Các nhân vật nổi tiếng gốc Biên Hoà trong lịch sử tôi xin nhắc tên trước hết là ông Đoàn Văn Cự với nghĩa binh của cụ vùng Vĩnh Cữu, nay mả của cụ nằm trong căn cứ Long Bình; những người kế là Dương Ngạn Địch, Nguyễn Hữu Cảnh, Trịnh Hoài Đức, Trần Thượng Xuyên, Đỗ Hữu Vị là người phi công đầu tiên của Việt Nam, Đỗ Thành Nhân, rể của Võ Tánh, Đại sứ Trần Văn Chương, cha của bà Trần Lệ Xuân (bà Ngô Đình Nhu), ngôi từ đường dòng họ Trần hiện làm trường mẩu giáo chỗ dốc xuống rạp chiếu bóng Vạn Khánh Hưng... Dân biểu Biên Hoà là ông Đỗ Cao Lụa (cha của cố Đại tướng Đỗ Cao Trí, Đệ Nhất Cộng Hòa, vừa trúng cử Quốc Hội chưa kịp khai mạc thì Tổng thống Diệm bị giết); ông Đỗ Hữu Quờn là thân phụ của tôi, biệt danh anh Mười trong Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến (Đệ nhị Cộng Hòa); bà Huỳnh Ngọc Nữ (cô của Tổng Vụ Hải Ngoại Mặt trận Kháng chiến Hoàng Cơ Minh Nguyển Kim Huờn biệt hiệu là Nguyễn Kim; bà Nữ, sau là bà tám Trần Quốc Bửu, Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam) là cô của tôi, kế đó ghế Dân biểu mới lọt vô Trần Minh Nhựt, con ông sáu Vạn, cũng thuộc Cấp Tiến, và Nguyễn Thị Lý, tự Út Lý, chị của Nguyễn Văn Đồng, hiện ở Đức, bạn học hồi Tiểu học với tôi, đã chở tặng tôi 11 thiên gạch cùng anh Đỗ Cao Thanh tặng hai xe đá xanh đổ nền lúc tôi xây cất nhà. Tôi may mắn được sinh trong gia đình họ Đỗ Biên Hoà mà lại có họ hàng với Giáo Sư Huy nên rất kề cận lịch sử, nhất là tỉnh nhà Biên Hoà, nên sau này sau khi tốt nghiệp về Computer Science tại Old Dominion University, tôi mới quyết tâm học cao học Sử học tại George Mason University.
Tôi xin đi sâu vào vấn đề nhơn sự bằng bốn câu thơ mở đầu vào một vấn đề phức tạp và chắc chắn sẽ gặp nhiều vấn nạn lịch sử:
Anh có nhớ Tân Uyên quận cũ Ngậm ngùi thay ngói đổ tường xiêu Một vùng quán chợ hoang liêu Gió quê hương thổi lòng hiu hắt buồn.
Bốn câu thơ song thất lục bát trên chúng tôi không nhớ tên tác giả, được Bác sĩ Trần Nguơn Phiêu dùng để kín đáo liên lạc với giáo sư Nguyễn Ngọc Huy lúc ông còn làm trong nội các Nguyễn Văn Thiệu, những chữ trong bài thơ như "quận cũ", "ngói đỏ", "quán chợ" ông dùng để giáo sư Huy biết xuất xứ người đưa thư đặng giáo sư Huy biết trước những ma nớp của vài giới cầm quyền về Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến.
1) Bác Sĩ Trần Nguơn Phiêu:
Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu tốt nghiệp Đại Học Y Khoa Bordeaux năm 1956.
Nguyên Đại tá Y sĩ trưởng Hải Quân, nguyên Cục phó Cục Quân Y, sau ra làm Tổng trưởng Xã hội, gốc người cùng Ấp Phước Lư với tôi, làng Bình Trước, tỉnh Biên Hoà, thời chống Pháp, ông là người lén dán truyền đơn tại chợ Biên Hoà, thuở Thanh Niên Tiền Phong còn tập trận giả bằng tầm vông vạt nhọn, ông là một hội viên trong nhóm chủ trương Tao đàn Sông Phố dưới thời Pháp thuộc. Mồ côi được ông ngoại nuôi học đậu bằng Bác Sĩ. Ông hiện về hưu cư sĩ tại Amarillo, Texas. (Xin xem Phụ Lục Tâm sự Huỳnh Tấn Phát, Hồ Hữu Tường, và Trần Văn Giàu, nhà giáo của nhân dân ?, Vu Lan nhớ ngoại)
Tác phẩm đã xuất bản:
“Phan Văn Hùm, thân thế và sự nghiệp”,
nhà xuất bản Hải Mã, 2003, (P.O. Box 19543, Amarillo, Texas. 79114-9543, USA) FAX:(806)358-1821. Email:Phtran27@aol.com.
2) Châu Kim Nhân:
Ông Châu Kim Nhân làm:
Phó Tổng Thư ký Bộ Tài Chính 1965- 1966
Đổng Lý Văn Phòng Bộ Tài Chính 1966- 1967
TGĐ Cơ Quan Tiếp vận TƯ 1967- 1972
TGĐ Tài Chính và Thanh tra Quân phí Bộ Quốc phòng 1972
Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng 1972- 1973
Tổng Trưởng Tài Chánh 1973- 1974
Phụ tá Thủ Tướng Đặc trách Kinh Tế Tài Chính 1974- 1975
Ông sanh ngày 1 tháng 10 năm 1928, gốc Tân Uyên, đã từng tu nghiệp ở Anh Quốc hồi cuối năm 1963 đến đầu năm 1964. Năm 1980, ông đã có công lớn khi ông đã được nhân viên phần Việt Ngữ đài BBC, Luân đôn là Đỗ Văn tức Đỗ Doãn Quỹ trao lại từ tay nhà ngoại giao Patrick Honey, cuốn thơ mà ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện đã xông vào tòa Đại sứ Anh ở Hà Nội đã được ông đem về Mỹ vào mùa hè năm 1980, và trao độc quyền cho tạp chí Văn Nghệ Tiền phong của Nguyễn Thanh Hoàng để tìm người dịch ra tiếng Anh, cuốn thơ mà Tú Rua cho là Nguyễn Hữu Hiệu (em Viên Linh, Thượng tọa Thích Chơn Pháp) bị thiếu 3 chữ trong câu "Là tù ngục mục xương độc đoán" trong lúc sao y bản chánh, nên hắn đã nhờ ông Diệu Tô Minh điện thoại lúc 4h 30 sáng xin ông Đỗ Văn tiểu sử và trường hợp quyển thơ được tới tay Tòa Đại sứ Anh ở Hà Nội. Nguyễn Hữu Hiệu trốn quân dịch dưới áo nhà tu ở Đại Học Vạn Hạnh, ngày nay chủ trương phái Tân tăng, có quyền cưới vợ, nay chuyên nghề đồng bóng tại Virginia, từ nhà sư trở thành pháp sư; và Bùi Bảo Trúc, lén đem in để chia chác với nhan đề "Tiếng vọng từ đáy vực" bán $7, về sau ký giả Hồ Anh (Nguyễn Thanh Hoàng) cho in lại gọi là "Hoa địa ngục" chỉ bán với giá tượng trưng là $1.50, sau đem tặng không với câu quảng cáo. Tập thơ bi hùng này đã bị đánh cấp chỉ vì đó là một tuyệt tác thi ca, đó là tiếng lòng phẫn nộ, đó là một thiên hùng ca bất diệt nói lên sự bất khuất của dân tộc Việt Nam trước bầy ác thú Cộng Sản. Bùi Bảo Trúc (bút hiệu Ngụy Trúc) khiến bố là nhà giáo Bùi Bảo Vân tự Bùi Văn Bào, một nhà mô phạm chuyên viết sách giáo khoa dạy nhi đồng, bị Tú Rua tức ký giả Lê Triết chửi lây khi ông viết thơ cho báo Văn Nghệ Tiền Phong xin lỗi cho con. Sau cả hai vợ chồng Lê Triết bị ám sát ở Virginia. Bùi Bảo Trúc là người đầu tiên viết báo ăn mừng.
Quyển thơ còn bị "tai nạn" thứ hai là ngày ra mắt bị nhóm Hà Lạc Dã Thư Việt Viêm Tử Lê Tư Vinh nhận vơ là của Lý Đông A (sau lại nhận vơ chính ông là Lý Đông A), may là trước đó ông Chữ Bá Anh có tổ chức để chào mừng Nguyễn Chí Thiện đến đất tự do, tôi đã được ông Châu Kim Nhân, Trung tá Nguyễn Công Giân (anh ruột của thi sĩ Nguyễn Chí Thiện ở chung nhà) và Phó Đề đốc Đinh Mạnh Hùng xác nhận, nhóm của ông Lê Tư Vinh vì lỡ nhận bừa là cuốn thơ trên của Lý Đông A, đã cướp micro (giống Cộng sản ở Hà Nội ngày xưa) gây náo loạn tại trường Luật George Mason University, khiến cảnh sát Arlington phải giải tán buổi ra mắt.
Ông Châu Kim Nhân nổi tiếng thời Đệ Nhị Cộng Hòa là một chính khách liêm khiết giữa một môi trường dễ nhiễm vi khuẩn tham nhũng là Bộ tài chính (theo Ông Minh Võ). Có lần ông và ông Nguyễn Văn Lộc, Tổng Giám Đốc Quan thuế, hiện còn sống tại San Diego, California bắt nhóm của Nguyễn Cao Ky buôn lậu 114 ký lô vàng. Ông hiện định cư tại Tiểu bang Maryland và làm việc bán thời gian tại Đại Học Maryland.
Nhà thơ Hồ Công Tâm có bài vịnh ông sau đây:
Vịnh ông Cựu Tổng Trưởng Tài Chánh VNCH Châu Kim Nhân
Xuất xứ đôi phen chẳng bợn phàm Khinh tài trọng nghĩa, ghét gian tham! Vàng tuy hiếm quý dường xem nhẹ Nghĩa dẫu gian nan vẫn gắng làm Dương Chấn thuở xưa lòng chẳng khác Thúc Nha thời nọ thiệt đành cam Lưu vong thanh bạch nhưng cần kiệm Thất thập lai hy hữu khách tầm.
Hồ Công Tâm
(Trích tập "Tổng vịnh 100 nhân vật lịch sử VN hiện đại").
Nhà thơ Đường Sơn Đỗ Quý Sáng cũng đã làm bài Tương Biệt để đề tặng ông:
Vàng bạc biết quý mà chẳng ham Tín nghĩa biết nguy mà vẫn làm Tôi biết anh qua ba mươi năm Sống trung thực kiệm cần liêm chính Với bằng hữu hết lòng hết dạ Tương giao nào câu nệ thấp cao Tôi gặp anh chẳng vì chức vụ Mà vì nghĩa dũng anh hào Kéo nhau đi biểu tình chống giặc Đuổi những người phản chiến xôn xao Quen nhau không gởi gấm cậy nhờ Chỉ thích thú nghe những phen thử thách Nào lệnh bắt phi cơ Kỳ vàng chở lậu Lúc đòi đánh thuế Lý Long Thân Dù gặp phải chín tầng cản trở Ôi! Rất khó trong thời binh lửa Sống cho tròn người quân tử chính nhân Tôi người em nhưng lại gần đi sớm Chưa làm nên sự nghiệp vẻ vang Ba mươi năm cơ cực lang thang Trả món nợ sĩ phu người hành chánh Nay tàn lực chịu đành bó gối Thú đau thương bài thơ Hổ Nhớ Rừng Áo len tặng dành cho ngày trở gió Trút nặng nề hơi thở lúc lâm chung Để bó ấm một hình hài lạnh giá Sẽ đi xa nhưng chưa biết bao giờ.
Thân kính tặng anh Châu Kim Nhân
Northridge 9 - 95 Đỗ Quý Sáng
3) Nguyễn Ngọc Huy:
Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy sanh ngày 2 tháng 11 năm 1924 tại Chợ Lớn, chánh quán tại xã Mỹ Lộc, Tân Uyên, Biên Hoà; mất 9 giờ 30 tốì 28-7-1990 tại Paris, Pháp quốc. Tôi muốn nhắc với lòng ái mộ một bậc thầy, một chính trị gia trong sạch, xả thân tới hơi thở cuối cùng để lo việc nước, ngoài các tác phẩm đồ sộ như bộ "Dân Tộc Sinh Tồn" dưới bút hiệu Hùng Nguyên, "Quốc triều hình luật", "Bộ Hình Luật nhà Lê" tục danh luật Hồng Đức (The LÊ code: law in traditional Vietnam), "Péroistroika or the revenge of Marxism over Leninism", "Những ẩn số chính trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung", "Hàn Phi Tử","Lịch sử các học thuyết chính trị", "Hiệu đính và chú thích quyển Lục Súc Tranh Công, dịch ra Anh Ngữ cùng Giáo Sư Huỳnh Sanh Thông ở Đại học Yale, Connecticut", "Hồ chí Minh: tội phạm nhân quyền Việtnam","Biện chứng duy xạo luận", "Dân tộc hay giai cấp", "Nhận định tình hình thế giới", "Đề tài người ưu tú trong tư tưởng chính trị Trung Quốc cổ thời",... mà Giáo sư Trần Minh Xuân đã đề cập trong bảy cuốn di cảo về Giáo sư; ông còn để lại tác phẩm "Tên họ người Việt Nam", "Phê bình Nhơn Vật Tam Quốc Chí, Tây Hán Chí, Đông Châu Liệt Quốc", "Lịch sử tranh đấu cho độc lập và tự do của dân tộc Việt Nam từ giữa thế kỷ 19", "Tái thiết cơ cấu hay sự trả thù của chủ nghĩa Marx đối với chủ nghĩa Lenin" và tuyển tập thơ "Hồn Việt" có bài "Anh hùng vô danh" tôi thuộc lòng từ nhỏ trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư mà tôi không biết Đằng Phương chính là Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, ông có đề tặng những chiến sĩ vô danh tranh đấu cho Tổ Quốc:
Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông,
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước
Họ là kẻ muôn nghìn năm thuở trước
Đã phá rừng, xẻ núi, lấp đồng sâu
Và làm cho những đất cát hoang vu
Biến thành một giải san hà gấm vóc
Họ là kẻ không nài đường hiểm hóc,
Không ngại xa, hăng hái vượt trường sơn
Để âm thầm chuẩn bị giữa cô đơn
Cuộc Nam tiến mở giang sơn lớn rộng
Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng
Đã xông vào khói lửa quyết liều thân
Để bảo vệ Tự Do cho Tổ Quốc
Trong chiến đấu, không nài muôn khó nhọc
Cười hiểm nguy, bất chấp nỗi gian nan,
Người thất cơ thành thịt nát xương tan
Nhưng kẻ sống lòng son không biến chuyển.
Và đến lúc nước nhà vui thoát hiểm
Quyết khước từ lợi lộc với vinh hoa.
Họ buông gươm quay lại chốn quê nhà
Để sống lại cuộc đời trong bóng tối.
Họ là những anh hùng không tên tuổi
Trong loạn ly như giữa lúc thanh bình
Bền một lòng dũng cảm, chí hy sinh
Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch.
Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách,
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên,
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật,
Nhưng máu họ đã len vào mạch đất,
Thịt và xương trộn lẫn với non sông
Và anh hồn chung với tấm trinh trung
Đã hòa hợp làm linh hồn giống VIỆT. (NNH)
Có lần, tại đại hội chín chính đảng tại California, nhà thơ Cao Tần tức Lê tất Điều có lên ngâm bài Anh Hùng Vô Danh, và bảo là bài thơ đó của thi sĩ Đằng Phương, cử tọa đã nhao nhao hỏi Đằng Phương là ai? Ông đã cho biết là vị gíáo sư khả kính mà chúng ta vừa bầu làm Điều Hợp Viên đó.
Ỏ đây tôi muốn nhắc lại những kỷ niệm riêng tư với Giáo sư mà chúng ta không tìm thấy ở sử sách của Giáo sư Trần Minh Xuân.
Hồi nhỏ Giáo sư tuy gốc Cây Đào (còn gọi là Cây Điều), Tân Uyên, còn có tên gọi là Bến Cá, người thứ chín trong gia đình, nhưng ông lại sinh quán tại Chợ Lớn vì theo cha có việc làm tại tỉnh nhiều người Tàu. Lớn lên ông làm việc tại Thư viện Quốc gia. Ông vốn khó nuôi nên theo tục lệ Việt Nam được đặt tên là Sẩm.
Hồi Pháp ép ông nội tôi là Đỗ Hữu Tính ra làm Tổng Phước Vỉnh Thượng, ấp Phước Lư, nếu không nhận thì họ giết chú thứ Sáu và chú thứ Bảy hiện bị bắt và tra khảo trọng thương, nhốt tại phòng biệt giam tại nhà thương Biên Hoà. Bà nội lớn mất sau khi sanh người con gái thứ tám. Ông nội tôi có đi hỏi người dì ruột thứ bảy của Giáo sư Nguyển Ngọc Huy, ông cố mới trao một nhánh chiết từ cây bưởi mà ông đặt tên là cây bưởi Vô Sự, với điều kiện nếu trồng sống thì ông gả con gái cho, kết quả dì Bảy đã thành bà nội của tôi, còn tiến sĩ Liêng Khắc Văn, tốt nghiệp Ngữ Học ở Sydney, Úc châu là con người thứ Chín.
Tôi còn nhớ một lần làm tài xế đi công tác với giáo sư tại Quốc Hội Mỹ ở Washington D.C., vì chỉ có hai người với nhau, tôi mới gọi bằng chú, thường thường thì tôi gọi như các anh em khác là Gíáo sư hay Anh Ba. Ông có hỏi tôi: "Cháu thấy con cọp trước khi nhảy nó làm gì? Nó nhún. Càng nhún thấp càng nhảy cao. Ngay bây giờ cháu hãy học nhún đã. Bài học đó để đời cho nên tôi là người duy nhất tại Virginia chưa bao giờ ra mắt sách mặc dù đã có bảy tác phẩm: "Nụ hôn loài lan tím dại" (thơ,1992), "Vũ điệu loài lan tím hoang" (thơ,1994), "Hoa tím niềm riêng" (thơ,1995), "Mặt trời, lá và em" (thơ,1964), "Âm sắc thời gian" (thơ,1999), "Cho cuộc đời thường" (biên khảo,2000), "Biên Hùng Liệt Sử" (biên khảo,2001), cùng các tác phẩm đứng chung "Nỗi nhớ khôn nguôi",1994; "Quê hương nghìn dặm II", 1995; "Vườn thơ hải ngoại", 2001, "CD Tình yêu trong tiếng thơ, 1999. Chính Giáo Sư Huy đã bảo: "Cháu học chi cho nhiều mà không viết biên khảo, làm thơ để chơi thôi."
Tiến về nội, thối về ngoại. Quê ngoại lúc nào cũng gợi nhớ hình ảnh êm đềm, bao bọc của mẹ hiền. Tôi xin ghi lại bài thơ "Nắngquê ngoại" để tặng các bạn gốc gác Biên Hoà hay có giây nhợ với Tân Uyên:
"Đò dọc mé vàm ngã ba sông nhỏ
Nghe Tân Triều ngọt lịm bưởi mười lăm
Con cá vãnh quẫy đuôi đỏ trúng dầm
Trái trôm rụng vỡ tan tròn năm tháng
Cù lao Rùa gió ban trưa man mác
Phía bờ mây ruộng mía vẫy cờ lau
Con trâu già cày kéo thở phều phào
Đôi cò trắng theo sau tìm giun dế
Khi lên bờ chợt thấy chùm hoa khế
Bông li ti tim tím phủ đầy cây
Tim se thắt, tuổi trẻ lẫn đâu đây
Đâu thôn nữ yêu kiều thương hoa tím
Nụ cười xinh xinh tóc bím mân mê
Chiếc cổ trần trắng mát dốc gò mơ
Môi cắn chỉ đỏ tươi màu bưởi lựu
Vườn bên kia oằn trái thương trái nhớ
Con nhớ bưởi thanh, con nhớ bưởi đường
Bưởi nàng da láng con thương con thầm
Con thương mùi hoa bưởi dưới trăng rằm
Thương cây khế ngọt cây trâm rậm tàng
Miếng đường phổi ngoại gói ràng cho mẹ
Thấm yêu thương, phả hơi thở ngạt ngào
Trái thanh long, bưởi ổi chín vườn sau
Ươm nắng tốt, con thương hoài quê ngoại" (TTV)
Bài "Vườn cây quê nội" tôi sáng tác để nhớ nơi đã sinh ra, lớn lên và bỏ đi một cách tức tưởi:
"Phần ba thế kỷ vụt qua
Dẫu thay quốc tịch vẫn là ngoại nhân
Lạ thay quê quán xa dần
Mà như cũng đã bao lần về thăm
Mơ về thôn xóm, ao đầm
Mơ con sông nhỏ, mưa dầm mái tranh
Quên sao quên được cho đành
Gió lùa bông cỏ, chiều hanh hanh vàng
Bóng ai thấp thoáng đò ngang
Êm êm ngọn nắng trên hàng cau xanh
Măng cụt vườn cạnh bưởi thanh
Hàng tiêu lên đọt leo nhanh cột gầy
Chôm chôm tua tủa rậm dầy
Bông cau vỡ nụ mang quầy treo duyên
Sầu riêng đứng nhấm niềm riêng
Gần bên khe lạch ngã nghiêng mận đào
Nhớ ôi! Ôi nhớ làm sao
Muốn về quê nội đêm nào cũng mơ. (TTV)
Bài học xử thế thứ nhì tôi học được ở Giáo sư Huy về chính trị khi ông bảo: "Cháu có đọc chưởng không? Bên chánh cũng có tà và bên tà cũng có chánh, cái hay dở là phe chánh phải biết sử dụng kẽ chánh bên phía tà, trường hợp đại tá Bùi Tín là thí dụ, cứ đọc các tác phẩm sau này của ông đi, ta thấy là ông đã tự chắn lối về. Tại sao chúng ta lập được cả Bộ Chiêu hồi, ngày xưa khi ta đẩy bốn người qua bên kia sông Bến Hải, hết hai người là oan rồi, họ đâu có thân Cộng, nếu chúng ta không giang tay đón họ, thì họ chỉ có một con đường lựa chọn là về phía bên kia, vì con đường trốn ra ngoại quốc đâu có dễ. Bên tà giáo, bá đạo ba đầu sáu tay làm phe chánh điêu đứng, nhưng rốt cuộc lại phe chánh vẫn thắng phe tà.
Ông là người có chí lớn, và có đức Nhẫn, ngày xưa, khi còn bôn ba, ông trốn tránh Cộng Sản qua Tàu bán bánh tiêu, còn bác sĩ Hoàn đi chích dạo, sau được Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch giúp cho qua Pháp, bà Huy đã làm nghề giặt ủi nuôi ông ăn học đến đậu Tiến sĩ (luận án của ông hạng được ưu hạng của đại học Sorbonne, Paris "Mention très honorable", một trong những luận án tiến sĩ được giải thưởng xuất sắc nhất niên học 1963-1964), bà mới học lấy bằng Nữ Hộ Sinh Quốc Gia (Sage Femme d État). Sau bà tử nạn ở Vũng Tàu lúc ông đang làm Đổng lý văn phòng phủ Phó Thủ tướng đặc trách Bình Định, trong đó có Xây Dựng Nông Thôn; nhiều anh em khuyên ông tục huyền để lo chuyện đại cuộc, ông đã từ chối và ở vậy đến chết. Vừa trung với nước vừa chung tình với vợ, người mà luôn luôn đứng sau lưng sự nghiệp của ông.
Lớn tuổi, ông vẫn hiếu học, sở dĩ ông dọn nhà vào ở với Thượng tọa Thích Giác Đức ở Boston, Massachusett là để học thêm chữ Hán với ông nhà tu Tiến sĩ phái Tân tăng nầy để viết quyển "Nhơn vật Tam quốc". Tôi nhớ có lần Giáo sư tỏ ra rất thích thú như mở cờ trong bụng khi tôi tặng ông một danh sách tất cả các nhân vật trong chính quyền Trung Quốc từ lớn tới nhỏ phiên âm từ Hoa ngữ (Pinyin và Wade-Giles) ra tiếng Việt của người phụ trách phần Hoa ngữ trên đài Voice of America. Suốt đời ông chưa bao giờ có nhà riêng, có xe hơi riêng.
Hồi Bác sĩ Đoàn Văn Bá binh chủng Nhẩy dù "đặt vấn đề" với Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ khi ông bảo thế giới bây giờ nhỏ nhoi hơn trái cam, trái táo ông cầm trong tay, không còn phân biệt Quốc Cộng nữa tại buổi dạ vũ của Không Quân ở Virginia, Bác Sĩ Bá đã bị ban tổ chức đứng đầu là Bùi Hoàng Khải hành hung, và ông đã thắng kiện tại tòa án Virginia. Trước mặt giáo sư, ông có bảo Virginia đến hơn mười tờ báo mà không báo nào dám nhắc tới vụ án trên, chỉ có Binh Ba với bài "Múa gậy vườn hoang" trên tờ Diễn Đàn Thủ Đô của Đoàn Hữu Định là dám đăng thôi. Giáo sư bèn hỏi: "Anh biết Binh Ba là ai không? Người đó đang ngồi trước mặt anh đó " Tội nghiệp Binh Nhì Vũ Văn Tư tức cựu Trung Tá Cảnh Sát Dã chiến bị năm cú điện thoại hăm dọa oan. Về sau, khi Nguyễn Cao Kỳ lấy vợ Đại tá Ân, Không quân thuộc hạ của ông, và bay qua Thái Lan, cầu cạnh Tòa đại sứ Việt Cộng xin visa về Việt Nam bị đại sứ Việt cộng Lê Mai từ chối, có một phi công chán nản, hết dám bênh thầy, viết bài "Sư phụ bò bốn chân" để dũa và chối bỏ ông xếp cũ.
Hồi Giáo sư giao tôi phụ trách cái Newsletter bằng Anh ngữ của Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do ICFV (có tới 77 dân biểu hội viên khắp thế giới), có ông Shephard Lowman (nguyên đại sứ Mỹ tại Honduras) và ông cựu Đại Sứ Bùi Diễm làm chủ bút, tiến sĩ Nguyễn Bá Thư (cháu rể thầy Thích Nhất Hạnh) và vợ là Hương nhận trách nhiệm đánh máy, anh Nguyễn Thành Công và anh Đào Ngọc Thiệu phụ trách in, Nguyễn Mậu Trinh nhận phân phát cho các văn phòng Thượng Nghị Sĩ và Dân Biểu tại Quốc Hội Mỹ. Tôi một tay từ lọc tin tức Đông Nam Á mua của Bộ Thương Mại Mỹ, một tay viết Éditorial mà không được đứng tên trong ban Biên Tập; tới bây giờ tôi mới hiểu ý giáo sư Huy thế nào là chiến sĩ vô danh, và khỏi mang tiếng cùng gia đình với nhau.
Ngày 27 tháng 3 năm 1988, Giáo Sư đại diện cho Tân Đại Việt, Bùi Diễm đại diện Đại Việt Quan Lại, Hà Thúc Ký đại diện Đại Việt Cách Mạng ôm nhau khóc mừng đảng Đại Việt thống nhất dưới basement nhà ông Bùi Diễm ở Maryland, với nhan đề "Một vài nguyên tắc căn bản để tiến tới kết hợp đại gia đình Đại Việt Quốc Dân Đảng", và cũng đã thành lập một Ủy Ban Liên Lạc và Nghiên Cứu để xúc tiến công tác, trước khi tham dự biểu tình chống hồi hương cưỡng bách ở Hồng Kông tại tòa Bạch Ốc. Tôi là nhân chứng thứ tư duy nhất có mặt tại đó.
Ngày giáo sư mất đang quàn tại Paris, Pháp quốc, chúng tôi chứng kiến anh em đã "bầu" Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn làm Giám sát, tại đại hội Liên Minh Dân Chủ Thế giới Austerlitz 1989, Hòa Lan; tôi đã rươm rướm nước mắt nhìn theo ông và bà Nguyễn Tôn Hoàn dắt tay thiu thỉu về trại mà bảo với anh Thiệu: "Đó, công trình 40 năm làm cách mạng, mấy anh em được ông cất nhắc cho nên ngày nay lại hạ bệ ông, chính trị là vậy đó sao"?
Sau Đại hội, chúng tôi về chùa Linh Sơn ở Paris do thượng tọa Thích trí Tạng (Chuẩn tướng Phạm Đăng Lân) làm lễ. Cỡ 400 anh em để tang cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy.
Nhà thơ Nguyễn Mai trong Những đóa hoa tim tháng 4/1997 đã làm bài thơ "Nguyễn Ngọc Huy bất tử" để thương tiếc Giáo Sư Huy:
Người đã chết nhưng sẽ thành bất tử
Trong hồn thiêng sông núi dấu yêu
Tinh thần Người là cao đỉnh chỉ tiêu
Tận nhân lực hiến trọn đời cho Tổ Quốc
Vạn khó khăn, tim óc Người bất khuất
Bệnh hao mòn, đường vạn dặm xả thân
Là lãnh tụ anh minh, lãnh tụ vĩ nhân
Đã kết hợp bao anh hoa, hào kiệt
Người đã sống một cuộc đời dũng liệt
Học thức uyên thâm, lãnh đạo ôn hòa
Lấy xã tắc, sơn hà làm lý tưởng
Hỡi ơi! Người nằm xuống, tôi khóc Người đau đớn
Trời sao đành nỡ bắt sớm Người đi?
Trong khi lòng người đang vẳng chữ vinh qui
Khúc khải hoàn rập rờn trên đất nước
Hỡi ơi! giữa giòng đời trầm luân xuôi ngược
Kẻ bạo tàn, gian tặc cứ phây phây
Mà những đóa hoa hồng thơm ngát giữa trùng vây
Cứ tiếp nối hao mòn, tan tác rụng!
Người đã chết nhưng sẽ thành kính lộng
Người đã xa nhưng vẫn rạng bên lòng
Những anh hùng hào kiệt tấm gương chung
Soi sáng lối đi vào trang quốc sử
Đốt nén hương tâm tiếc thương người huyền sử
Cầu hồn thiêng Người phù hộ Liên Minh
Để nước Việt yêu sớm được quang vinh
Long trọng rước Người về trong lá cờ Tổ Quốc!
Nguyễn Mai
Lòng trắc ẩn và nết ăn ở có hậu, tôi có ngờ đâu sau khi dự đại hội Longview, (đúng ra ông Hoàn không còn tư cách gì để triệu tập Đại hội), tiểu bang Washington (mà Vũ Huệ gọi là "đại hội bà" vì thỉnh thoảng, bà Nguyễn Tôn Hoàn lên bàn chủ tọa, rỉ tai giật dây Thanh Long Nguyễn Tôn Hoàn); tôi đã là người duy nhất cảnh giác trước Hội nghị chính Hoàng Việt Cương, tên thật la Hà Mặc Điệp, hiện đang được Bác Sĩ Hòan ca tụng và tin dùng là điệp viên của Trung Cộng đang bị tình báo của cả hai nước Mỹ và Gia Nã Đại điều tra. Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn đã nghe lời ông Bùi Diễm và ông Hà Thúc Ký bất cứ giá nào phải loại tôi ra khỏi chức vụ Tuyên huấn và loại ra khỏi Ban chấp hành Liên Minh Dân Chủ, trong khi dược sĩ Nguyễn Mậu Trinh chưa bao giờ tuyên thệ trước bàn thờ Tổ Quốc, được dược sĩ Thái Tường cất nhắc lên làm Chủ tịch Phân Khu Bộ Virginia vì là cùng dược sĩ với nhau; Trung tá HQ Nguyễn Thành Công biết rõ đầu đuôi chuyện nầy, ông Công trước làm tùy viên Quân sự cho ông Nguyễn Văn Kiểu, anh Tổng thống Thiệu tại tòa Đại sứ Đài Loan; người cùng Đại tá Dương Hiếu Nghĩa và đại tá Nhan Minh Trang mới bị Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn khai trừ sau 5 người khác có Hoàng Việt Cương trên giấy trắng mực đen, trên báo chí, nên đã bị họ phản pháo và phủ nhận không hề biết ông Hoàn là ai? Ông Hoàn xấu hổ khi anh em bầu Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy từ Tổng Thư Ký lên làm Chủ tịch Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến thay thế Giáo Sư Nguyễn Văn Bông mà không bầu ông, nên ông hại ngầm Giáo Sư Huy và ghét lây thằng cháu, nên ông lấy cớ mỗi lần tôi qua Bỉ Quốc đều lén báo cáo cho tiến sĩ Đỗ Tấn Sĩ là đứa em thứ bảy thân Cộng của tôi, họ đã lầm vì mỗi lần qua Bỉ, tôi có giao ước qua hai đứa em gái du học ở Bruxelles, Bỉ quốc, trước 75 là Đỗ Thị Thanh Thủy và Đỗ Thị Thanh Tuyền, nói lại với Sĩ là không bàn đến chính trị khi anh em gặp nhau. Đồng thời, anh tư Nguyễn Tôn Hoàn mỗi lần đến Virginia đều đến Lockwood House thăm tên Lê Phùng Thời, trước dạy Pháp văn ở trường Lê Bá Cang, là người hồi trong bưng là đại đội trưởng, bồ của Nguyễn thị Bình, cột chèo với Lê Duẩn, Tổng bí thư cuả đảng Cộng Sản và Bảy Bốp Phạm Thái, tức là nhà báo Nguyễn Ngọc Tân. Và em của bà Hoàn tên Khải, hiện làm tại tòaTổng Lảnh Sự Việt Cộng ở Sacramento, California.
Cớ chính vì tôi là cháu Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy. Ở Hòa Lan, ông Hoàn đã ngầm loại Giáo Sư ra vì thấy ảnh hưởng của Giáo sư với đám đệ tử ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh quá mạnh, còn ông với tư cách Đảng trưởng mà không có uy tín và bất tài, làm lãnh tụ một đảng phái lớn của Quốc gia lại nghe lời đàn bà; ai ngờ anh em đã loại ông trước. Sau nầy, tôi được tin là Nguyễn Tôn Hoàn đã bị chánh thức khai trừ khỏi Đại Việt Quốc Dân Đảng trước khi chết. Ngày nay, tôi xin cám ơn họ vì họ đã cho tôi thời giờ rảnh rỗi để theo đuổi con đường văn học nghệ thuật.
Có lần giáo sư quá đau khổ vì đứa con trai Nguyễn Ngọc Thụy Khanh qua đời, Thụy Khanh được gửi cho một tướng Mỹ nuôi, khi ông ghé thăm, Khanh có đòi theo ông, ông bảo ông còn bôn ba lo việc nước, phải ráng học thành tài đi đã, ông có hứa sau nầy ông sẽ tìm cách đem về ở chung; khi ông đi rồi, Thụy Khanh đã xả gaz trong nhà xe tự quyên sinh, cái chết của Khanh đã làm ông hối hận vô cùng, Nguyễn Bá Thư có đêm đã thấy ông ngồi thiền một mình trước Phật đài ở làng Mai bên Pháp (trước tên gọi là làng Hồng). Ông vắng mặt gần ba năm.
Theo nhà văn Hải Triều hiện làm báo Việt Nam tại Canada, (bút hiệu làm thơ Lê Khắc Anh Hào), thì Giáo sư là người đứng đầu sổ chúng có lệnh giết trong số 1000 người, vì thế đứa cháu kêu Giáo sư bằng cậu ruột, là giáo chức biệt phái, đi học tập cải tạo, bị Việt cộng đóng hai chiếc đũa vào mủi xuyên óc để giết và không cho lãnh về chôn, tuy trước đây Giáo Sư Ẩn chưa bao giờ tham gia chính trị.
Có lần giáo sư hỏi thử tôi: "Cháu thích nhân vật nào nhứt trong Tam Quốc Chí". Tôi đã trả lời là tôi thích Huỳnh Cái, vì dám làm khổ nhục kế giúp Châu Do thắng Tào Tháo. Giáo sư bèn nói: "Chú hiểu bụng cháu. Còn chú thích nhất Nể Hành".
Sở dĩ tôi viết dài giòng những kỷ niệm mà tôi có với giáo sư Huy không ngoài mục đích sau này cho các nhà biên khảo muốn tìm tài liệu sẽ được dễ dãi hơn.
Giáo sư hiện còn có hai người con, một trai ở Pháp tên Nguyễn Quốc Thụy tốt nghiệp trường Polytechnique của Pháp hạng tối danh dự, làm giám đốc computer cho tổ hợp Matra của European Community mới đổi qua làm cho Công Ty Điện Nước của Chính Phủ Pháp, và ái nữ, tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thúy Tần cư ngụ tại Albany, tiểu bang New York, có chồng Mỹ gốc Do Thái, sinh được hai cháu gái. Lúc gần mất, Giáo sư có hãnh diện khoe hình đứa cháu ngoại thứ nhất cho tôi xem. Ông mất vì ung thư cổ họng (chỗ thanh quản = pomme d Adam), bác sĩ cho ông sống cỡ một năm nữa, nhưng nhờ ý chí và lòng yêu nước, ông đã kéo dài được năm năm, đau nặng vẫn tranh thủ thời gian, nói không rõ vẫn đi thuyết trình, tranh đấu tới hơi thở cuối cùng.
Nếu ông Nguyễn Văn Thiệu không phản đảng Đại Việt và không chơi trò độc diễn và độc đảng, cấm quân nhân tham gia các đảng chính trị (bằng cách lập đảng Dân Chủ do Bác sĩ Trần Minh Tùng làm Chủ tịch), thì Liên Danh của Nguyễn Ngọc Huy-Ngô Quang Trưởng (có nhà văn Duy Lam trong đó) sẽ làm ông Thiệu khốn đốn.
Tôi cũng xin nhắc tướng Ngô Quang Trưởng gốc người Bến Tre, là bạn nối khố của anh vợ tôi, Đại Úy KQ Nguyễn Quang Huy, người bị nghi Ngô Đình Diệm mưu sát, máy bay của anh cất cánh bánh không xếp quẹt vào ngọn cây mít nhào xuống gò mả, vì Ngô Đình Diệm sợ bị dội bom, cùng lúc với việc nhà văn Nhất Linh cạo đầu phản đối và tự tử vụ đàn áp Phật giáo, lúc đó ông Huy đang cặp với bà Trưởng là con Thạch Lam, trước khi chết anh có trối nhờ tướng Trưởng nuôi vợ con ông, vì thế sau này bà thành bà Ngô Quang Trưởng.
Hồi tôi du học chuyên khoa Vật Lý Trị Liệu tại Médical College of Georgia, Augusta năm 1971-1972, tôi có theo dõi báo chí, họ chỉ khen Việt Nam có 4 ông tướng sạch (four able generals), một ông bị cho là điên, cho giải ngũ ngồi chơi xơi nước là tướng Dương Văn Đức, ông thứ hai là tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư Lệnh vùng IV bị rớt trực thăng chết, ông thứ ba là tướng Phan Trọng Chinh, bị đẩy ra làm chức vụ hành chánh làTổng Cục Quân huấn, duy chỉ còn có một tướng duy nhất là tướng Ngô Quang Trưởng, lên đến chức tướng không qua một áp lực chính trị nào mà chỉ nhờ đánh giặc. Vì thế không ai lấy làm lạ khi tướng độc nhởn Do Thái Moshé Dayan và tướng Mỹ Norman Schwarzkopf viết bài trên báo Washington Post tỏ lòng khâm phục ông.
Giáo sư Huy mất vài tháng trước khi bức tường Bá Linh sụp đổ năm 1990 (tượng trưng cho chủ nghĩa Cộng Sản ở Tây Âu) mà không được thấy chủ nghĩa Cộng Sản cáo chung, mang theo cả một tâm huyết, một tài hùng biện và một lòng yêu nước vô biên, một người có tầm nhìn xa (visionary), và một nhân dáng lãnh tụ (charismatic) có tài lẫn đức hiếm hoi.
Giáo sư Stephen Young, sanh cùng ngày cùng tháng nhưng khác năm với giáo sư Huy, hiện nay đương kim khoa trưởng Luật khoa đại học Minesota, sau lễ cầu siêu 49 ngày giáo sư Huy tại chùa Giác Hoàng, Washington D.C., về nhà anh Đào Ngọc Thiệu, trước mặt ông Bùi Diễm và ông Hà Thúc Ký, ông Young đã phát biểu bằng tiếng Việt lưu loát trong ba tiếng đồng hồ là trong đời ông ông chỉ kính phục có ba người Việt Nam là Nguyễn Trãi, Phan Huy Chú và Gs Nguyễn Ngọc Huy; Nguyễn Trãi thì để lại ít tác phẩm thôi, Phan Huy Chú thì cũng hơn được vài tác phẩm, riêng Gs Nguyễn Ngọc Huy vừa là bạn ông vừa là bậc thầy của ông, Giáo Sư Young có viết chung với giáo sư Huy tác phẫm " Understand Vietnam" và tác phẩm cuối cùng bằng Anh ngữ mang tên "Limits on state power in traditional China and Vietnam", trong The Viet Nam Forum, ban nghiên cứu Đông Nam Á châu của đại học Yale, nhằm so sánh sự khác biệt nền tự do dân chủ giữa văn minh Trung Quốc và Việt Nam. Gs Huy đã không được nhìn thấy công trình cuối cùng là quyển sách đang in và bỏ dở nhiều dự án khác.
4) Trần Văn Linh:
Người thứ tư cũng quê quán Tân Uyên là thẩm phán Chủ tịch Tối Cao Pháp Viện:
Ông Linh sanh tại làng Bình Long, bên tả ngạn của sông Đồng Nai (cùng phần đất với tỉnh lỵ Biên Hoà), hồi nhỏ học ở trường làng Mỹ Lộc (hữu ngạn sông Đồng Nai) với ông Nguyễn Ngọc Hứa (thân phụ giáo sư Nguyễn Ngọc Huy) và ông giáo Huỳnh Văn Thọ (anh ruột của ông Huỳnh Văn Nghệ, lớn lên học Pétrus Ký cùng lớp với Bác Sĩ Trần Nguơn Phiêu và ông Đỗ Cao Minh), và rất thân với Đỗ Cao Trí; có lần, trong một bữa tiệc trong dinh Độc Lập, ông đã bảo Đỗ Cao Trí:" Anh chịu trách nhiệm cả vùng phải cẩn thận" vì nghe Đỗ Cao Trí đi hành quân thường đi hàng đầu với binh sĩ. Tướng Trí đã trả lời: "Tướng không xông pha thì binh sĩ sẽ không hết lòng", ông Linh là con chú bác với ông Trần Bá Thành, đời Tổng thống Ngô Đình Diệm làm Giám Đốc Công An Nam Phần, học cùng lớp ở Tân Uyên với Huỳnh Văn Nghệ, chính ông Trần Bá Thành đã điều đình với cò Bazin cho ông Huỳnh Văn Nghệ ra trình diện vì lúc đó Huỳnh Văn Nghệ theo Nhật Bổn sang Singapore chống Pháp, nhiều lần ông Huỳnh Văn Nghệ dạy thế ông anh Huỳnh Văn Thọ.(Xin xem phụ lục của ông Trần Văn Linh ở phần sau).
5) Bình Nguyên Lộc:
Cùng quê quán Tân Uyên có nhà văn nổi tiếng Bình Nguyên Lộc. Ông sinh ngày 7 tháng 3 năm 1914(theo khai sinh thì 1915) tại làng Uyên Hưng, tổng Chánh Mỹ Trung, huyện Tân Uyên, tỉnh Biên Hoà, nằm ven sông Đồng Nai. Bên kia là làng Bình Long, ngày xưa cùng thuộc một huyện, có các nhà văn Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn và ông mất vì áp huyết cao cũng nhằm ngày 7-3-1987 tại Sacramento, tiểu bang California, năm sau đó thì bà Bình Nguyên Lộc cũng qua đời vào ngày 10-10-1988;
Ông tên thật Tô Văn Tuấn, cha của Bác sĩ Tô Văn Hiệp, nguyên Giám đốc Dưỡng Trí Viện Biên Hoà, chết vì bệnh ung thư máu lúc còn rất trẻ, lúc làm giám đốc Dưỡng Trí Viện Biên Hoà Ông có nói nhiều lần trong gia đình, bút hiệu của ông là nai đồng chứ không phải đồng nai, theo Hán Việt cụm từ Bình Nguyên là Đồng, chỉ đóng vai tuồng complément déterminatif, chữ sau Lộc là lộc nai, mới là danh từ chánh yếu. Ông Bình Nguyên Lộc chủ trương nhà xuất bản Bến Nghé (1956), chủ nhiệm tuần báo Vui Sống (1958).
Bình Nguyên Lộc ở vào một số ít những nhà văn thuần chất Nam bộ, lại có vốn kiến thức sâu rộng, thử tài ở nhiều lảnh vực, không chỉ là sáng tác văn chương.
Bình Nguyên Lộc có công chú giải nhiều tác phẩm văn chương cổ điển Việt Nam như: Văn Chiêu Hồn, Tiếc thay duyên Tấn, phận Tần (Nguyễn Du), Tự Tình Khúc (Cao Bá Nhạ), Thu dạ lữ hoài ngâm (Đinh Nhật Thận)...trên các tạp chí như Văn, Bách Khoa, Hương Quê... Ông đã để lại hơn 100 tác phẩm trong đó có "Đò dọc" (59), "Gieo gió gặt bão" (59), "Ký thác" (60), "Ái ân thâu ngắn cho dài tiếc thương", "Bóng ai qua ngoài song cửa" (63), "Mối tình cuối cùng" (63), "Đừng hỏi tại sao" (65), "Mưa thu nhớ tầm (65), "Tình đất" (66), "Những bước lang thang trên hè phố gã Bình Nguyên Lộc" (66),"Một nàng hai chàng" (67), "Quán tai heo" (67), "Thầm lặng" (67), "Trăm nhớ ngàn thương"(67), "Uống lộn thuốc tiên" (67), "Đèn Cần giờ" (68), "Viễn phương" (68), "Diễm Phượng", "Sau đêm bố ráp" (68), "Cuốn rún chưa lìa" (69), "Khi Từ thức về trần" (69), "Nhìn xuân người khác" (69), "Rừng mắm" trong Tuyển tập “Ký thác “, "Câu dầm", "Bàn tay năm ngón" trong tuyển tập "Nhốt gió", "Nửa đêm Trảng Sụp", "Hoa hậu Bồ Đào", "Tuyển tập truyện ngắn Tâm trạng hồng" vv... cả các tác phẩm viết về ngữ học mang tên "Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam" (71), "Lột trần Việt Ngữ" (73), còn lại một số đã thất lạc trong hơn 500 truyện ngắn của ông, trong đó có tác phẩm "Hương gió Đồng Nai" và truyện dài "Lịch sử Phù Sa" mỗi cuốn dày hơn 1000 trang mà ông mất hơn 20 năm để viết đã bị thất lạc.
Với "Rừng mắm", ông phải mời Sơn Nam về tận quê hương Tân Uyên của ông rồi đề nghị người miền Tây chính gốc kể về quá trình sinh thành phù sa. Tiếp giáp với cửa bể là rừng mắm, đàng sau mắm là rừng tràm. Chỉ có mắm mới trụ lại giữa biển phù sa mênh mông và nhường chổ lại cho tràm khi đất đã đông lại. Sau tràm là bao loại cây trái khác. Cây mắm sinh thành và chết đi nhưng cái chết đó thật ý nghĩa. Quá trình hình thành kia có khác gì sự hy sinh của bao thế hệ mở mang bờ cõi. Một sự lý giải lịch sử con người bằng văn chương sinh động, cụ thể. Và có lẽ chỉ có cách lý giải ấy mới mong khắc sâu trong tâm não bao thế hệ cái giá của lịch sử! (theo Huy Anh - người Đồng Nai)
Tôi thích thú với câu hò trong "Rừng mắm":
Hò... ơi, rồng chầu ngoài Huế
Ngựa tế Đồng Nai
Nước sông sao cứ chảy hoài
Thương người xa xứ lạc loài đến đây.
Ông có một cuộc sống hết sức bình dị, từ cách ăn mặc đến ngôn ngữ. Ông thích ăn cá khô và thích đồ ăn nấu nướng bằng lò than củi chứ không thích nấu lò gaz.
Ông vẫn thích xài chữ miền Nam như nhà giây thép, đọc nhựt trình, sở lục lộ trường tiền, con cò dán thơ...
Mời các bạn viếng thăm tiếng thơ của Bình Nguyên Lộc, một giọng thơ đặc sệt miền nam trong bài "Dâng Má Thương":
Từ đáy thời gian dậy tiếng ru
À... ơi lời má, giọng trầm phù
Má ơi, hồn đất bao năm thiếp
Bổng chốc trưa nay vẳng tít mù
Kẽo kẹt xà nhà tiếng võng đưa
Đâu đây đồng vọng cõi xa xưa
Thổ ngơi thơm phức, hồn ma cũ
Lòng rộn vui mà mắt lệ mờ
Ngày qua năm tháng cứ trôi xuôi
Một chút nhớ xưa, thoắt ngậm ngùi.
Những ngỡ tro tàn trong bếp lạnh
Hay đâu than ngún dưới tro lùi
Ngược dòng năm tháng mấy dòng này
Những *áng tuyết xưa gợi lại đây
Gởi cả muôn phương cùng vạn nhớ...
Tân Uyên đất má, thảm vơi đầy.
*Mais où sont les neiges d antan
Đời người, đời văn Bình Nguyên Lộc như một chuyến đò. Ông từng viết Đò Dọc, tức là chuyến đò đơn chiếc, buồn lắm. Nhưng với người đọc, đời văn, đời người không hẳn là chuyến đò dọc. Ông dong ruổi trên khắp quê hương, nhận diện quê hương của mình. Vì thế, cho dù sau này, bất đắc dĩ phải xa quê. Bình Nguyên Lộc, trong cuộc đời lẫn văn chương, vẫn là chuyến đò quê nặng nghĩa thắm tình...
RỪNG MẮM
::: Bình Nguyên Lộc :::
Chim đang bay lượn bỗng đứng khựng lại, khiến thằng Cộc thích chí hết sức. Nó theo dõi con chim thầy bói ấy từ nãy đến giờ, chờ đợi cái phút nầy đây.
Thật là huyền diệu, sự đứng yên được một chỗ trên không trung, trông như là chim đang bị ai treo phơi khô ngoài sân nhà.
Chim thầy bói nghiêng đầu dòm xuống mặt rạch giây lát rồi như bị đứt dây treo, nó rơi xuống nước mau lẹ như một hòn đá nặng. Vừa đụng nước, nó lại bị bắn tung trở lên như một cục cao su bị tưng, mỏ ngậm một con cá nhỏ.
Cộc ngửa mặt lên trời để theo dõi ông câu kỳ dị và tài tình ấy nữa, nhưng mắt nó bị ngọn dừa nước bên kia bờ rạch níu lại.
Trên một tàu dừa nước, một con chim thằng chài xanh như da trời trưa tháng giêng, đang yên lặng và bền chí rình cá.
Trong thế giới bùn lầy mà thằng Cộc đang sống, ai cũng là ông câu cả, từ ông nội nó cho đến những con sinh vật nhỏ mọn qui tụ quanh các ngọn nước.
Màu xanh của chim thằng chài đẹp không có màu xanh nào sánh kịp. Sự bền chí của nó cũng chỉ có sự bền chí của các lão cò sầu não là ngang vai thôi, cái bền chí nhìn rất dễ mê, nhưng mê nhứt là mũi tên xanh bắn xuống nước nhanh như chớp, mỗi khi thằng chài trông thấy con mồi.
Thằng Cộc là một đứa bé bạc tình. Một đàn cò lông bông bay qua đó, đủ làm cho nó quên thằng chài ngay. Là vì đầu cò chởm chởm những cọng lông bông, nhắc nhở nó những kép võ hát bội gắn lông trĩ trên mão kim khôi mà nó đã mê, cách đây mấy năm, hồi gia quyến nó còn ở trên làng.
Hồi ấy nó sướng lắm. Quanh nhà nó, có hàng trăm nhà khác, có vườn cây trái, có nước ngọt quanh năm, có trẻ con để nó làm bạn, để nó đùa giỡn.
Nhưng không hiểu sao một hôm tía nó bán chiếc chòi lá đi, rồi ông nội nó, tía nó, má nó và nó, một đứa bé mười tuổi, kéo nhau xuống một chiếc xuồng cui, một thứ xuồng to mà người ta gọi là xuồng mẹ, ghe con. Rồi họ đi lang thang từ rạch hoang vắng nầy đến kinh hiu quạnh nọ, và rốt cuộc dừng bước nơi cái xó không người nầy mà ông nội nó đặt tên là xóm Ô-Heo.
Nghĩ đến những năm cũ, thằng Cộc bỗng nghe thèm người vô cùng, thèm còn hơn là thèm một trái xoài ngọt, một trái khế chua mà từ năm năm nay nó không được nếm.
Những người di cư năm nọ trên chiếc xuồng cui vẫn còn sống đủ cả. Những chiều nghi ngút sương mù từ đất lầy bốc lên, và những đêm mưa gào gió hú, những người ấy kể chuyện cho Cộc nghe, những chuyện ma rởn óc như ăn phải trái bần chua. Nhưng dầu sao, Cộc cũng thích người khác hơn, cũng như nó thích vườn tược sầm uất hơn cảnh rừng tràm tối mịt hoặc cảnh đồng không bát ngát ở đây. Ở đây, cho đến tiếng chó sủa, tiếng gà gáy nó cũng không nghe từ lâu. Con chó săn và mấy con gà giống mang theo, đã ngã lăn đùng ra mà chết ngay trong tháng mới tới. Thằng Cộc ngạc nhiên mà thấy sao người vẫn không chết trong khí hậu tàn ác nầy: nóng, ẩm, còn muỗi mòng thì quơ tay một cái là nắm được cả một nắm đầy.
Chưa bao giờ mong mỏi của Cộc được thỏa mãn mau lẹ như hôm nay. Nó vừa thèm người thì tiếng hò của ai bỗng vẳng lên trong rừng tràm, rồi tiếp theo đó là tiếng chèo khua nước:
Hò ơ... tháng ba cơm gói ra hòn, Muốn ăn trứng nhạn phải lòn hang mai.
Mũi xuồng cui ló ra khỏi khúc quanh của con rạch, và trên xuồng, chồng chèo lái, vợ ngồi không trước mũi mà hò. Cặp vợ chồng nầy, Cộc quen mặt mấy năm nay, nhưng không biết họ từ đâu đến. Nó chỉ biết họ ra biển để bắt cua và bắt ba khía, một năm mấy kỳ. Nghe tiếng người lạ nói, nhứt là tiếng hát, Cộc sướng như có lần tía nó cho nó ăn một cục đường từ nơi xa mang về.
Thà là không được ăn, chớ còn ăn một chút xíu thì cái vị của món ăn còn chọc thèm hơn bao giờ cả. Nên khi Cộc nhìn xuồng chèo khuất dạng rồi thì xây lưng tức khắc để chạy lên Ô-Heo.
Trọn vùng nầy, ông nội nó đặt tên là Ô-Heo. Nhưng riêng trong gia quyến nó thì Ô-Heo chánh hiệu là một cái gò xa ở trên kia, cách mé rạch đến hai dặm hú. Số là hồi trước, ngày đầu tới đây, ông nội nó với tía nó đi kiếm đồ ăn trong rừng, đã gặp nơi đó một ổ heo rừng. Cả ổ heo đều bị sát hại hôm đó và việc canh tác của gia quyến nó về sau nầy đã đuổi thú dữ đi xa.
Tuy nhiên, đề phòng chúng trở lại, ông nội nó đã cấm nó lên Ô-Heo một mình. Thằng Cộc lại thích lên đó, ban đầu chỉ vì Ô-Heo có sức quyến rũ của một trái cấm, nhưng về sau, nó gặp người nơi đó.
Đó là vài người đàn ông và đàn bà, nói là ở xa lắm, cách đó một ngày đường sông. Đàn ông thì đến để gác quốc, gác nhan sen, còn đàn bà thì để nhổ bồn-bồn về làm dưa bán.
Đó là những người bạn bí mật của nó, nó giữ kín không cho nhà nó biết. Họ hay kể chuyện xóm làng, chuyện đám cưới, đám ma, đám hát, đám cúng đình, tóm lại tất cả sinh hoạt của làng mạc mà từ lâu Cộc không thấy và ngậm ngùi tưởng đến như nhớ những kỷ niệm xa xôi.
Cộc chạy qua khỏi ruộng nhà và đứng lại nghỉ mệt. Nó mệt lắm vì nó chạy dưới nước và dưới bùn, mặc dầu lúa đã đến mùa gặt.