện diện của Giám Mục Nguyễn Văn Thuận gây trở ngại cho sự đoàn kết dân tộc.
Cũng trong ngày 15.8.1975, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận đã bị công an bắt, nhưng không phải đưa về Nha Trang như Mai Chí Thọ đã tuyên bố mà đưa đi biệt giam nhiều nơi ở Saigon. Ngày 8.12.1976, tôi bị Việt Cộng giải ra Bắc và tôi đã gặp Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận cũng bị giải đi trên một chuyến tàu với tôi, nhưng khi đến Hải Phòng, Ngài bị đưa ra trại Vĩnh Phú, còn tôi bị chuyển vào Thanh Hóa. Sau một thời gian giam giữ, nhờ sự can thiệp của các tổ chức quốc tế và Tòa Thánh La Mã, năm 1982 Ngài được đưa đến quản thúc tại giáo xứ Giang Xá cách Hà Nội khoảng 20 cây số cho đến ngày 21.11.1988 thì được phóng thích, nhưng đặt trong tình trạng quản chế. Năm 1991 Ngài bị cưỡng bức xuất ngoại và hiện nay đang ở La Mã. Hà Nội cương quyết không cho ngài về kế vị Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình hay làm Tổng Giám Mục bất cứ nơi nào.
2.- Khống chế các giáo sĩ có uy tín
Song song với các vụ trục xuất Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Henri Lemaitre và Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, nhà cầm quyền Cộng Sản cũng chú ý đến các giáo sĩ có khả năng lãnh đạo các cuộc chống đối chính phủ như Linh mục Hoàng Quỳnh, Linh mục Trần Hữu Thanh và Linh mục Đinh Bình Định.
* Linh mục Hoàng Quỳnh : Khi còn ở Phát Diệm, ông đã từng giữ các chức Tổng Tuyên úy Thanh Niên Cố Vấn Chỉ Đạo Chiến Khu Công Giáo Phát Diệm, Phó Chủ Tịch Ban Chấp Hành Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc và Tổng Chỉ Huy Tự Vệ, nên thường được gọi là Cha Tổng. Vào Nam, ông coi giáo xứ Bình An ở Chợ Lớn. Năm 1964, khi có các rối loạn do Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc miền Trung gây ra, ông được bầu làm Chủ Tịch Khối Công Dân Công Giáo để đối phó với tình hình. Tính tình hòa nhã, không bao giờ khích bác ai, nhưng rất cương quyết, ông đã giúp khối Công Giáo đương đầu với nhiều hoàn cảnh khó khăn. Với một người có thành tích như vậy, không bao giờ Việt Cộng để cho tự do sau khi chiếm được miền Nam. Năm 1976, sau vụ Vinh Sơn, công an đã bắt Linh mục Hoàng Quỳnh giam vào khám Chí Hòa với tội danh là thành phần phản động và có nợ máu với nhân dân. Ông bị bọn cán bộ quản lý trại giam đánh chết năm 1979 tại khám Chí Hòa rồi đem xác đi chôn lén.
* Linh mục Trần Hữu Thanh : Sáng lập Phong Trào Chống Tham Nhũng dưới thời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và phát động phong trào này khắp cả nước. Ông là linh mục Dòng Chúa Cứu Thế và là nhà hùng biện của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Ông có tài diễn thuyết rất hấp dẫn và sâu sác. Chính ông là người đã viết bộ "
Cẩm nang của người Công Giáo dưới chế độ Cộng Sản", đem huấn luyện cho các cán bộ Công Giáo hai năm trước ngày Việt Cộng chiếm miền Nam Việt Nam. Rút kinh nghiệm về các biện pháp mà Cộng sản áp dụng tại miền Bắc, ông hướng dẫn giáo dân phương cách để tồn tại khi phải sống dưới chế độ cộng sản. Công an Việt Cộng cũng đã bắt ông giam vào khám Chí Hòa sau khi chiếm được miền Nam, sau đó đưa ông ra quản chế ở miền Bắc và hiện nay vẫn chưa trả tự do.
* Linh mục Đinh Bình Định : ông là một linh mục trẻ, có kiến thức rộng, trông coi giáo xứ Tân Sa Châu ở Quận II Saigon. Ông có tài tổ chức quần chúng thành hàng ngũ để đối phó với mọi biến cố. Ông cũng là Phó Chủ Tịch Phong Trào Chống Tham Nhũng của Linh mục Trần Hữu Thanh. Mặc dầu ông có ký tên vào thỉnh nguyện thư yêu cầu Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận từ chức, nhưng sau đó ông vẫn bị công an bắt đi cải tạo 10 năm. Năm 1985, gặp lại tôi ở Saigon, ông có than phiền với tôi về việc nhà cầm quyền đã lầm lẫn khi giam giữ ông quá lâu. Ông cho rằng ông chỉ chống tham nhũng chứ chưa có hành động gì chống Cách Mạng, không hiểu tại sao nhà cầm quyền đã giam giữ ông lâu như vậy. Tôi thưa với ông rằng cha bị giam lâu không phải vì tội "chống tham nhũng" mà vì tội "có tài tổ chức" và có uy tín đối với giáo dân. Nhà cầm quyền đề phòng khi có những sự bất mãn vì các chính sách mới của Nhà Nước, cha sẽ đứng lên tổ chức giáo dân chống chế độ nên bắt cha giam giữ trước để trừ hậu họa. Nay tình hình tạm ổn định, họ mới thả ra.
Gần như Giáo Phận nào cũng có các giáo sĩ bị giam giữ trong tình trạng tương tự như đã nói trên. Tính chung, đã khoảng trên 200 linh mục bị đưa đi học tập cải tạo, trong có 139 linh mục tuyên úy. Khoảng 15 linh mục đã chết trong các trại tù.
3.- Thanh toán các tổ chức bị coi là phản động
Sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam Việt Nam, rất nhiều tổ chức nổi lên chống Cộng Sản, trong đó có cả các tổ chức chống đối giả tạo do chính công an Cộng Sản dựng lên để câu các thành phần chống đối chế độ tham gia rồi thanh toán. Khi ở trong tù, tôi gặp rất nhiều anh em trẻ đã bị bắt vì bị các tổ chức chống Cộng giả này lừa. Về phía Công Giáo, có rất nhiều tổ chức chống Cộng do một số giáo sĩ hay giáo dân lập ra, và cũng có vài tổ chức chống Cộng giả do công an Việt Cộng lập để lấy cớ tịch thu các cơ sở của Công Giáo. Sau đây là một số tổ chức quan trọng đã bị Việt Cộng thanh toán :
* Vụ Mặt Trận Phục Quốc : vụ này thường được gọi là vụ Vinh Sơn vì xẩy ra tại khu nhà thờ Vinh Sơn ở Quận III, Saigon vào năm 1976. Một nhóm giáo sĩ và giáo dân Công Giáo đã thành lập một tổ chức chống Cộng có tên là Mặt Trận Phục Quốc, đặt trụ sớ phía sau nhà thờ Vinh Sơn. Liên hệ đến vụ này có các Linh mục Đỗ Văn Nghị, Nguyễn Quang Minh, Nguyễn Văn Chức và ông Nguyễn Việt Hưng. Hai Linh mục Nguyễn Quang Minh và Nguyễn Văn Chức bị án khổ sai chung thân còn Linh mục Đỗ Văn Nghị bị án tử hình và bị bắn tại Thủ Đức ngày 15.3.1978.
* Vụ Việt Tiến : Vụ này xẩy ra ở khu nhà thờ Fatima, Bình Triệu vào năm 1977 nên thường được gọi là vụ Fatima. Một số giáo sĩ và giáo dân tổ chức chống lại các sự vi phạm quyền tự do tôn giáo của nhà cầm quyền. Linh mục nhạc sĩ Huyền Linh bị phạt chung thân khổ sai, còn Linh mục Võ Văn Bộ bị phạt 15 năm tù và đã được trả tự do năm 1992.
* Vụ Mặt Trận Liên Tôn : Vụ này do Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế Nguyễn Văn Vàng chủ động. Ông là một nhà hùng biện nổi danh của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Ông đã cho lập chiến khu Phụng Thiên ở vùng Phương Lâm và Gia Kiệm vào năm 1979. Nhờ tài thuyết phục của ông, rất nhiều người theo. Nhưng do phản gián của Việt Cộng len lỏi vào, chiến khu của ông bị phá vỡ, ông bị kết án khổ sai chung thân và chết tại trại Hàm Tân, Bình Tuy, năm 1989.
* Vụ Đắc Lộ : Trung Tâm Đắc Lộ thuộc Dòng Tên tọa lạc ở 161 đường Yên Đổ (nay gọi là Lý Chính Thắng), Quận III, Saigon. Đây là một trung tâm khá lớn mà Việt Cộng muốn chiếm từ lâu, nhưng chưa có cơ hội. Trung tâm này có phát hành một tờ báo nhỏ in ronéo, có tên là
Đạo Nhập Thế, do Linh mục Lê Thanh Quế chủ biên. Tờ báo hướng dẫn cách sống đạo của người giáo dân trong giai đoạn mới chớ không trực tiếp chống chính quyền. Những người đi phổ biến tờ báo này có ông Nguyễn Văn Hiển và nhiều sinh viên khác. Công an biết ông Nguyễn Văn Hiển là một thành phần có tinh thần chống Cộng nên cho hai mật báo viên vốn là người quen biết của ông Hiển từ trước, trong đó có một người tên Mai, đến xin tham gia phổ biến tờ báo để theo dõi. Vì hai người này đều là Công Giáo, một người xuất thân từ trường Tabert, nên được ông Hiển coi như "đồng chí". Một thời gian sau, hai người này xúi ông Hiển nên lợi dụng việc phổ biến tờ báo thuyết phục các giáo sĩ và giáo dân tổ chức võ trang chống Cộng, dùng cơ sở Đắc Lộ làm bản doanh hoạt động, họ sẽ tìm mua võ khí và cung cấp cho. Có lần họ đem võ khí đến giao cho ông Nguyễn Văn Hiển, nhưng ông này không dám nhận. Ông Hiển chưa làm gì khác hơn là lên tiếng khích bác chế độ trước mặt hai tên mật báo viên. Những lời kích bác này đều được hai mật báo viên báo cáo đầy đủ cho công an. Sau khi dụ dỗ ông Hiển và những người liên hệ võ trang chống đối không thành, hai tên nội tuyến đem đến một số tài liệu hô hào chống đối chế độ để nhờ ông Hiển phân phối cùng một lúc với tờ Đạo Nhập Thế.
Khi tin rằng các tài liệu chống chế độ đã được đem vào Trung Tâm để phát một lần với tờ Đạo Nhập Thế, ngày 12.12.1980 công an tràn vào Trung Tâm Đắc Lộ lục soát khắp nơi, nhưng không bắt được tài liệu phản động nào. Tuy vậy công an vẫn bắt giam Linh mục Nguyễn Công Đoan, Giám Tỉnh Dòng Tên tại đây, Linh mục Lê Thanh Quế, chủ biên tờ Đạo Nhập Thế và các Linh mục khác trong Trung Tâm như Khuất Duy Nguyên, Đỗ Quang Chính và Hoàng Sĩ Quý. Ông Nguyễn Văn Hiển và những người quan hệ chặt chẽ với ông Hiển đều bị bắt. Khi đối chất với hai tên mật báo tại công an, ông Nguyễn Văn Hiển đã bác bỏ tất cả những lời tố cáo của hai tên mật báo và công an cũng không đưa được bằng chứng cụ thể nào để buộc tội. Các Linh mục bị bắt đã khai họ không biết gì đến hành động của ông Nguyễn Văn Hiển và hai mật báo viên kia. Nhưng cuối cùng tất cả đều bị truy tố ra tòa về hai tội chính : âm mưu lật đổ chính quyền và tuyên truyền đầu độc dư luận chống phá chế độ. Trong phiên tòa ngày 29.6.1982, các cuộc đối đáp qua lại khá gay cấn : ông Nguyễn Văn Hiển yêu cầu Viện Kiểm Sát Nhân Dân xuất trình bằng chứng ông đã âm mưu lật đổ chế độ, nhưng Viện Kiểm Sát đã trả lời : "
Bằng chứng không quan trọng bằng cái đầu óc của anh". Linh mục Lê Thanh Quế nói ông không biết gì về các việc ông Nguyễn Văn Hiển và hai nhân chứng đã làm và nếu bảo có âm mưu lật đổ chính quyền thì xin tòa đưa ra bằng chứng và hậu quả. Tòa trả lời rằng "
tội của bị cáo không phải là tội hình mà là tội chính trị nên không cần bằng chứng và hậu quả. Nếu phải chờ bằng chứng và hậu quả thì chế độ đã bị lật đổ mất rồi!”
Linh mục Nguyễn Công Đoan đã bị truy tố về tội hỗ trợ cho Linh mục Lê Thanh Quế phát hành báo chí bất hợp pháp. Ông trình bày rằng tờ Đạo Nhập Thế đã có trước 30.4.1975, chỉ hướng dẫn về giáo lý, không đề cập đến chính trị. Nếu bảo chúng tôi chống đối chế độ xin cho bằng chứng.
Kết quả tòa tuyên án ông Nguyễn Văn Hiển khổ sai chung thân, Linh mục Lê Thanh Quế 15 năm tù giam, Linh mục Nguyễn Công Đoan 12 năm tù giam, Linh mục Đỗ Quang Chính 5 năm tù giam và Linh mục Khuất Duy Linh 4 năm tù treo và 5 năm thử thách. Toàn bộ cơ sở Đắc Lộ bị tịch thu. Trung Tâm này hiện dùng làm tòa soạn báo Tuổi Trẻ của Việt Cộng.
Ông Nguyễn Văn Hiển bị đưa ra giam ở trại trừng giới Xuân Phước ở Phú Yên. Đây là một trại khổ sai được đối xử tàn tệ nhất tại miền Nam Việt Nam. Đến năm 1991 vì quá già yếu, ông được chuyển về trại Z30A ở Xuân Lộc và đã qua đời tại đây ngày 22.11.1992. Ông Nguyễn Văn Hiển xuất thân từ Đại Chủng Viện Huế, đã dành cả cuộc đời tham gia tích cực vào các hoạt động tôn giáo, xã hội và chính trị, nhưng cuối cùng ông đã bị Việt Cộng lừa và chết trong tù. Lúc bị giam ở Saigon, ông bị tra tấn dã man và bị biệt giam liên tục cho đến ngày đem ra xét xử.
Sau khi thanh toán tờ Đạo Nhập Thế, công an cũng bắt luôn ông Vũ Huy Bá, hiệu là Xuân Huy, vào ngày 8.9.1981 vì tội xuất bản bất hợp pháp tờ Sống Đức Tin và kết án ông tập trung cải tạo 5 năm. Ông Xuân Huy đã dùng tờ Sống Đức Tin để phê bình những sự hướng dẫn lệch lạc về giáo lý của tờ báo Công Giáo quốc doanh là tờ Công Giáo và Dân Tộc của Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước. Nhóm này đã yêu cầu công an bắt ông. Sau khi ra tù, ông cùng gia đình đã được sang định cư tại Hoa Kỳ năm 1993 và đang viết cuốn "Đức Tin Đại Thắng" nói về các vụ đàn áp Công Giáo tại Việt Nam.
* Vụ Đồng Công : Dòng Đồng Công nằm ở ấp Phú Chân, Xã Tam Phú, Huyện Thủ Đức, là trung tâm tổ chức các cuộc tĩnh tâm định kỳ cho các nhóm Gia Đình Đồng Công thường được gọi là các nhóm Gia Đình Nazareth. Công an thường xuyên theo dõi những diễn biến trong các kỳ tĩnh tâm này và kỳ nào cũng có cài người vào để dò thám nhưng không bắt được sự sơ hở nào, vì các buổi tĩnh tâm không bao giờ đề cập đến vấn đề chính trị.
Năm 1987, nhân nhận được một số xe Honda của chi nhánh Dòng ở Missouri gởi về, Linh mục Trần Đình Thủ, Bề Trên Tổng Quyền của Dòng, đã đem số xe này đổi cho Ty Lương Thực Sông Bé được 21 tấn gạo (báo Công An nói đến 74 tấn). Khi chở gạo về xong thì công an đến hỏi nhà Dòng giữ gạo nhiều để làm gì. Linh mục Trần Đình Thủ trả lời rằng nhà Dòng sẽ dùng số gạo đó để nuôi những người trong Dòng và lo ăn cho những người đến tĩnh tâm, số còn dư sẽ giúp đồng bào nghèo ở chung quanh. Công an nói rằng muốn giúp đồng bào nghèo phải đưa số gạo đó cho Mặt Trận Tổ Quốc, nhà Dòng không được làm việc này. Sau nhiều lần bị công an thúc giục phải giao gạo cho Mặt Trận Tổ Quốc, Linh mục Trần Đình Thủ trả lời thẳng rằng gạo là tài sản của Dòng, công an muốn lấy cứ đến lấy, còn ông không có quyền giao.
Ngày 15.5.1987, có khoảng 40 công an Thủ Đức đến kiểm soát cơ sở của Dòng Đồng Công, lúc đó có 62 người đang tĩnh tâm. Công an lập biên bản và yêu cầu giải tán. Ngày 1 6.5.1987, công an mời Linh mục Trần Đình Thủ đến làm việc ở Công An Huyện Thủ Đức. Tại đây, công an bắt Linh mục Thủ phải làm tờ tự kiểm về các tổ chức và sinh hoạt trong Dòng mà họ cho là bất hợp pháp. Sau đó, công an chở Linh mục Thủ trở lại Dòng với 40 công an đi theo. Các công an phong tỏa xung quanh Dòng và kiểm tra hành chánh. Đến 3 giờ chiều, họ qua kiểm tra Khu Kitô Vương cách đó 400 thước, là nơi canh tác của Dòng. Họ bắt giữ 5 thầy, tịch thu hết đồ đạc rồi lấy xe chở gạo đi. Dân chúng hay tin công an bắt các cha, các thầy và chở tài sản của Dòng đi liền xông tới ngăn chận lại. Một cuộc ẩu đả xẩy ra, có đổ máu. Công an bỏ chạy. Hôm sau dân chúng tập trung càng đông hơn. Công an được tăng cường thêm, đã mở cuộc tấn công trở lại, nhưng giáo dân đông và liều mạng hơn nên họ lại rút lui. Công an nhờ Linh mục chính xứ Châu Bình đến can thiệp, dân chúng vẫn không nghe. Số người tập trung tại Dòng ngày càng đông. Nhờ sự tiếp ứng của bộ đội, ngày 20.5.1987 công an mới làm chủ được tình hình và bắt đi khoảng 40 người. Toàn bộ cơ sở và tài sản của Dòng bị tịch thu.
Linh mục Trần Đình Thủ không có mặt khi các cuộc giao tranh xẩy ra. Ông đến ẩn náu tại một gia đình giáo dân là bà Nguyễn Thị Liễu ở đường Cách Mạng Tháng 8 nối dài (Phạm Hồng Thái cũ) cách Ngã Tư Bảy Hiền khoảng 300 thước, đối diện với khu Đắc Lộ, và bị bắt tại đây ngày 2.7.1987.
Những người liên hệ trong vụ này bị truy tố về các tội chứa các tài liệu phản động, phá hoại an ninh quốc gia và đầu cơ tích trữ.
Trong phiên tòa ngày 5.11.1987, Linh mục Trần Đình Thủ bị kết án chung thân khổ sai, còn 22 bị cáo khác gồm linh mục, tu sĩ và giáo dân đều bị phạt từ 2 năm tù giam đến khổ sai chung thân. Người cho Linh mục Trần Đình Thủ ẩn náu là bà Nguyễn Thị Liễu cũng bị phạt tù. Linh mục Vũ Long Toàn đã chết trong tù ngày 23.6.1991. Linh mục Trần Đình Thủ đã 87 tuổi, quá già yếu và được các cơ quan nhân quyền quốc tế can thiệp mạnh mẽ nên đã được thả ra ngày 18.5.1993, nhưng bị đặt trong tình trạng quản chế.
Linh mục Trần Đình Thủ Năm 1967, Việt Cộng đã đến cơ sở của Dòng Đồng Công ở Tân Thành, Phú Mỹ, Bình Định, bắt đi 15 tu sĩ. Cho đến nay, chưa ai biết rõ số phận của 15 tu sĩ này, có lẽ tất cả đã bị giết. Sau 30.4.1975 đến ngày xẩy ra vụ này, nhà cầm quyền đã tịch thu tất cả các cơ sở khác của Dòng Đồng Công ở Bình Định, Lâm Đồng và Phước Long. Sau biến cố 25.5.1967 nói trên, hàng chục tu sĩ của Dòng đã bị đưa đi học tập cải tạo. Tu sĩ Đinh Khiêm Tố bị tra tấn dã man và đã chết trong ngục. Linh mục Nguyễn Hiến Tân bị đi cải tạo 12 năm mới được cho về. Linh mục Trần Đình Thủ cũng đã bị giam giữ 2 năm trước đó. Sau vụ nói trên, Dòng Đồng Công không còn cơ sở nào ở Việt Nam.
4.- Sửa đổi và xiết chặt quy chế tôn giáo
Sau khi chiếm được miền Bắc, ngày 14.6.1955 Hồ Chí Minh đã cho ban hành Sắc Lệnh số 234/SL về Tôn Giáo. Tuy gọi là Sắc Lệnh về Tôn Giáo nhưng nội dung Sắc Lệnh nhắm vào Công Giáo, vì lúc đó Phật Giáo chưa có Giáo Hội. Các tăng sĩ Phật Giáo đã được tập trung vào Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do Hòa Thượng Thích Trí Độ làm Hội Trưởng và đặt dưới quyền chỉ đạo của Mặt Trận Tổ Quốc, nên không cần quy chế nào khác. Giáo Hội Công Giáo Việt Nam không nằm trong hệ thống chỉ đạo của Mặt Trận Tổ Quốc nên bị chi phối bởi Sắc Lệnh về Tôn Giáo. Khi chưa quen với chế độ cộng sản, các linh mục Công Giáo nhận thấy rằng Sắc Lệnh này tước đoạt mất quyền tự do hành đạo và truyền đạo nên đã công khai chống đối.
Điều 3 của Sắc Lệnh dự liệu :
"
Các nhà truyền giáo ngoại quốc được sự chấp thuận của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa có thể dạy tôn giáo mình như những người truyền giáo Việt Nam và phải tôn trọng luật pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa như những người ngoại quốc khác."
Điều 6 cho phép các tôn giáo mở các trường huấn luyện để đào tạo những người đảm nhiệm các giáo vụ. Điều 9 cho phép tôn giáo mở các trường tư thục và việc giảng huấn nhưng phải theo chương trình nhà nước đưa ra. Các trường tư thục Công giáo có thể dạy thêm giáo lý cho những học sinh nào muốn. Điều 13 quy định rất hấp dẫn :
"
Chính quyền dân sự không can thiệp vào nội bộ tôn giáo. Những liên hệ giữa Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với Tòa thánh La Mã là vấn đề nội bộ."
Đây chỉ là cái bánh vẽ đưa ra để lừa dối tín đồ của các tôn giáo. Mặc dầu luật quy định như vậy, trong thực tế nhà cầm quyền Hà Nội đã dần dần khống chế Giáo Hội Công Giáo miền Bắc về mọi phương diện. Đến năm 1957, Hồ Chí Minh ban hành Sắc Lệnh số L02/SL ngày 20.5.1957 về việc lập hội và bắt các đoàn thể tôn giáo muốn hoạt động phải theo quy chế hiệp hội này.
Năm 1975, khi mới chiếm được miền Nam, Hà Nội cũng đã đem Sắc Lệnh ngày 14.6.1955 vào rêu rao ở miền Nam để chứng minh cho tín đồ các tôn giáo thấy rằng dưới chế độ cộng sản cũng có tự do tôn giáo. Nhưng sự rêu rao nầy đã gây những hậu quả tai hại. Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đã viện dẫn Sắc Lệnh nói trên để chống lại việc nhà cầm quyền phát động chiến dịch yêu cầu hủy bỏ quyết định bổ nhiệm Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận làm Phó Tổng Giám Mục Saigon. Vì thế, chỉ một thời gian ngắn sau, nhà cầm quyền đã xiết chặt các sinh hoạt tôn giáo lại bằng Nghị Quyết số 297 ngày 11.11.1977. Bằng một quyết định hành chánh đơn giản, nhà cầm quyền đã thay đổi cả một văn kiện pháp quy là Sắc Lệnh ngày 14.6.1955. Nội dung Nghị Quyết số 297 gồm những điểm chính sau đây :
- Những hoạt động tôn giáo ngoài các cuộc hành lễ thông thường đều phải xin phép. Muốn tổ chức các lớp giáo lý, các cuộc hành lễ đông người từ nhiều nơi đến tham dự, các cuộc hội họp về tôn giáo chung cho nhiều nơi ... phải có giấy phép" của chính quyền.
- Chỉ được giảng đạo trong phạm vi cơ quan của tôn giáo và khi giảng đạo phải động viên tín đồ làm nhiệm vụ công dân chấp hành chính sách và luật pháp của Nhà Nước. Không được tuyên truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa, gây chia rẽ và tuyên truyền mê tín dị đoan. Được quyền mở trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo, nhưng những người được tuyển chọn đi đào tạo phải có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Trước khi mở trường phải xin giấy phép. Người giảng đạo phải được chính quyền chấp nhận.
- Việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển những người chuyên hoạt động tôn giáo phải có sự đồng ý của chính quyền
- Giáo Hội Thiên Chúa Giáo được phép quan hệ với Vatican về mặt tôn giáo, nhưng phải tôn trọng chủ quyền và luật pháp quốc gia.
- Ruộng đất của các tôn giáo được để lại sau khi cải tạo có thể giao cho hợp tác xã quản lý và hưởng mức lời từ 25% - 30% tổng số thu hoạch.
Đến năm 1991. nhà cầm quyền lại ban hành Nghị Định số 69-ĐBT ngày 21.3.1991 điều chỉnh lại quy chế tôn giáo. Nội dung của Nghị Định này không khác Nghị Quyết số 297 bao nhiêu, nhưng quy định tổng quát hơn nên phạm vi áp dụng rộng rãi hơn, nhiều chi tiết áp dụng được quy định tỉ mỉ hơn. Đại lược nội dung Nghị Định gồm các điểm chính sau đây :
- Chỉ được phép sinh hoạt tôn giáo tại các nơi thờ tự được công nhận và chương trình sinh hoạt phải đăng ký trước hàng năm.
- Việc đào tạo các nhà tu hành phải được nhà nước cho phép xem xét về nhân sự, kiểm tra việc dạy và việc học.
- Việc phong chức cho các giáo sĩ phải được sự chấp thuận của Hội Đồng Bộ Trưởng.
- Việc bổ nhiệm và thuyên chuyển các nhà tu hành phải được sự chấp thuận của cấp chính quyền liên hệ. Các dòng tu hay các hình thức tu tập thể chỉ có thể hoạt động sau khi có giấy phép của Hội Đồng Bộ Trưởng.
- Các cá nhân hoặc các tổ chức tôn giáo muốn nhận viện trợ thuần túy tôn giáo phải xin phép Hội Đồng Bộ Trưởng.
Nhà cầm quyền Hà Nội đã hành động bất chấp hệ cấp pháp lý : Dùng Nghị Quyết là một quyết định hành chánh để sửa đổi một văn kiện pháp quy là một Sắc Lệnh, rồi sau đó dùng một văn kiện lập quy ở cấp thấp là một Nghị Định để thay thế một văn kiện cấp cao là một Sắc Lệnh. Điều này cho thấy khả năng về pháp lý của nhân viên nhà nước rất thấp và nhà cầm quyền nghĩ rằng họ có thể làm bất cứ cái gì mà họ thấy cần, nên bất chấp cả yếu tố pháp lý. Sau khi Nghị Định nói trên được ban hành, các tôn giáo bị khống chế hoàn toàn.
5.- Thành lập cơ cấu Công Giáo quốc doanh để lũng đoạn Giáo Hội Công Giáo
Trong "
Đơn Xin cứu xét nhiều việc", Hòa Thượng Huyền Quang có phân bì : "
Đây, nếu là chính sách cải tạo của 1 nước thì tại sao Nhà nước không dựng lên một Giáo Hội thứ 2 cho Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam và các tôn giáo khác. Ngược lại, nhà nước đã không làm việc cải tạo đó với Thiên Chúa Giáo, mà còn lập lại ngoại giao với Thiên Chúa Giáo sau gần 50 năm gián đoạn, cô lập? Theo chúng tôi được biết, ngày nay mọi khó khăn giữa Thiên Chúa Giáo La Mã và nước Việt Nam đã tháo gỡ gần hết, các sinh hoạt của Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam gần như bình thường, sau khi phái đoàn Giáo Phẩm cao cấp của Vatican đến thăm Việt Nam cách đây 2 năm." Rõ ràng Hòa Thượng Thích Huyền Quang không biết nhiều về các nỗ lực khống chế Giáo Hội Công Giáo của nhà cầm quyền Hà Nội. Sự phát biểu của ông thiếu dè dặt cần thiết của một nhà lãnh đạo tôn giáo.
* Lập đội ngũ giáo sĩ và giáo dân quốc doanh Nhận thấy tổ chức Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo Yêu Tổ Quốc và Hòa Bình không gây được ảnh hưởng gì đối với Giáo Hội Công Giáo miền Bắc trong suốt 20 năm, nhà cầm quyền Hà Nội muốn có một cơ cấu mạnh mẽ hơn. Công việc đầu tiên của nhà cầm quyền Hà Nội là củng cố một đội ngũ giáo sĩ và giáo dân quốc doanh mạnh. Nhận thấy một số đông linh mục và giáo dân "cấp tiến" đứng ra đòi trục xuất Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre, nhà cầm quyền rất phấn khởi. Tại mỗi tỉnh, nhà cầm quyền kêu gọi thành lập một Ban Liên Lạc Công Giáo để giải quyết những vấn đề giữa Công Giáo và chính quyền và đưa một số giáo sĩ có uy tín vào, với mục đích về sau biến các tổ chức này thành một giáo hội tự trị. Nhà cầm quyền không cần biết đến Hội Đồng Giám Mục và các Giám Mục Giáo Phận. Một số các giáo sĩ được mời lầm tưởng họ chỉ đóng vai trò liên lạc giữa chính quyền và Công Giáo nên tham gia. Về sau, đa số các giáo sĩ nhận ra âm mưu thành lập một Giáo Hội tự trị nên rút lui. Một số khác, sau một thời gian hợp tác, đã nhận ra bộ mặt thực của chế độ cộng sản nên quay lại chống đối chế độ.
Tại miền Bắc, chúng ta thấy có các linh mục sau đây đã tham gia Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo Yêu Tổ Quốc và Hòa bình: Vũ Xuân Kỷ (đã qua đời), Nguyễn Thế Vịnh (đã qua đời), Hồ Thành Biên, Phạm Quang Phước và Võ Thành Trinh. Tại miền Nam, số linh mục tham gia Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước lúc đầu khá đông :
Huỳnh Công Minh,
Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ, Trần Thiện Cẩm, Vương Đình Bích, Nguyễn Văn Châu, Nguyễn Văn Bá, Nguyễn Bảo Tụng, Nguyễn Thiện Ý, Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Viết Nam và Mai Hùng. Trong thời gian tranh đấu đòi trục xuất Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre và bãi chức Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, các linh mục sau đây cũng đã tham gia: Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Thanh Lãng, Nguyễn Viết Thọ, Nguyễn Văn Trình, Hoàng Kim, Đinh Bình Định, Nguyễn Quang Lãm, Nguyễn Nghị và Nguyễn Thiện Toàn. Các linh mục này về sau không tham gia nhóm linh mục quốc doanh. Hai linh mục Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan còn quay lại chống chính quyền nên bị quản chế một thời gian khá dài. Linh mục Đinh Bình Định bị đi cải tạo 10 năm, còn Linh mục Nguyễn Quang Lãm bị công an bám sát cho đến khi qua đời vào năm 1993. Hai linh mục Nguyễn Viết Thọ và Nguyễn Ngọc Lan đã xin từ bỏ chức linh mục và trở về lập gia đình.
Về phía giáo dân, những thành phần sau đây đã tham gia tích cực các tổ chức Công Giáo quốc doanh:
Lý Chánh Trung, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Đông Ngân, Đỗ Văn (tức Đỗ Hữu Nghiêm),
Nguyễn Đình Đầu, Vũ Duy Giang, Phạm Ngọc, Trần Huỳnh và Nguyễn Thành Cung. Trong số này có hai thành phần hoạt động tích cực hơn cả là Nguyễn Đình Đầu và Lý Chánh Trung.
Nguyễn Đình Đầu : Sinh năm 1920 tại Hà Nội, con một nhân viên lao công quét trường. Nguyễn Đình Đầu có hai người em là Nguyễn Đình Rễ và Nguyễn Thị Hồng. Lúc nhỏ, Nguyễn Đình Đầu được học Tiểu Chủng Viện Hoàn Nguyên, Kẻ Sở, Hà Nam, thuộc Giáo Phận Hà Hội. Nguyễn Đình Đầu mới học tới Đệ Lục (Cinquième) thì xuất, rồi sau đó vào học trường Bách Nghệ Hà Nội, chưa có Tú Tài. Thời đó, Phong Trào Thanh Niên Lao Động Công Giáo (JOC) đang phát triển mạnh ở Việt Nam, Nguyễn Mạnh Hà làm Trưởng Phong Trào toàn quốc, còn Nguyễn Đình Đầu làm Hội Trưởng Phong Trào ở Hà Nội.
Ngày 22.8.1945, Việt Minh cướp chính quyền. Ngày 23.8.1945 Hồ Chí Minh công bố ngay thành phần chính phủ lâm thời tại Hà Nội. Trong chính phủ này, người ta thấy Nguyễn Mạnh Hà giữ chức Bộ Trưởng Kinh Tế. Nguyễn Đình Đầu được Nguyễn Mạnh Hà giới thiệu làm Tổng Giám Đốc Tổng Nha Lao Động toàn quốc, dưới quyền của Bộ Trưởng Lao Động Lê Văn Hiến.
Ngày 2.3.1946 Hồ Chí Minh lập chính phủ liên hiệp với các đảng phái quốc gia, Nguyễn Mạnh Hà không có tên trong thành phần chính phủ nữa. Lê Văn Hiến qua làm Bộ Trưởng Tài Chánh, Nguyễn Văn Tạo, một đảng viên cao cấp khác, giữ chức Bộ Trưởng Lao Động. Nguyễn Đình Đầu tiếp tục làm Tổng Giám Đốc Tổng Nha Lao Động. Bị loại ra khỏi thành phần chính phủ, Nguyễn Mạnh Hà bỏ qua Pháp. Khi Pháp chiếm Bắc Việt, Việt Minh rút vào chiến khu, Nguyễn Đình Đầu ở lại Hà Nội. Năm 1951, nhân một chuyến đi tham quan ở Pháp, Nguyễn Đình Đầu được Nguyễn Mạnh Hà bảo trợ cho ở lại Pháp học xã hội học ở một trường tư, không cần bằng Tú Tài. Nguyễn Đình Đầu không đậu bằng cấp gì.
Lúc ở Pháp, Nguyễn Đình Đầu ở một căn phòng trên lầu 5 của một ngôi nhà ở số 32 rue de Richelieu, Paris 1er. Nơi đây là chỗ hội họp của những người lưu vong muốn dành độc lập cho quê hương. Những thành phần đến họp gồm cả những người theo Cộng Sản hay không theo Cộng Sản như Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Quốc Định, Trương Công Cừu, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Ngọc Bích (Thạc Sĩ Y Khoa), Nguyễn Đắc Khê, Nguyễn Thoại, Trần Hữu Phương, Trần Thông, Bửu Lộc v.v. Nhóm học Đại Học Luovaine ở Thụy Sĩ như Linh mục Nguyễn Quang Lãm, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung ... cũng đến họp ở đây. Các nhóm trên hoạt động riêng rẽ nhưng có cho xuất bản tờ tạp chí Thống Nhất để nói lên quan điểm chính trị của nhóm, nên được gọi là
Nhóm Thống Nhất. Riêng Đảng Cộng Sản Đông Dương có kết nạp đảng viên, tổ chức chặt chẽ và sinh hoạt thường xuyên.
Ngày 25.6.1954, do sự vận động của ông Ngô Đình Luyện và nhóm Nguyễn Mạnh Hà, Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn đã thuyết phục được Quốc Trưởng Bảo Đại ký Sắc Lệnh số 38/QT ngày 25.6.1954, ủy quyền cho ông Ngô Đình Diệm lập chính phủ với toàn quyền về dân sự và quân sự. Nhóm Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Đình Đầu, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Linh mục Nguyễn Quang Lãm ... định về tham gia chính phủ nhưng bị Ngô Đình Nhu gạt ra vì nghi nhóm này thân Pháp. Nguyễn Mạnh Hà quay trở lại Pháp, nhưng Nguyễn Đình Đầu, vốn không lấy được bằng cấp gì, đã thúc giục Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung và Linh mục Nguyễn Quang Lãm phải trở về và chờ cơ hội. Những người này đã trở về Việt Nam năm 1956, cho xuất bản tờ tuần báo Sống Đạo nên thường được gọi là nhóm
Sống Đạo hay nhóm Cấp Tiến. Tờ Sống Đạo có khuynh hướng chống chính phủ và thiên về đường lối xã hội chủ nghĩa. Hai linh mục Nguyễn Ngọc Lan và Trương Bá Cần từ Pháp về cũng gia nhập nhóm Sống Đạo. Lý Chánh Trung phụ trách biên tập, nhưng Nguyễn Đình Đầu nắm hầu bao và quyết định đường lối của tờ báo.
Nguyễn Đình Đầu về nước được một thời gian thì ông Đào Văn Tập qua đời. Nguyễn Đình Đầu cặp bồ với bà Đào Văn Tập để chiếm dụng nhà in của bà này và sống bằng nghề ấn loát và xuất bản. Về sau Nguyễn Đình Đầu cưới em của của Thủ Tướng Bửu Lộc, một người giàu có, và về ở nhà vợ, góc đường Nguyễn Du và Nguyễn Trung Trực.
Nguyễn Đình Đầu vẫn thường xuyên liên lạc với nhóm cán bộ trí vận của Việt Cộng đang hoạt động ở Pháp hay đã nằm vùng tại miền Nam và nấp sau tờ tuần báo Sống Đạo hoạt động. Tờ Sống Đạo cũng như tờ Công Giáo và Dân Tộc sau này, đã cố gắng dùng Thánh Kinh để bênh vực cho chủ nghĩa cộng sản.
Nguyễn Đình Đầu là một tên chuyên đâm bị thóc thọc gạo để gây mâu thuẫn trong hàng ngũ Công Giáo và tuyên truyền ngụy hòa. Khi Công Giáo biểu tình lên án những bạo loạn tại miền Trung do Cộng Sản giựt dây, Nguyễn Đình Đầu soạn sẵn một văn thư chống lại Khối Công Giáo và chạy đi thuyết phục một số linh mục và giáo dân ký tên vào. Trong cuốn 30 tháng 4 do nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh phát hành năm 1985, ký giả Võ Trần Nhã của Việt Cộng cho biết Nguyễn Đình Đầu là người yểm trợ đắc lực cho việc đưa miền Nam vào tay Cộng Sản. Nguyễn Đình Đầu có chân trong nhóm
Trí Việt, gồm một số đặc công Cộng Sản nằm vùng hoạt động dưới danh nghĩa "đòi thi hành hiệp định Paris”. Ngày 29.4.1975, Nguyễn Đình Đầu đi với Nguyễn Văn Diệp (cựu Bộ Trưởng Kinh Tế) và Hà Bá Cang (còn có tên là Đinh Bá Thi và Hoàng Quốc Việt) vào trại Davit ở trong phi trường Tân Sơn Nhứt gặp phái đoàn Việt Cộng cư ngụ ở để báo cáo tình hình và nhận chỉ thị về việc vận động Dương Văn Minh đầu hàng. Hà Bá Cang dùng mật hiệu để được phái đoàn Việt Cộng trong Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn bên mở cửa cho vào. Sau này, Hà Bá Cang, tức Đinh Bá Thi, được Việt Cộng cử làm Đại Sứ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc đầu tiên, nhưng một thời gian sau đã bị thanh toán bằng một tai nạn xe cộ trong một chuyến về thăm Việt Nam.
Sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam, bên ngoài Nguyễn Đình Đầu không giữ chức vụ gì quan trọng, nhưng bên trong Nguyễn Đình Đầu đã đứng ra tổ chức và giựt giây các chiến dịch chống phá Giáo Hội Công Giáo. Từ vụ hô hào trục xuất Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre, đòi bãi chức Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, đến việc lên án các vụ Vinh Sơn, Đắc Lộ, Dòng Đồng Công... đều có bàn tay thúc đẩy của Nguyễn Đình Đầu. Chính Nguyễn Đình Đầu đã soạn thông cáo của Tòa Tổng Giám Mục Saigon lên án vụ Dòng Đồng Công rồi cầm lên yêu cầu Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình ký tên vào, nhưng Đức Tổng Giám Mục không chịu ký tên, Nguyễn Đình Đầu đã lấy con dấu của Tòa Tổng Giám Mục đóng vào rồi gởi cho các báo Việt Cộng yêu cầu công bố.
Lý Chánh Trung : Sinh năm 1929 ở Trà Vinh, theo đạo Công Giáo vào khoảng năm 1949 và năm 1950 được cho qua Bỉ học Đại Học Louvain, một đại học Công Giáo, ở cách xa thủ đô Bruxells khoảng 30 cây số. Lý Chánh Trung học rất thông minh, nhưng khi mới lấy xong Cử Nhân Tâm Lý Học và Cử Nhân Chính Trị Học, chưa đậu Tiến Sĩ, đã vội theo Nguyễn Đình Đầu về nước năm 1956 với ý định tham chánh, nhưng không được Ngô Đình Nhu dùng nên rất bất mãn với chế độ Ngô Đình Diệm và quay lại tán dương đường lối của Cộng Sản. Khi ở Bỉ và Pháp, Lý Chính Trung cũng nằm trong nhóm Thống Nhất của Nguyễn Mạnh Hà và bị chi phối bởi Nguyễn Đình Đầu.
Lý Chánh Trung tuy chưa có bằng Tiến Sĩ nhưng rất thông minh, vượt hẳn Nguyễn Văn Trung và các bạn đồng khóa thời đó, nên được coi là lý thuyết gia của nhóm và là linh hồn của tờ tuần báo Sống Đạo. Lý Chánh Trung có tài viết lách rất điêu luyện, có thể bẻ ngòi bút đi theo hướng nào cũng được. Đọc những bài Lý Chánh Trung ca tụng Hồ Chí Minh ngày 30.4.1975, nhiều người phải sửng sốt về tài phất cờ theo chiều gió của người viết. Khó tìm được tại miền Nam một người viết "bài ca con cá" điêu luyện như vậy.
Lý Chánh Trung có người em là Lý Chánh Đức, làm Giám Đốc Nha Học Liệu tại Bộ Quốc Gia Giáo Dục, đã xin cho Lý Chánh Trung làm Công Cán Ủy Viên của Bộ này. Về sau, Lý Chánh Trung được bổ làm Giám Đốc Nha Trung Học Công Lập. Ngoài ra, Lý Chánh Trung cũng được mời dạy triết học tại các Viện Đại Học Huế và Đà Lạt.
Tuy có trình độ kiến thức cao và vững vàng, tính tình hòa nhã, nhưng bước đường sự nghiệp của Lý Chánh Trung rất lận đận, có khi không lo nổi miếng ăn. Nhiều người cho rằng nếu Lý Chánh Trung đừng nghe Nguyễn Đình Đầu, lấy xong bằng Tiến Sĩ rồi trở về, có lẽ sẽ gặp được nhiều thuận lợi hơn. Linh mục Cao Văn Luận là người đã nâng đỡ Lý Chánh Trung rất nhiều, nhưng dưới hai chế độ Cộng Hòa Miền Nam, Lý Chánh Trung chưa tìm được chỗ đứng thoải mái, luôn phải bận tâm đến sinh kế nên thường tỏ ra hận đời. Sự bất mãn của Lý Chánh Trung xuất hiện rất rõ trong cái lối viết lúc nào cũng có tính cách châm chọc và cay chua của ông. Vốn là một giáo sư triết, tôn thờ Mounier và Karl Jasper, Lý Chánh Trung đã nhìn vấn đề chính trị Việt Nam dưới lăng kính của một triết gia. Trong bài "
Trên đường cùng đi" đăng trên báo Đại Dân Tộc số 17 ngày 4.6.1972, ông có viết :
"
Đối với tôi vấn đề rất giản dị : dầu cho cuộc chiến hôm nay được giải thích cách nào, thực tế vẫn là có hai phe cùng người Việt đang chém giết nhau, mỗi phe được một hoặc hai siêu cường yểm trợ tận tình về mọi mặt. "
"
Tôi là người đứng "bên này" và từ lâu tôi đã nghĩ rằng lối thoát duy nhất cho cuộc chiến hiện nay là phải tạo dựng cho "bên này" một chính quyền tốt, độc lập với ngoại bang, có đủ nội lực và tự tín đê gặp gỡ và làm hòa thật sự với bên kia."
Nghĩ sao làm vậy. Việt Cộng chiếm được Saigon là ông đi theo Việt Cộng, viết bài tán dương Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản. Ông được chọn làm đại biểu Quốc Hội khóa VI năm 1976 và các khóa tiếp theo. Khi vụ Vinh Sơn xẩy ra, ông có viết một bài phê bình đăng trên báo Công Giáo và Dân Tộc Số 55 ngày 18.7.1976, lên án những người tham gia như sau :
"
Hạng người như thế xin đừng gọi là người mà tội cho con ngưới, xin đừng gọi là người Việt Nam mà tội cho dân tộc Việt Nam. Cũng xin đừng gọi là Công Giáo mà tội cho Giáo Hội Công Giáo.”
Gặp lại Lý Chánh Trung vào cuối thập niên 80, người ta có thể thấy nơi ông hình ảnh của một người đã thấm đòn và chán nản. Hai vợ chồng ông làm lụng vất vả vẫn không đủ ăn, mặc dầu trên trên ngực có gắn cái nhãn hiệu "đại biểu Quốc Hội"! Có lẽ trong hoàn cảnh đó ông mới nhận ra rằng những người không đáng là người, không đáng là người Việt Nam ... chính là các nhà lãnh đạo Cộng Sản và những người đi theo họ chứ không phải những người đã tham gia vào vụ Vinh Sơn. Những con người mà ông mơ ước "làm hòa" đó đã cùng ông biến Việt Nam thành một nước nghèo nhất thế giới, không dân chủ và nhân quyền, và đã vùi lấp quãng đời còn lại của ông.
Về phía giáo sĩ, chỉ có hai linh mục miền Nam được nhà cầm quyền tín nhiệm, đó là Linh mục
Huỳnh Công Minh và linh mục
Trương Bá Cần. Hai linh mục này đã được Linh mục Nguyễn Đình Thi, một cán bộ Việt Cộng nằm vùng ở Pháp, móc nối khi còn học ở Pháp.
Linh mục Huỳnh Công Minh là một đảng viên nòng cốt của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong công tác Công Giáo vận. Trong kỳ bầu cử Quốc Hội khóa VI năm ] 976, ông được chọn làm đại biểu. Trong phiên họp ngày 7.7.1977, sau khi Lê Duẫn đọc Báo Cáo Chính Trị. ông đã lên đọc một bài tham luận rất đúng sách vở của Đảng :
"
Báo cáo chính trị làm cho tôi thêm xác tín rằng mẫu con người mới, mẫu xã hội mới mà Quốc Hội sẽ đề ra để toàn dân ra sức thực hiện trong giai đoạn lịch sử này chẳng những không có gì mâu thuẫn với tôn giáo, với tín ngưỡng chân chính, lại còn rất phù hợp với Tin Mừng của Chúa Kitô Giêsu. "Báo cáo chinh trị làm cho tôi càng xác tín thêm nữa rằng con người mới, xã hội mới mà mọi ngưới đều mơ uớc, mà người tin vào Chúa Kitô Giêsu mãi mơ ước, con người mới, xã hội mới đó không thể có được, không bao giờ có được nếu không có Đảng Lao Động việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân, lãnh đạo và tổ chức.
"Phần tôi, tôi nguyện suốt đời phục vụ cho sự nghiệp đoàn kết dân tộc trên cơ sở yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, suốt đời làm nhịp cầu nối kết quần chúng Công Giáo, mà đại bộ phận là nhân dân lao động, với đại gia đình Việt Nam, kiên quyết đập tan mọi âm mưu chia rẽ, đội lốt tôn giáo, lợi dụng tín ngưỡng của đế quốc và tay sai."(7)
Cũng như Thượng Tọa Thích Minh Châu, Linh mục Huỳnh Công Minh là một người có được huấn luyện nghiệp vụ đàng hoàng, lúc nào ông cũng tỏ ra hòa nhã, khiêm tốn, không bao giờ ông bênh vực công khai chế cộng sản khi thuyết giảng hay khi nói chuyện với các giáo sĩ và giáo dân. Ông chỉ kêu gọi phải hợp tác với phường khóm. Ông không giữ chức vụ gì quan trọng trong tổ chức Công Giáo quốc doanh, nhưng trong thực tế ông nắm hết mọi quyền hành trong tổ chức này. Mọi việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển các giáo sĩ và các hoạt động của Giáo Hôi Công Giáo đều được chuyển cho ông cứu xét và đề nghị, nhà cầm quyền mới châp thuận. Ông luôn thi hành đúng mọi chỉ thị của đảng.
Linh mục
Trương Bá Cần, người Nghệ An, có Tiến Sĩ Sử Học tại Pháp, là lý thuyết gia của tổ chức Công Giáo quốc doanh. Ông điều hành tờ tuần báo
Công Giáo và Dân Tộc, dùng tờ báo này để bênh vực xã hội chủ nghĩa và vận động người Công Giáo thi hành các chính sách của Đảng và Nhà nước. Trên báo
Công Giáo và Dân Tộc Xuân 1982, ông viết : "
Từ lâu, trước ngày giải phóng, tôi xác tín không có con đường thứ ba giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Do đó, chấp nhận chủ nghĩa xã hội, đương nhiên tôi chấp nhận sự hợp tác với những người Cộng Sản.
"Ngoài ra, kinh nghiệm trong 5 năm qua ngày càng thuyết phục tôi rằng sự lựa chọn chủ nghĩa xã hội là tốt nhất. Riêng tôi, hàng ngày tôi sống sự hợp tác giữa những người Cộng Sản và người Công Giáo. Tôi xác tín rằng chúng tôi có thể cùng nhau làm việc. Nhưng hợp tác có nghĩa gì? Đối với tôi, điều kiện tuyệt đối là có sự kính trọng nhau. Không chỉ là sự dung thứ cho người khác tồn tại. Nhưng tôi lập lại: sự kính trọng, mà người ta chỉ kính trọng cái rnà người ta thừa nhận là có giá trị. Mà tôi thấy rằng những người Cộng Sản kính trọng chúng tôi. Về phía chúng tôi, chúng tôi đâ học được rất nhiều. Chúng tôi đã học biết những giá trị thật của chủ nghĩa xã hội. Đó là một lý tưởng cụ thể, phục vụ người khác."
Năm 1989, sau khi đi cải tạo về, tôi có ghé thăm ông. Tôi chỉ hỏi thăm các công trình nghiên cứu về sử học của ông và cố tránh bàn đến lập trường chính trị, nhưng qua những lời lẽ của ông trong lúc nói chuyện, tôi thấy tư tưởng của ông đã có nhiều thay đổi. Không biết ông dè dặt đối với tôi vì tôi vốn là một "đối thủ" đã từng bút chiến với ông về chủ nghĩa xã hội trước 30.4.1975, hay ông đã có những thay đổi thật sự. Việt Cộng đang nhờ ông viết lại lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam để biện minh cho chế độ. Tôi biết nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam cũng đã yêu cầu Linh mục Phan Phát Huồn viết lại bộ Việt Nam Giáo Sử, nhưng khi Linh mục Phan Phát Huồn hỏi tại sao không nhờ Linh mục Trương Bá Cần thì họ trả lời: "
Linh mục viết người ta mới tin. Linh mục Trương Bá Cần viết, người ta không tin"!
Nhìn chung, ngoài hai Linh mục Huỳnh Công Minh và Trương Bá Cần ra, các linh mục quốc doanh khác không đóng vai trò gì quan trọng. Các linh mục Phan Khắc Từ, Thiện Cẩm, Vương Đình Bích ... chỉ là loại chạy cờ, có việc Nhà Nước cần thì sai làm.
Đa số các linh mục và trí thức Công Giáo có lập trường thiên tả như Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Thanh Lãng ...đều là những người tốt nghiệp về thần học và triết học ở Pháp hay Bỉ, nên thường nhìn các vấn đề chính trị và xã hội của đất nước dưới lăng kính của triết học. Họ dùng
Tâm và
Lý để phân tích và xác định con đường mà đất nước phải chọn. Họ không có thói quen quan sát các sự kiện đang diễn ra rồi dùng
Trì để phán đoán và chọn con đường thích hợp nhất. Mỗi khi thấy con đường họ tưởng là đúng đã có nhiều nguy hại trong thực tế, họ quay ngược trờ lại và tấn công thẳng vào con đường mà họ từng cổ võ. Bằng bài
Dấm chua mật đắng trong cuốn
Ba mươi năm xáo trộn, nhóm Sống Đạo đã khuyến cáo các tổ chức của người Công Giáo đứng lên chống lại sự lộng hành của Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc miền Trung do Cộng Sản giựt dây như sau : "...
những sự bất công của chúng ta đối với kẻ khác, nhất là đối với người khác đạo, những thái độ hẹp hòi, kiêu căng, những lời nói hằn học xấc xược chính là dấm chua mật đắng mà chúng ta đổ thêm vào miệng Chúa Cứu thế trên cây Thánh giá vậy". Họ còn viện cả lời Thánh Kinh : "
Ta bảo các con đừng chống lại những kẻ hà hiếp các con; trái lại, ai đánh các con trên má bên phải, hãy đưa luôn cho họ má bên kia", nhưng khi nhận ra được những tệ hại của chế độ cộng sản Việt Nam, họ không hề đưa thêm má bên kia cho Cộng Sản, mà trái lại, đã mạt sát Chế độ Cộng sản bằng những lời lẽ chua cay hơn những lời lẽ mà các anh em Công Giáo đã dùng để lên án bọn tay sai Cộng Sản trước đây. Sau đây là một mẩu chuyện ngắn giữa công an và Nguyễn Ngọc Lan. được Nguyễn Ngọc Lan ghi lại trong cuốn Nhật Ký 1990-99:
-
Ông có đi thăm linh mục Chân Tín không?
- Làm sao tôi đi được?
- Linh mục Chân Tín có khỏe không?
- Như ông biết qua báo chí đó : Duyên Hải bây giờ đang bị sốt rét như dịch. Người ta đang bảo là Nhà nước khéo chọn chỗ để đày linh mục Chân Tín đó.
- Linh mục Chân Tín năm nay bao nhiêu tuổi? -
71.
- Thôi, tôi gặp ông Lan chỉ có vậy.
Trước đây, hai linh mục Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan đã có lập trường khuynh tả hoàn toàn, nhưng sau khi sống với chế độ cộng sản một thời gian, họ nhận ra chủ nghĩa xã hội không tốt đẹp như họ tưởng, họ đã quay lại chống chế độ một cách mạnh mẽ. Với những thành phần này, không thể coi họ như thành phần quốc doanh, nhưng những nhận định sai lệch của họ về chính trị, xã hội và tôn giáo một đôi khi cũng rất tai hại. Họ đã tiếp tay cho một chế độ sai lầm có cơ hội tung hoành trên đất nước. Đi vào chính trị, triết gia luôn bị đánh bại một cách thê thảm. Thân phận của họ cũng giống như thân phận của một triết gia đi qua sông mà người Tây Phương thường đem ra để chế giễu:
Triết gia hỏi ông lái đò :
- Ông có biết làm toán không ?
- Tôi không biết.
- Thế là ông đã mất một phần tư cuộc đời rồi!
Một lúc sau, triết gia lại hỏi câu thứ hai:
- Ông có biết viết không ?
- Tôi không biết.
- Thế là ông mất nửa cuộc đời rồi.
Thuyền đến giữa sông triết gia hỏi câu thứ ba :
- Ông có biết đọc không?
- Tôi không biết.
- Thế là ông mất ba phần tư cuộc đời rồi!
Ông lái đò vừa dứt lời thì sóng to gió lớn nổi lên, ông quay lại hỏi triết gia :
- Ông có biết bơi không ?
- Tôi không biết.
Ông lái đò lắc đầu :
- Thế thì ông mất cả cuộc đời rồi!
Trong buổi nói chuyện trên đài phát thanh vào ngày 26.10. 1939, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã nói: "
Người cấp tiến là người hai chân đã được trồng chặt vào khoảng không".
Khi các triết gia nói trên nhận ra được sự thật thì đã muộn, phương cách để cứu vãn không tìm thấy dễ dàng trước mắt. Nhưng dầu sao, họ cũng còn có tự do để quyết định quay trờ lại. Những thành phần đã gia nhập Đảng Cộng Sản như các linh mục Nguyễn Đình Thi, Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh hay Hòa Thượng Thích Minh Châu không còn đường trở lại nữa : hoặc tiếp tục đi trong sai lầm hoặc chết. Kỷ luật Đảng không bao giờ dung tha những thành phần phản Đảng.
Mặt Trận Tổ Quốc luôn tìm cách đề cao vai trò của các linh mục quốc doanh, nhất là vai trò của Linh mục Huỳnh Công Minh. Mọi việc phong chức, bổ nhiệm và thuyên chuyển giáo sĩ cũng như các hình thức sinh hoạt tôn giáo đặc biệt đều phải có đề nghị của linh mục này mới được nhà cầm quyền chấp thuận. Hôm 10.7.1989, Đức Hồng Y R. Etchegaray ghé thăm thành phố Hồ Chí Minh. Báo Saigon Giải Phóng loan tin ông Nguyễn Vĩnh Nghiệp, Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phô đã tiếp Đức Hồng Y. Cùng tham dự cuộc tiếp tân này có "
Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình và Giám Mục Giáo phận Sàigòn Huỳnh Công Minh. " Bản tin trên đã làm mọi giới Công Giáo bất bình. Nhiều người đã gọi điện thoại phản đối báo Saigon Giải Phóng và yêu cầu Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đỉnh chính. Báo Saigon Giải Phóng ngày 13.7.1989 có đăng một cột nhỏ cải chính nói "
Linh Mục Huỳnh Công Minh là linh mục chánh sở nhà thờ chánh toà Sàigòn, chứ không phải Giám Mục giáo phận Sàigòn như đã loan tin." Qua bản tin cố ý đăng sai đó. mọi người đều thấy rõ ý định của nhà cầm quyền Hà Nội muốn đưa linh mục quốc doanh Huỳnh Công Minh lên làm Giám Mục Giáo Phận Saigon.
Tuy được sự hỗ trợ của Mặt Trận Tổ Quốc, các linh mục quốc doanh viết hay nói gì cũng không ai nghe. Đi đâu họ cũng bị giáo dân xa lánh. Linh mục quốc doanh còn lo sợ các biện pháp kỷ luật của Tòa Thánh Vatican. Năm 1992, trong văn thư số N.4708/92/RS ngày 20.5.1992 gởi cho Đức Giám Mục Nguyễn Minh Nhật, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Đức Hồng Y Ouốc Vụ Khanh Angelo Sodano đã yêu cầu Hội Đồng Giám Mục Việt Nam lưu ý các giáo sĩ về "
Tuyên Ngôn của Bộ Giáo Sĩ về những hiệp hội và những phong trào mà giáo sĩ không được tham gia" công bố ngày 8.3.1982 với mục đích nhắc nhở các linh mục không được tham gia vào các tổ chức Công Giáo quốc doanh. Tuyên ngôn này nói rõ : "
Ai hành động trái với lệnh cấm hợp pháp của thẩm quyền Giáo Hội có thể bị phạt một cách chính đáng, kể cả phạt vạ, chiếu theo các điều phái tuân giữ theo luật ". Văn thư này đã được các Giám Mục Việt Nam thông báo cho các linh mục quốc doanh. Trong Đại Hội kỳ III của Ủy Ban đoàn kết Công Giáo Yêu Nước tổ chức tại Saigon ngày 11.1.1993, linh mục Huỳnh Công Minh đã trình trước đại hội như sau:
"
Nhưng có một điểm mà đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đã nhấn mạnh ngay từ đại hội lần thứ I và hôm nay ngài muốn đặc biệt nhắc lại cho chúng ta, đó là sự tham gia của giáo sĩ trong Ban Đoàn Kết Công Giáo. Đây là một trường hợp ngoại lệ, bởi lẽ theo giáo huấn của Giáo Hội, nhất là từ CôngĐồng Vatican II, việc tham gia tổ chức này cũng như các tổ chức chính trị xã hội khác là phạm vi trách nhiệm chính yếu của người giáo dân, chứ không phải của giáo sĩ. Nhưng vì hoàn cảnh xã hội thực tế của chúng ta chưa cho phép anh chị em giáo dân đảm đương công việc quan trọng này, nên Đức Tổng Giám Mục đã bằng lòng cho phép một số linh mục giáo phận tạm thời gánh vác thay cho giáo dân. Nay hoàn cảnh đã thay đổi, đất nước đang trong quá trình đổi mới toàn diện, tình hình kinh tế xã hội chính trị đã đi vào nề nếp ổn định bình thường. Nên Đức Tổng Giám mục rất mong muốn sinh hoạt của Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước cũng phải được bình thường hóa, tức anh chị em giáo dân phải sớm đảm đương công việc này, để các linh mục trở về với phạm vi công tác mà người giáo dân không thể làm thay, đó là thừa tác vụ linh mục, một công tác đang còn thiếu nhiều nhân sự".
Ở Hoa Kỳ, do sự xúi biểu của một số người, Linh mục Nguyễn Đức Việt Châu đã lợi dụng danh nghĩa Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ và Quỹ Yểm Trợ Giáo Hội Việt Nam, ký kết thỏa ước với một công ty phản gián Việt Cộng là công ty VINEXCO ở New York để tổ chức hành hương và kinh tài. Hành động này không những vi phạm Giáo Luật (điều 285 và 286) mà còn đi ngược lại đường lối chung của đa số cộng đồng người Việt và cộng đồng Công Giáo Việt Nam hải ngoại, nên đã bị lên án nặng nề. Linh mục Việt Châu đã phải hủy bỏ chương trình này.
Thật ra, tuy tham gia vào Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước, các linh mục quốc doanh chưa bao giờ dám khởi xướng thành lập một Giáo Hội Thiên Chúa Giáo tự trị. Đề nghị này, trong cả hai lần họp tại Hà Nội, đều do Ban Tôn Giáo và Mặt Trận Tổ Quốc đưa ra. Cựu linh mục Nguyễn Ngọc Lan cho biết, ngày 25.8.1989, nhân dịp Đức Hồng Y Etchegaray đến thăm Việt Nam, Linh mục quốc doanh Võ Thành Trinh có xin gặp Đức Hồng Y tại tòa Tổng Giám Mục Saigon và đọc một bài "diễn từ" nhằm biện hộ cho Ủy Ban Công Gáo Đoàn Kết. Cựu Linh mục Nguyễn Ngọc Lan thuật lại như sau: Lập luận lúng ta lúng túng, có khi lẩm cẩm đến như thành tự thú :
"
Có thể xảy ra nguy cơ "tự trị" theo kiểu Trung Quốc ở đây không? Thưa rằng không đâu. "Sự khác biệt cơ bản" về mặt hình thức cũng như mặt tinh thần
là "tại Trung Quốc rõ ràng có thứ Giáo Hội chính thức tách rời khỏi Roma, một hiệp hội tôn giáo chính trị có hàng chục ngàn hộ viên giáo dân, hàng trăm linh mục và hàng chục Giám Mục được phong chức bấtchấp cả Roma. Trái lại tại Việt Nam, trên toàn quốc, chỉ là một Ủy ban gồm mấy chục thành viên và "nước giếng đâu tác hại gì đến nước sông"!(8)
*Thành lập Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tự trị không được, quay lại thành lập Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước. Năm 1980, Hà Nội quyết định bước qua giai đoạn mới, được gọi là "
giai đoạn cách mạng dân chủ nhân dân". Trong giai đoạn này, nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam cho áp dụng các biện pháp để quốc hữu hóa tất cả tài sản của các tư bản lớn và địa chủ để đưa vào quốc doanh, ép buộc các tư bản hạng trung hợp tác kinh doanh với chính phủ. Đây là một hình thức mượn vốn và tay nghề của tư nhân để dựng các cơ sở kinh doanh và sản xuất, rồi đưa vào hợp tác hay biến thành công ty quốc doanh trong giai đoạn kế tiếp. Song song với các biện pháp kinh tế, nhà cầm quyền cũng thêm một bước thứ hai trong việc đưa tôn giáo vào quốc doanh. Chữ "
quốc doanh" được Hà Nội dịch ra tiếng Anh là "
state-run" tức do nhà nước điều hành. Dân chúng đã dùng chữ này để chỉ các tổ chức do chính phủ điều khiển.
Không như Hòa Thượng Thích Huyền Quang đã lầm tưởng, nhà cầm quyền Hà Nội đã muốn tiến tới "
quốc doanh hóa" Công Giáo trước cả Phật Giáo. Đầu năm 1980, Ban Tôn Giáo Chính Phủ và Mặt Trận Tổ Quốc đã đưa Linh mục Nguyễn Thế Vịnh, Chủ Tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo Yêu Tổ Ouốc và Hòa Bình, từ Hà Nội vào Saigon tổ chức một hội nghị Công Giáo mở rộng vào ngày 5.1.1980. Hội nghị đã đi đến quyết định thành lập Ủy Ban Vận Động Công Giáo nhằm tiến tới việc thành lập một Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tự trị tách rời khỏi Tòa Thánh La Mã. Xong Công Giáo rồi, ngày 2.2.1980, nhà cầm quyền mới cho lập
Ủy Ban Vận Động Thống Nhất Phật giáo Tháng 1 năm 1981, nhà cầm quyền đã hình thành được một Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, nhờ sự hợp tác chặt chẽ của các Hòa Thượng Thích Minh Châu, Thích Quảng Liên và nhất là có sự đồng thuận của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, Xử lý Thường Vụ Viện Tăng Thống và Hoà Thượng Thích Trí Thủ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hệ phái Ấn Quang. Nhưng về phía Công Giáo, nhà cầm quyền Cộng Sản đã hoàn toàn thất bại.
Trong một bản phân tích tình hình các tôn giáo tại Miền Nam năm 1981, Tổng Cục An Ninh của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đã nhận định rằng hai tôn Giáo Cao Đài và Hoà Hảo chỉ là hai giáo phái chính trị nên phải giải tán. Về phía Phật Giáo, bản nhận định nói rằng việc kiểm soát không có gì khó khăn, vì Phật Giáo không có tổ chức chặt chẽ, và trong những năm kháng chiến Đảng đã gài được nhiều cán bộ nòng cốt vào bên trong để hoạt động. Những thành phần chống đối đã bị loại bỏ hoặc cô lập. Vậy có thể thống nhất ngay mà không gặp trở ngại nào. Riêng về phía Công Giáo, bản nhận định cho biết Giáo Hội Công Giáo là một Giáo Hội được tổ chức rất chặt chẽ, gồm những người lãnh đạo và cán bộ có kiến thức cao, giáo dân đều đã được huấn luyện thuần thành. Bản phân tích cho biết riêng Giáo Phận Sàigòn có khoảng 40 linh mục có bằng tiến sĩ hoặc tương đương và phân rõ lập trường, thái độ của từng nhóm cũng như cách đối phó. Công giáo có Hội Đồng Giám Mục là một cơ quan lãnh đạo tập thể, rất khó dùng ảnh hưởng của một vài cá nhân để chi phối. Công Giáo lại có hậu thuẫn của Vatican và các nước Công Giáo Tây Phương nên nếu hành động không khôn khéo có thể gảy ảnh hướng bất lợi. Bản phân tích đề nghị dùng nhiều biện pháp để khống chế và làm tiêu hao dần Giáo Hội Công Giáo như đã áp dụng tại miền Bắc từ 1954 - 1975 : tìm cách cô lập các giáo sĩ và giáo dân có khả năng lãnh đạo, lưu lại một thời gian lâu dài khoảng 200 giáo sĩ đang bị giam giữ trong các trại cải tạo cho đến khi tình hình ổn định, hạn chế chặt chẽ việc phong chức, bổ nhiệm các chức sắc mới thay thế những những chức sắc đã qua đời, cô lập và phân tán các dòng tu. v.v.
Mặt Trận Tổ Quốc đã nhiều lần mở cuộc thăm dò để thành lập một Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tự trị, nhưng đã bị cự tuyệt. Các giáo sĩ và giáo dân được mời họp để hỏi ý kiến đều trả lời rằng chỉ có Hội Đồng Giám Mục mới có quyền quyết định được điều đó. Ngay các linh mục quốc doanh cũng không ai dám công khai ủng hộ đề nghị của nhà cầm quyền. Cuối cùng, nhà cầm quyền quyết định tạm thời tiến tới việc thống nhất các tổ chức Công Giáo quốc doanh trong khi nghiên cứu lại việc thành lập một Giáo Hội Giáo Việt Nam tự trị.
Ban Tôn Giáo Chính Phủ đã giao cho linh mục Nguyễn Thế Vịnh, Chủ Tịch Ủy Ban Công Giáo Yêu Tổ Quốc và Hòa Bình ở miền Bắc đứng ra vận động thành lập một tổ chức Công Giáo quốc doanh thống nhất. Một "
Đại Hội toàn quốc những người Công Giáo Việt Nam xây dựng và bảo vệ hoà bình" đã được triệu tập tại Hà Nội từ 7 đến 10.11.1983. Biết rằng linh mục Nguyễn Thế Vịnh không đủ thẩm quyền và uy tín để triệu tập một đại hội như vậy nên Mặt Trận Tổ Quốc đã đứng ra hành động. Mặt Trận tại mỗi địa phương đã chỉ định các thành phần tham dự đại hội. Trong đại hội người ta thấy có 299 đại biểu thuộc 32 tỉnh trong nước, trong đó có 142 linh mục, tu sĩ và 146 giáo dân. Để làm cho Đại Hội đi đến thành công, Hà Nội phải đưa Huỳnh Tấn Phát, Chủ Tịch Ủy Ban Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc, đứng ra lãnh đạo đại hội. Đặng Thành Chơn, chuyên viên về khống chế tôn giáo của Ban Tôn Giáo Chính Phủ cũng có mặt để theo dõi từng diễn tiến của đại hội. Trong đại hội, đại diện chính quyền cũng như một số đại biểu cò mồi đã nhấn mạnh khá nhiều về "
vấn đề Công Giáo Việt Nam" với gợi ý nên tiến tới việc tuyên bố tách rời Giáo Hội Công Giáo Việt Nam ra khỏi Toà Thánh La Mã vì Giáo Hội Việt Nam đã trưởng thành. Chuyện này được bàn tán nhiều sau Đại Hội nên tờ Công Giáo và Dân Tộc phải lên tiếng xác nhận "
không có vấn đề tự trị".
Đại Hội đã quyết định thành lập Ủy Ban Đoàn Kết Công giáo Yêu Nước và đề cử linh mục Nguyễn Thế Vịnh làm chủ tịch. Đại Hội cũng chấp thuận một bản điều lệ và một bản nghị quyết do Ban Tôn Giáo Chính Phủ soạn sẵn. Điều 2 của bản Điều Lệ ghi rõ:
"
Ủy Ban Đoàn Kết Công giáo Yêu Nước Việt Nam là một thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, hoạt động theo Hiến Pháp và pháp luật của nước Cộng Hòa Xã Hội Việt Nam và cương lĩnh của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam."
Điều 3 của bản Nghị Quyết đã nói về vai trò của phong trào Công Giáo yêu nước như sau :
"
Đại Hội cũng nhận định: vượt qa những gian lao thử thách, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Chủ Tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, dưới sự quan tâm giúp đỡ của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, phong trào Công Giáo yêu nước đang lớn mạnh. Yêu nước là truyền thống vẻ vang của dân tộc Việt Nam, là đòi hỏi thiêng liêng của tình thương Kiô giáo, là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam. Trong thời đạingày nay, nội dung yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, và phải gắn liền nghĩa vụ yêu nước với nghĩa vụ đấu tranh cho hoà bình và công lý trên thế giới."
Linh mục Nguyễn Thế Vịnh chỉ làm Chủ Tịch được 6 tháng thì qua đời. Đức Giám Mục Bùi Chu Tạo cho biết trong những tháng cuối cùng của cuộc đời, ông thường tỏ ra hối hận về sự lầm lẫn của ông trong việc tham gia Đảng Cộng Sản Việt Nam và những ngày trước khi qua đời ông đã xin chịu các phép bí tích. Linh mục Hồ Thành Biên đã thay thế Linh Mục Nguyễn Thế Vịnh.
Tại Saigon, Ủy Ban đã được cấp một biệt thự ở số 15 đường Tú Xương Quận 3, để làm văn phòng thường trực và sinh hoạt. Ủy Ban chiếm phòng hội của Trung Tâm Công Giáo Việt Nam ở đường Trần Quốc Toản (Nguyễn Đình Chiểu cũ) làm nơi hội họp. Ủy Ban cũng định chiếm dụng nhà sinh hoạt của giáo xứ Tân Định để làm cơ sở ấn loát và phát hành báo chí, nhưng bị kháng cự lại nên không chiếm được. Ủy Ban có một tờ tuần báo là tờ
Công Giáo và Dân Tộc do Linh mục Trương Bá Cần làm chủ nhiệm. Ủy Ban dùng tờ báo này để kêu gọi giáo dân hợp tác với chính quyền. Trong một bài phỏng vấn dành cho báo
Eglises d Asie, Đức Giám Mục Nguyễn Minh Nhật, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đã trả lời bằng tiếng Pháp về trường hợp của Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước và tờ
Công Giáo và Dân Tộc, chúng tôi xin tạm dịch như sau :
"
Ủy Ban thủ một tờ báo công giáo duy nhất tại miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên tờ này hay tờ kia (ở Bắc) đều đã được coi như những cơ quan của chính phủ. Những bài viết trong báo luôn bênh vực chính sách của chính quyền và thường công kích Giáo Hội. Họ không có ý kiến đứng đắn về Giáo Hội Việt Nam ...."
"
Hai trong những người đại diện (của Ủy Ban) đã gởi cho tôi một lá thư, trong đó họ khan phiền họ đã bị cả chính quyền lẫn hệ cấp thẩm quyền Công Giáo coi như một công cụ kiểm soát của chính quyền. Tôi đã trả lời họ rằng những sự nghi ngờ đó có căn cứ. Họ đã mất sự tin tưởng của người Công Giáo."(9)
Tuy được sự hỗ trợ của Mặt Trận Tổ Quốc, Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước không hoạt động gì được, vì giáo dân cũng như giáo sĩ chỉ biết Hội Đồng Giám Mục Việt Nam chớ không cần biết Ủy Ban này.
Với chỉ thị của Tòa Thánh La Mã cấm các giáo sĩ không được tham gia vào các tổ chức tôn giáo quốc doanh, vai trò của Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước cũng sắp cáo chung, vì các giáo dân tham gia Ủy Ban không ai có chút uy tín hay khả năng để điều hành tổ chức này.
* Tiếp tục đánh phá Công Giáo Năm 1985, khi quyết định tiến tới giai đoạn mà họ gọi là giai đoạn "tiến lên xã hội chủ nghĩa", nhà cầm quyền Hà Nội quyết định đưa các ngành tư doanh còn lại vào hợp tác xã hay biến thành công ty quốc doanh. Tại Saigon, Quận III, nơi còn nhiều cơ sở tư doanh nhỏ, đã được chọn làm thí điểm. Song song với biện pháp kinh tế, nhà cầm quyền cũng quyết định đi thêm một bước nữa trong việc khống chế Thiên Chúa Giáo.
Khoảng 2000 công an đã được huấn luyện tại Tiệp Khắc về tôn giáo vụ được đưa vào miền Nam, phân phối cho các thành phố Đà Nẵng, Biên Hòa, Đồng Nai và Saigon, là những nơi có nhiều giáo dân tập trung. Tại Saigon, huyện Thủ Đức đã được chọn làm thí điểm vì nơi đây còn một số đông các cơ sở dòng tu và các giáo xứ miền Bắc di cư. Trong năm 1986, một số dòng ở Thủ Đức như Đức Bà Truyền Giáo, Đồng Công... đã được lệnh phân chia ra nhiều "hộ" nhỏ, mỗi hộ không quá 10 người. Chính phủ sẽ cấp những căn nhà riêng biệt cho các "hộ" này tiếp tục đời sống tu trì. Các cơ sở của các dòng còn lại sẽ được đặt dưới quyền quản lý của Nhà nước. Vụ đánh phá dòng Đồng Công năm 1987 cũng nằm trong chiến dịch xé lẻ các dòng tu để diệt dần.
Năm 1986, nhà cầm quyền lại cho triệu tập một Đại Hội Toàn Quốc Những Người Công Giáo Việt Nam Xây Dựng và Bảo vệ Hòa Bình lần thứ 2 tại Hà Nội để hình thành một Giáo Hội Thiên Chúa Giáo Việt Nam tự trị, tách rời khỏi Toà thánh La Mã như năm 1983, nhưng cũng bất thành, vì các giáo sĩ và giáo dân tham dự đại hội vẫn trả lời như lần trước: Vấn đề tự trị hay không tùy thuộc vào quyết định của Hội đồng Giám Mục, họ không có thẩm quyền.
Sự phản ứng của nhà cầm quyền Hà Nội về việc Tòa thánh Vatican quyết định
phong thánh cho 117 vị Chân phước tử đạo tại Việt Nam ngày 19.6.1988 cũng rất quyết liệt. Linh mục Trương Bá Cần đã viết nhiều bài phân tích cho rằng việc phong thánh là sai lầm. Nguyễn Đình Đầu hô hào tẩy chay phong thánh. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam bị đả kích vì đã ký đơn xin phong thánh. Nhiều cuộc họp hay hội thảo để phản đối quyết định phong thánh đã được triệu, tập nhưng đa số giáo dân và giáo sĩ đều cho rằng việc phong thánh là chính đáng. Cuối cùng nhà cầm quyền Hà Nội đã bó tay.
Nhưng không may cho Đảng Cộng Sản Việt Nam là cuộc đổi tiền vào tháng 9 năm 1985 đã đem lại những hậu quả ngày càng nghiêm trọng, bắt buộc Đảng Cộng Sản Việt Nam phải đổi mới để sống còn. Sự khống chế Thiên Chúa Giáo cũng được nới rộng ra để khỏi bị lên án khi kêu gọi đầu tư và vay mượn tín dụng ngoại quốc. Nhà cầm quyền Hà Nội vẫn tin rằng Thiên Chúa Giáo là nguồn ngoại tệ đáng kể vì có sự giúp đỡ của Vatican và các tổ chức Thiên Chúa Giáo quốc tế. Dĩ nhiên, sự nới rộng của nhà cam quyền chỉ có ảnh hưởng ở một số sinh hoạt giới hạn như cho phong thêm một số ít linh mục, đồng ý cho bổ nhiệm một số giáo phẩm vào các chức vụ đã bị khiếm khuyết từ lâu, cho in một số Thánh Kinh... Đặc biệt, người Công Giáo không còn bị xếp vào công dân hạng 6 như trước nữa. Một vài lãnh vực đại học và cơ quan công quyền đã thu nhận giáo dân. Tuy nhiên, nhà cầm quyền vẫn tiếp tục gây nhiều khó khăn cho việc bổ sung từ hàng Giám Mục trở lên. Ngày 25.8.1993, nhà cầm quyền Hà Nội đã bác bỏ quyết định của Tòa Thánh Vatican cử Đức Giám Mục Huỳnh Văn Nghi làm Giám Quản Giáo Phận (Diocesan Administrator) Tòa Tổng Giám Mục Saigon và cũng không cho Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận trở về nhận chức Tổng Giám Mục Saigon khi Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình từ nhiệm vì lý do già yếu. Trước đây, khi Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền, Tổng Giám Mục Giáo Phận Huế qua đời ngày 8.6.1988 và sau đó, Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn, Tổng Giám Mục Hà Nội ra đi, Hà Nội cũng không cho Tòa Thánh Vatican cử người thay thế. Nay Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình từ nhiệm nữa, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam không còn Hồng Y hay Tổng Giám Mục nào. Đây là một âm mưu làm tê liệt guồng máy lãnh đạo của giáo hội Công Giáo. Nhưng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vẫn tiếp tục hoạt động bình thường là nhờ có Hội Đồng Giám Mục, do đó âm mưu của Việt cộng không ảnh hưởng nhiều. Ngày 15.4.1991, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã gởi đến ông Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam một
Bản Góp Ý đề cập đến hai vấn đề quan trọng sau đây:
Vấn đề xây dựng đất nước: Phải lấy phương châm "
phục vụ con người toàn diện" làm mục tiêu hàng đầu, phải có dân chủ thật sự và đặt tổ quốc lên trên hết.
Tránh đồng hóa tổ quốc với xã hội chủ nghĩa, vì xã hội chủ nghĩa cũng chỉ vì tổ quốc và nhân dân.
Vấn đề tôn giáo: Hiến Pháp có công nhận quyền tự do tín ngưỡng, nhưng việc thi hành quyết định này gặp nhiều khó khăn phiền hà. Phải coi quyền tự do tôn giáo là một thứ quyền lợi chứ không phải là một đặc ân. Các quy chế về tôn giáo trước khi ban hành phải đem lấy ý kiến của toàn dân, nhất là tín đồ các tôn giáo chứ không nên áp đặt. Tạo điều kiện cho tôn giáo thực hành ý tưởng nhân ái, chia xẻ hoàn cảnh của những người nghèo túng, nhất là ở những nơi xa xôi hẻo lánh, đừng lo sợ tôn giáo đề cao cá nhân hay tập thể.
Bản góp ý này đã được các giới trong và ngoài nước đánh giá như là một tiếng nói thẳng thắn và xây dựng thiết thực, và làm nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam lúng túng.
như đã nói ở Chương II. Nhưng về phía Công Giáo, nhà cầm quyền đã gặp rất nhiều khó khăn vì không kêu gọi được một Giám Mục nào tham gia vào Ủy Ban, còn hầu hết giáo sĩ và giáo dân thì tỏ ra dè dặt. 6.- đường lối của Tòa Thánh Vatican đối với nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam
Trên phương diện quốc tế công pháp, Tòa Thánh Vatican được nhìn nhận như một quốc gia có chủ quyền, có quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Vì thế, tương quan giữa Tòa Thánh Vatican và Hà Nội là tương quan giữa hai quốc gia có chủ quyền. Các sứ thần Tòa Thánh khi đến Việt Nam được đón tiếp theo nghi thức ngoại giao. Tương quan này hoàn toàn khác hẳn với tương quan giữa Hội Đồng Giám Mục Việt Nam hay Viện Hóa Đạo Phật Giáo Ấn Quang với nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội, các chủ thể hoàn toàn bị ràng buộc bởi hệ thống pháp lý và chính sách của nhà cầm quyền trong nước. Cần phải xác định rõ như thế để tránh ngộ nhận về đường lối của Tòa Thánh Vatican đối với nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam.
Trong 5 năm qua, Tòa Thánh Vatican đã gởi sứ thần đến Hà Nội ba lần để giải quyết những vấn đề liên hệ đến hai bên. Sứ thần của Tòa Thánh là Đức Hồng Y Roger Etchegaray được phái đến Việt Nam vào tháng 7 năm 1989. Chuyến đi này mang tính chất xã giao hơn là thương thuyết. Chuyến thứ hai của Đức Hồng Y R. Etchegaray đến Việt Nam là để chủ tọa tang lễ Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn qua đời ngày 18.5.1990. Trong dịp này, một vài vấn đề liên quan đến Giáo Hội Việt Nam cũng đã được bàn đến. Chuyến đi thứ ba từ 7 đến 13.11.1990 nhắm thương lượng và giải quyết những vấn đề có liên hệ đến việc thiết lập liên lạc ngoại giao giữa hai bên và vấn đề sinh hoạt tôn giáo tại Việt Nam, trong đó có một số vấn đề chính như việc Tòa Thánh Vatican bổ nhiệm các Giám Mục tại Việt Nam, sinh hoạt của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, việc huấn luyện các chủng sinh và phong chức linh mục, vấn đề các dòng tu, vấn đề ấn hành các sách báo Công Giáo, v v Nhưng vấn đề gay cấn hơn cả là vấn đề để cho Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận về giữ chức Phó Tổng Giám Mục Saigon với năng quyền thay thế Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình.
Các cuộc thương thuyết nói trên cũng đã đem lại một số kết quả cụ thể, tuy còn quá khiêm tốn, chẳng hạn như nhà cầm quyền Hà Nội đã cho 21 Giám Mục Việt Nam được đến Roma tham dự Hội Đồng Giám mục Thế Giới và tiếp kiến Đức Giáo Hoàng từ 15 đến 23.11.1990, một vài Giám Mục Việt Nam đã được bổ nhiệm để thay thế một số Giám Mục đã qua đời, tăng số linh mục được phong chức hàng năm lên chút ít.
Trong hai ngày 9 và 10 tháng 11.1990, khi Đức Hồng Y Etchegaray đang thăm Giáo phận Huế, Ban Tôn Giáo Chính Phủ đã triệu tập các Giám Mục Việt Nam lại và tuyên bố :
"- Đảng và Nhà nước phải phục vụ mọi người, kể cả tín đồ các tôn giáo. Đảng và Nhà nước không thể ngủ ngon bao lâu các tín đồ tôn giáo không có nơi cửhành việc phụng tự tôn giáo và không được tự do hành đạo.
- Các cộng đồng tôn giáo được chọn những người cai quản với điều kiện những người này không có thái độ đối đầu với Nhà nước. Việc chọn lựa các chức sắc phải thảo luận trước với Nhà nước.
- Đảng và Nhà Nước nhìn nhận vai trò của các tôn giáo trong việc duy trì và nâng cao đời sống luân lý của người dân trong xã hội."
Không như các hoàng đế Việt Nam thời phong kiến, nhà cầm quyền Hà Nội biết được ảnh hưởng sâu rộng của Giáo Hội Công Giáo trên thế giới, nhất là ở các nước Tây Phương, nên đã tìm cách ve vãn Tòa Thánh Vatican khi muốn mở rộng ngoại giao, vay mượn tín dụng và giao thương với các nước Tây phương. Tuy nhiên nhà cầm quyền Hà Nội vẫn không từ bỏ chính sách khống chế Giáo Hội Công Giáo Việt Nam một tổ chức mà họ tin rằng có thể gây nguy hiểm cho sự tồn vong của chế độ.
***
Đến đây, Hòa Thượng Huyền Quang và nhóm Lý Khôi Việt có thể hiểu tại sao nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội có thể biến Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất của Khối Ấn Quang thành một Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh dễ dàng, mà không thể biến giáo hội Công Giáo Việt Nam thành một Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tự trị được. Chính trong bài "Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam cuối thế kỷ 20", ở trang 25 Lý Khôi Việt đã phải nhìn nhận về Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam nhưsau:
"Và bị các thế lực chinh trị đánh phá, lũng đoạn từ bên ngoài và khủng hoảng, chia rẽ từ bên trong nội bộ. Thiếu trình độ, thiếu tổ chức, thiếu chuẩn bị, thiếu lãnh đạo, đã khiến Phật Giáo thiếu thích nghi trước tình thế mới, và cộng thêm với nhiều tấm lòng sôi nổi, nhiều cảm xúc nhiệt tình trước tình cảnh đau khổ của dân tộc nên đôi khi đã lao đầu vào những con đường cùn cụt và vô tình thúc đẩy thêm những thay đổi chính trị, thời cuộc, thay vì thành những vận hội mới cho Dân Tộc và Đạo Pháp, thì lại thành những pháp nạn mới".
TƯƠNG QUAN GIỮA CAO ĐÀI GIÁO VÀ CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đạo Cao Đài được chính thức thành lập vào năm 1926. Người sáng lập là ông Phủ Ngô Văn Chiêu, tòng sự tại Phú Quốc. Ông là người rất tin giáng khẩu của các thần linh. Ông thường dùng bàn xoay để tiếp xúc với thế giới vô hình. Một hôm ông tiếp xúc được một vị tự xưng là Cao Đài và vị này cho ông được tôn thờ dưới hình một con mắt. Khi được thuyên chuyển về Saigon. ông cùng một số bạn bè thường cầu cơ, và được đức Cao Đài giáng đồng dạy cho những triết lý cao siêu.
Ngày 7.10.1926, ông Ngô Văn Chiêu đã cùng 28 người ra tuyên ngôn chính thức thành lập đạo Cao Đài và xin Thống đốc Nam Kỳ cho phép hoạt động. Đơn đó đã được chấp nhận dễ dàng. Ông Lê Văn Trung được bầu làm Giáo Chủ đầu tiên.
Sau khi được thành lập, đạo Cao Đài đã bị Đảng Cộng Sản Đông Dương lên án rất nặng nề và coi tôn giáo này như là một công cụ của thực dân Pháp. Trong Nghị Quyết Chính Trị của Đại Biểu Đại Hội lần thứ nhất của Đảng Cộng Sản Đông Dương họp từ 27 đến 31.3.1935 có nhận định như sau:
"Cuộc vận động phổ biến và mở rộng tôn giáo như: đại biểu Hội nghị chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ, lập trường dạy đạo Phật ở Cao Miên, cải lương đạo Phật, khuếch trương đạo Cao Đài ở Nam Kỳ, cuộc tuyên truyền của một bộ phận lãnh tụ đạo Cao Đài giả bộ cổ động phản đế và cho rằng đạo Cao Đài là cộng sản chủ nghĩa hoà bình (?), là những mưu mô của đế quốc lấy mê tín che lấp tư tưởng giai cấp tranh đấu, để kéo quần chúng ra khỏi đường cách mạng tranh đấu."(10)
Nghị quyết của Ban Trung ương Đảng họp từ ngày 6 đến 8.11.1931 (chú thích của người đánh máy: tác giả lầm, năm 1939) lại viết về đạo Cao Đài như sau:
"Quần chúng có ít nhiều tinh thần phản đế theo đạo Cao đài và Phật giáo khá nhiều, nhất là sau những năm khủng bố 1930-1931, đạo Cao đài ở Nam Kỳ kéo được một số đông tín đồ, nhưng nhờ thực tế thức tỉnh và nhờ phong trào dội lướt nên có một số quần chúng theo các đạo ấy đã dần dần nhận rõ con đường đoàn kết tranh đấu để đòi quyền lợi, đã có một số ra khỏi đạo Cao đài. Đế quốc chủ nghĩa Pháp rất xảo quyệt, đã tìm cách lợi dụng những trào lưu tôn giáo để mê hoặc quần chúng. Những hội chấn hưng Phật giáo ở khắp Bắc - Nam - Trung do bọn hưu quan và địa chủ cầm đầu có kế hoạch của sở mật thám chính trị bày vẽ. Còn bọn lãnh tụ Cao đài lúc trước phần nhiều bị bọn tay sai Nhật mua chuộc và lừa gạt quần chúng tín đồ theo ảnh hưởng thân Nhật. Từ khi đế quốc Pháp dự vào chiến tranh, vì tình hình căng thẳng và vì đế quốc Pháp tìm cách mua chuộc phần nhiều lãnh tụ Cao đài lúc này đã trở nên tay sai của đế quốc Pháp, hô hào tín đồ ra đầu quân giúp "mẫu quốc", che đậy sự tráo trở đầu hàng đế quốc Pháp của chúng bằng câu: "Đi lính để quay mũi súng đánh Tây". Tóm lại bọn lãnh tụ Cao đài là bọn bản tính phản động, đòn xóc hai đầu, tuỳ theo cơ hội hoặc làm tay sai cho đế quốc này, hoặc bán mình cho đế quốc khác; còn quần chúng tín đồ Cao đài thì có ít nhiều tinh thần phản đế, nhưng còn nhiều mê tín thần bí nên bị bọn lãnh tụ xỏ lá lừa gạt."(11)
Mặc dầu Đảng Cộng Sản Đông Dương nhận định như vậy thực tế lại khác hẳn. Cao Đài Giáo về sau trở thành một tổ chức chống Pháp và chống Cộng mạnh mẽ nhất. Đạo Cao Đài có cả một tổ chức quân đội vững mạnh. Trong Đại Hội Cựu Chiến Sĩ Cao Đài được tổ chức tại Anaheim, California, từ 1 đến 3.1.1993, cụ Đặng Quang Dương đã trình bày về việc thành lập Quân Đội Cao Đài như sau:
"Tại sao Cao Đài là một Tôn Giáo mà lại có quân đội? Nhìn vào lịch sử đen tối của đất nước thời bấy giờ, Nam Kỳ là thuộc địa Pháp, con người mất hết quyền công dân, ngay cả bản thân cũng phải đóng thuế, thì làm sao tín đồ Cao Đài ngồi yên được, cho nên có sinh hoạt chính trị và tổ chức quân sự. Để bảo vệ cho tính mạng tín đồ Cao Đài và để bảo vệ quốc gia dân tộc, quân đội Cao Đài tổ chức các Trung đội lưu động hành quân gom dân về các châu vi đạo, các Trung đội lưu thủ bảo vệ các châu vi đạo để đồng đạo được tự do tín ngưỡng Đồng thời quân đội Cao Đài cũng lập chiến khu Núi Bà, chiến khu Bù Lu để chống lại bọn thực dân.
"Năm 1954, chiến tranh Đông Dương kết thúc, đất nước bị chia đôi, một đại hội Cán Bộ Việt Nam Phục Quốc Hội, một đoàn thể chính trị của người Cao Đài, được triệu tập tại Trường Thiếu Sinh Quân Cao Đài, sau 3 ngày hội thảo, đại hội khẳng định: "Bắc chống Nga Hoa, Tây hòa Âu Mỹ, Nam liên kết bằng hữu Á Châu", một lập trường rất đứng đắn của tín đồ Cao Đài thời bấy giờ."(12)
Thành tích chống thực dân Pháp của các tín đồ Cao Đài không ai chối bỏ được. Đảng Cộng Sản Đông Dương đã không thuyết phục được các lãnh tụ Cao Đài gia nhập Mặt Trận Việt Minh vì giữa đạo Cao Đài và chủ nghĩa Cộng Sản có một sự khác biệt không dung hợp được: một đàng vô thần, một đàng hữu thần. Bộ mặt tráo trở của các lãnh tụ Đảng Cộng Sản Đông Dương đã bị các lãnh tụ và tín đồ đạo Cao Đài nhận diện nên không những không tham gia vào các hội cứu quốc của Việt Minh mà còn cương quyết chống lại. Vì vậy Việt Cộng đã tìm mọi cách tiêu diệt đạo Cao Đài.
Trong hai năm 1945 và 1946, có trên 10.000 chức sắc và tín đồ đạo Cao Đài bị thảm sát, điển hình nhất là các mồ chôn tập thể 4000 giáo hữu tại Quảng Ngãi và mồ chôn tập thể tại Trà Cao Tây Ninh.
Sau khi chiếm được miền Nam Việt Nam, Việt Cộng cho ngay một Trung đoàn chiếm đóng Tòa Thánh Tây Ninh và phong tỏa các vùng phụ cận, lục soát toàn bộ khu vực này. Sau đó, Việt Cộng đã bắt đi những chức sắc quan trọng của đạo Cao Đài như Phối Sư Trần Quang Vinh, Chánh Phối Sư Thượng Nhã Thanh, cựu Thiếu Tướng Trần Tấn Mạnh và 25 vị chức sắc khác đưa đi cải tạo. Phối Sư Trần Quang Vinh bị chết trong tù. Việt Cộng đã giấu xác Ngài không cho thân nhân và tín đồ nhận về.
Tiếp theo, Việt Cộng cho bỏ vũ khí vào đằng sau Điện Giáo Tông rồi mở cuộc lục xét bắt Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa và những người cư ngụ trong nội thành Tòa Thánh Tây Ninh, truy tố về tội tàng trữ vũ khí bất hợp pháp và tổ chức chống chính quyền, rồi đưa ra xét xử trước Tòa án Nhân Dân được thiết lập tại sân vận động Long Hoa. Hàng ngàn tín đồ đã bao vây sân vận động và khóc òa lên, Việt Cộng không thể xét xử được. Cuối cùng, Việt Cộng phải đưa Ngài về quản thúc tại gia nhưng buộc Hội Đồng Chưởng Quản phải giáng xuống hàng Đạo hữu. Hiền Tài Hồ Thái Bạch, con của Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa, bị bắt trong vụ Mặt Trận Phục Quốc tại Saigon năm 1984 và đã bị xử bắn với Trần Văn Bá và Lê Văn Quân vào ngày 8.1.1985.
Mặt Trận Tổ Quốc Huyện Hòa Thành đã đưa Trương Ngọc Anh về tuyên bố giải tán Giáo Hội Cao Đài và thành lập một Hội Đồng Chưởng Quản mới đặt trực thuộc quyền chỉ đạo của Mặt Trận Tổ Quốc Huyện với dụng ý giáng xuống cấp huyện. Tất cả các cơ sở của Giáo Hội được đặt dưới quyền quản trị của một Ban Quản Lý Nội Ô Tòa Thánh.
Những chức sắc và đạo hữu của Giáo Hội trên toàn miền Nam Việt Nam chống lại việc giải tán Giáo Hội đã bị bắt giam và truy tố về tội chống đối chính quyền. Sau đây là các vụ điển hình:
- Tại Đà Nẵng và Quảng Nam: Năm 1975: Phạt Nguyễn Hoàng Diệu 10 năm tù. Tháng 11 năm 1976: Kết án tử hình: Phạm Ngọc Trảng, Nguyễn Thành Điểm và Đặng Ngọc Liêm. Phạt từ khổ sai chung thân đến 7 năm tù: Nguyễn Minh Quan, Cao Tường Xuân, Lý Thành Trọng, Châu Thị Mỹ Kim, Trần Văn Bảo, Lê Ngọc Minh, Phạm Thành Phước, Nguyễn Văn Đông, Nguyễn Văn Đời, Nguyễn Thành Minh, Đỗ Trung Trực, Trần Văn Phi, Nguyễn Tấn Phụng, Phương Văn Được, Ngô Văn Trạng và Tạ Tài Khoán. Năm 1978: Nguyễn Phú và Mai Văn Căn bị phạt 3 năm tù. Năm 1979: Trần Ngọc Thành và Nguyễn Văn Bảy bị án tử hình
Tại Saigon: Trong phiên xử ngày 7 và 8.12.1979 của Tòa án Nhân Dân Saigon, những nhân sĩ và đạo hữu Cao Đài sau đây đã bị tuyên án về tội tham gia Mặt Trận Giải Phóng Việt Nam: Tử hình: Nguyễn Văn Mạnh và Lê Văn Nho. Chung thân khổ sai: Trần Minh Quang, Đinh Tiến Mậu, Nguyễn Thái Dũng, Đoàn Văn Bạch. Một số người khác bị án từ 10 đến 20 năm.
Tại Tây Ninh: Trong phiên xử ngày 10 và 1.12.1979, các đạo hữu sau đây bị tuyên án vì tham gia Mặt Trận Nhân Dân Phục Hưng Quốc Gia Việt Nam: Tử hình: Nguyễn Thanh Liêm, Huỳnh Thanh Khiết, Hồ Hữu Hìa và Lê Tài Thượng. Chung thân khổ sai: Nguyễn Anh Dũng (tức Phan Đăng Chức), Trương Phước Đức, Nguyễn Ngọc Đệ, Võ Văn Thắng. Một số đạo hữu khác bị án từ 3 đến 20 năm tù.
Trên 35 cơ sở tôn giáo và giáo dục của đạo Cao Đài tại miền Nam Việt Nam đã bị tịch thu. Năm 1989 nhà cầm quyền Nội tuyên bố tịch thu luôn Thánh Thất Cao Đài Hà Nội ở đường Lý Thường Kiệt, Hà Nội.(13)
TƯƠNG QUAN GIỮA PHẬT GIÁO HOÀ HẢO VÀ CỘNG SẢN VIỆT NAM
Phật Giáo Hòa Hảo là đạo Phật được Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ cải biên cho phù hợp với tín đồ và môi trường của Việt Nam. Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (4.7.1939), lúc 6 giờ chiều, Đức Thầy đã thắp nhang và mời các Đấng Thiêng Liêng về chứng cho Ngài "chịu lệnh Tây Phương thọ ký". Đạo được khai tại Xã Hòa Hảo, Quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, nên Ngài gọi là Phật Giáo Hòa Hảo. Về giáo lý, Phật Giáo Hòa Hảo lấy pháp môn Tịnh Độ làm căn bản. Đây một trong 84 ngàn pháp môn của Đức Thích Ca Mâu Ni thuyết ra để cho các tín đồ tu tại gia biết con đường giải thoát.
Khi tình hình thế giới biến động, ngày 10.3.1945 ông Hồ Văn Ngà thành lập Đảng Việt Nam Quốc Gia, quy gồm hai đảng Nhân Dân Cách Mạng và Việt Nam Quốc Gia lại. Ngày 14.8.1945, theo lời kêu gọi của ông Hồ Văn Ngà, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã cùng các ông Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân, Trần Văn Thạch v.v. đứng ra thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất. Ngày 22.8.1945 Việt Minh cướp được chính quyền ở Hà Nội thì tại miền Nam, lực lượng của Việt Minh chưa có gì nên Nhật đã giao chính quyền Nam Kỳ lại cho ông Trần Văn Ân, Chủ Tịch Hội Đồng Nam Kỳ.
Ngày 24.8.1945, Tổng Bộ Việt Minh cử Cao Hồng Lãnh và Hạ Bá Cang (tức Hoàng Quốc Việt) từ Hà Nội vào Nam tăng cường cho Mặt Trận Việt Minh tại Nam Bộ và lập Lâm Ủy Hành Chánh Nam Bộ do Trần Văn Giàu làm Chủ Tịch. Ngày 7.9.1945, nhóm Đệ Tứ và các đảng Quốc Gia đứng lên chống lại Lâm ủy Hành Chánh, Trần Văn Giàu phải mở rộng cơ quan này, cho Phạm Văn Bạch làm Chủ Tịch. Một cuộc biểu tình của Phật Giáo Hòa Hảo được tổ chức tại Cần Thơ đả đảo Lâm Ủy Hành Chánh của Việt Minh và ủng hộ Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất. Cuộc đối kháng giữa các đảng phái quốc gia và Cộng Sản bắt đầu.
Ngày 13.9.1945 công an của Việt Minh do Lý Huê Vinh cầm đầu đi lục soát xóm Thơm lùng bắt các ông Vũ Tam Anh, Trần Văn Ngà, Trần Quang Vinh, Lương Trọng Tường và Bùi Quang Chiêu. Trước đó, vào ngày 9.9.1945 Trần Văn Giàu đã cho công an vây trụ sở của Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội để bắt Chủ Tịch của hội này là Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ, nhưng không bắt được.
Ngày 16.9.1945 quân Pháp trở lại chiếm Saigon, tuyên bố không chấp nhận Lâm ủy Hành Chánh của Trần Văn Giàu, đuổi Lâm ủy Hành Chánh ra khỏi Dinh Gia Long. Trần Văn Giàu phải nhờ các ông Trần Văn Thạch, Huỳnh Văn Phương và bà Hồ Vĩnh Ký (tức Nguyễn Thị Sương) đứng ra lập ủy ban Ngoại Giao để thương lượng với Đồng Minh, nhưng không kết quả. Ngày 24.9.1945, các đảng phái quốc gia, trong đó có giáo phái Phật Giáo Hòa Hảo, đứng lên cùng Việt Minh hô hào chống Pháp. Trong khi Lâm Ủy Hành Chánh rút về Chợ Đệm thì các đảng phái quốc gia lập Ủy Ban Phong Tỏa Saigon gồm có Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân, Hồ Văn Ngà và Kha Vạn Cân. Ngày 27.9.1945, Dương Văn Giáo thành lập Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Quốc để tổ chức kháng chiến. Chính phủ này bị Việt Minh chống đối mạnh mẽ.
Trước sự chống cự của các đảng phái quốc gia và Việt Minh, Pháp đã thương lượng với các đảng phái quốc gia và đề nghị hưu chiến để tìm một giải pháp tốt đẹp. Cuộc hưu chiến được bắt đầu từ 1.10.1945. Lợi dụng tình trạng đang hưu chiến để thương lượng với Pháp, ngày 8.10.1945, Trần Văn Giàu cho công an và bộ đội bao vây trụ sở và tư gia của các lãnh tụ đảng phái quốc gia, bắt các ông Hồ Văn Ngà, Dương Văn Giáo, Huỳnh Văn Phương, Trần Quang Vinh, Bùi quang Chiêu. Một số người bị hạ sát ngay. Các đảng viên nòng cốt của Đệ Tứ như Phạm Văn Hùng, Trần Văn Thạch, Phạm Văn Chánh, Nguyễn Văn Sổ, Phan Văn Hóa, Trần Văn Sĩ, Nguyễn Văn Soái v.v đều bị bắt và đưa ra chôn sống ở Lòng Song thuộc tỉnh Bình Thuận. Cuộc chiến giữa các đảng phái quốc gia và Việt Minh bắt đầu.
Riêng Phật Giáo Hòa Hảo đã lập các khu kháng chiến tại miền Tây để chống Pháp lẫn Việt Minh. Việt Minh lợi dụng lòng yêu nước của Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ và của đồng bào, kêu gọi liên minh để kháng chiến. Việt Minh chiêu dụ một số người có uy tín của Phật Giáo Hoà Hảo tham giá Mặt trận Việt Minh như Sư thúc Mười Trí, tức Huỳnh Văn Trí, anh em kết nghĩa với Đức Thầy. Việt Minh cho gài người vào làm nội ứng và gây chia rẽ trong nội bộ của Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo và gây tang tóc cho Giáo Hội này.
Ngày 21.9.1946, Đức Huỳnh Giáo Chủ quyết định thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng để kháng Pháp và đấu tranh chính trị. Việt Minh coi đây là một tổ chức phản động nên tìm cách tiêu diệt. Ngày 16.4.1947, Việt Minh giả vờ mở đại hội cao cấp của Ủy Ban Hành - Kháng Nam Bộ tại Đốc Vàng, mời Đức Thầy đến phó hội. Đức Thầy đã cùng với bốn cận vệ đi thuyền đến điểm hẹn. Đức Thầy lên bờ rồi cùng cận vệ đi tiến về phía có đám lửa báo hiệu như đã hẹn, thì đột nhiên nghe súng nổ hàng loạt. Đức Thầy đã bị ám hại, ba cận vệ của Ngài bị đâm chết, chỉ người lái thuyền nhảy được xuống nước bơi qua bên kia sông nên thoát chết.
Sau khi Đức Huỳnh Giáo Chủ vắng bóng thì Mười Trí xuất hiện tại Thánh Địa như muốn thay thế Đức Thầy làm Giáo Chủ. Người ta loan tin "Đức Thầy vân du một thời gian, sẽ trở lại", trong thời gian chờ đợi, có lẽ Mười Trí "Quyền Giáo Chủ lãnh đạo Phật Giáo Hòa Hảo". Nhưng âm mưu của Việt Minh không thành vì trong Giáo Hội lúc đó còn nhiều "hào kiệt như Lê Quang Vinh. Mười Trí lại bị mọi người nhìn bằng con mắt xoi mói nên không dám ở lại, phải đi vào mật khu của Việt Minh. Sau hiệp định Genève năm 1954, Mười Trí tập kết ra Bắc và trở lại miền Nam sau 30.4.1975, đã qua đời tại Saigon vào năm 1989.
Ám hại xong Đức Thầy, Việt Minh cho bộ đội và công an đi lùng bắt giết các lãnh tụ và cán bộ trung kiên của Phật Giáo Hòa Hảo. Khoảng 12.000 tín đồ Phật Giáo đã bị sát hại trong giai đoạn này. Riêng tại thôn Phú Thuận, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, người ta khám phá thấy ba hầm chôn tập thể trên 300 người. Nhưng lực lượng Phật Giáo Hòa Hảo đã được tổ chức lại để chống Việt Cộng.
Sau ngày 30.4.1975, Việt Cộng triệt hạ toàn bộ cơ sở của Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo, từ trung ương đến địa phương, cấm Giáo Hội này không được hoạt động. Tất cả tài liệu Kinh Giảng đều bị tịch thu và cấm phổ biến các sách vờ và Kinh Giảng của Giáo Hội, bắt dẹp bỏ hình Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, nơi công cộng cũng như ở tư gia. Một số lớn chức sắc và tín đồ của Giáo Hội bị giết, bị tuyên án tử hình, án tù hay quản thúc tại gia. Sau đây là một số vụ điển hình:
- Những chức sắc và tín đồ bị án tử hình: Nguyễn Văn Phụng, Nguyễn Đê, Huỳnh Văn Lầu (cựu Dân Biểu Quốc Hội), Nguyễn Văn Bảo, Nguyễn Văn Khiết, Nguyễn Văn Oanh, Lê Chân Tình, Nguyễn Văn Coi, Nguyễn Văn Bá, Nguyễn Văn Út, Tô Bá Hộ. Riêng Nguyễn Thành Long, Hội Trưởng Phật Giáo Hòa Hảo Quận Cái Răng ở Cần Thơ đã bị bẻ cổ chết.
- Những chức sắc và tín đồ bị án chung thân : Nguyễn Văn Đấu, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Văn Trên, Trần Văn Dũng, và Tô Bá Hộ.
- Những chức sắc bị đưa đi cải tạo và đã chết trong ngục tù: Phạm Bá Cầm (Tổng Bí Thư Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng), Thiếu Tướng Lâm Thành Nguyên (tự là Hai Ngoán), Trịnh Quốc Khánh tự Chính Lễ, v.v. Riêng cụ Trần Hữu Duyên, sau một thời gian cải tạo đã được tha về, năm 1992 bị bắt lại và bị phạt 10 năm khổ sai khi cụ đã 70 tuổi.
***
Nhìn chung, Công Giáo, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hoà Hảo đã nhận ra ngay từ đầu sự nguy hại của chủ nghĩa cộng sản vô thần và những sự tráo trở và phản bội của Đảng Cộng Sản Việt Nam, nên đã không gia nhập Mặt Trận Việt Minh. Các tôn giáo này đã lập các khu tự trị võ trang để chống Pháp và chống Việt Minh. Ở đâu có tín đồ Công Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, ở đó Việt Cộng không hoạt động được. Ngày 30.4.1975, trong khi một nhóm tăng sĩ Phật Giáo gốc miền Trung trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang đã tổ chức "mừng giải phóng" và coi sự thành công của Việt Cộng như sự thành công của chính họ thì các tín đồ Công Giáo, Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo và đa số tín đồ Phật Giáo đã coi ngày này như một ngày đại tang chung của toàn thể đất nước và là một ngày đại tang riêng của Công Giáo, Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo. Ngày 30.4.1975 cũng đã được đặt tên là "Ngày Quốc Hận". Sự thiệt hại về nhân mạng và cơ sở vật chất ba tôn giáo này phải gánh chịu rất là nặng nề, những di sản tinh thần mà ba tôn giáo này để lại chắc chắn sẽ góp phần tích cực vào việc làm sụp đổ chế độ cộng sản và đưa dân tộc đến ngày giải phóng thật sự.
Ghi chú Chương III:
1. Marx - Engels Tuyển tập tập 1 nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1980 tr.14
2. Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhà Xuất Bản Sách Giáo Khoa Mác Lênin. 1978, tr. 206 - 207.
3. Đoàn Độc Thư & Xuân Huy, Giám Mục Lê Hữu Từ & Phát Diệm, 1973, tr. 125.
4. Đoàn Độc Thư & Xuân Huy, Giám Mục Lê Hữu Từ & Phát Diệm, 1973, tr. 44.
5. Những Lời Kêu Gọi của Hồ Chủ Tịch. nhà xuất bản Sự Thật, 1956 tập 1. trang 111.
6. Đoàn Độc Thư & Xuân Huy, Giám Mục Lê Hữu Từ & Phát Diệm, 1973, tr. 160 -161.
7. Thông Tấn Xã Việt Nam 7.7.1976.
8. Nguyễn Ngọc Lan. Nhật Ký 1989-1990 Tin, Paris 1993, tr. 109
9. Nguyễn Ngọc Lan. Nhật Ký 1990-1991, Tin, Paris 1993, tr. 236 - 237.
10 Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, Tập 1, Nhà Xuất Bản Sách Giáo Khoa Mác - Lênin, tr. 124.
11. Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam. Tập 1. như đã dẫn trên, tr. 254.
12. Phi Loan, Phóng sự Đại Hội Cựu Chiến Sĩ Cao Đài. Tập san Đại Đạo Phổ Thông, số 1, tháng 4 năm 1993, tr. 40-48
13. Bạch Thư về vi phạm quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam, Ủy Ban Vận Động Đòi Tự Do Tôn Giáo Tại Việt Nam, 1993, tr. 11