Phần lớn những luận điểm mà Lenin nêu ra trong
Nhà nước và cách mạng thực ra chỉ là
giải thích lại những quan điểm của Marx và Engels. Nếu có một cái gì có thể gọi là mới, là sáng tạo
của riêng Lenin thì đó chính là khái niệm
dân chủ vô sản. Lúc còn sống, Marx và Engels chưa hề nói đến dân chủ vô sản, mà chỉ nói đến chuyên chính vô sản. Có lẽ do chỗ hai ông đều cho rằng cách mạng vô sản chỉ có thể thành công bằng cách nổ ra đồng loạt ở những nước tiên tiến nhất, và chuyên chính vô sản chỉ là nhà nước tạm thời nên hai ông không xác định đó là một chế độ dân chủ, một nền dân chủ.
Tiến hơn một bước so với hai nhà cách mạng tiền bối, Lenin đưa ra khái niệm
dân chủ vô sản (proletarian democracy, démocratie prolétarienne) để đối lập với khái niệm
dân chủ tư sản. Khi đưa ra khái niệm này, Lenin nhằm vào những khía cạnh sau đây:
Một là, Lenin muốn làm rõ việc giai cấp vô sản, sau khi đập bỏ nhà nước tư sản, đã thay thế vào đó một cái
không phải là nhà nước theo đúng nghĩa của từ ấy nữa:
… chế độ dân chủ, từ chỗ là dân chủ tư sản đã biến thành dân chủ vô sản, từ chỗ là nhà nước (= lực lượng đặc biệt để trấn áp một giai cấp nhất định) nó biến thành một cái gì thực ra không phải là nhà nước hiểu theo nghĩa thật sự nữa. (Lenin, Nhà nước và cách mạng, sđd., tr. 68)
Hai là, Lenin muốn đối lập khái niệm
dân chủ vô sản với khái niệm
dân chủ thường dùng, mà ông gán cho cái nhãn là
dân chủ tư sản. Theo ông, dân chủ vô sản là
dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân, dân chủ cho người nghèo; còn dân chủ tư sản chỉ là
dân chủ cho một thiểu số rất nhỏ, dân chủ cho người giàu. (
Sđd, tr. 139-144)
Quan niệm này được Lenin phát triển chẳng những nhằm để chống lại giai cấp tư sản, mà còn nhằm để chống lại các nhà lý luận của Quốc tế II, như Kautsky chẳng hạn. Năm 1919, ông viết:
Chế độ dân chủ tư sản, tuy là một tiến bộ lịch sử vĩ đại so với thời trung cổ, song trước sau nó vẫn là, - và dưới chế độ tư bản nó không thể không là - một chế độ dân chủ chật hẹp, bị cắt xén, giả hiệu, giả dối, một thiên đường cho bọn giàu có, một cái cạm bẫy và một cái mồi giả dối đối với những người bị bóc lột, đối với những người nghèo. (Lenin, Cách mạng vô sản và tên phản bội Cau-xky, sđd, tr.30)
Ba là, việc đưa ra khái niệm dân chủ vô sản đối lập với khái niệm dân chủ tư sản giúp Lenin biện minh cho việc thực hiện chuyên chính đối với giai cấp bóc lột:
Đồng thời với việc mở rộng rất nhiều chế độ dân chủ – lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo, chế độ dân chủ cho nhân dân chứ không phải cho bọn nhà giàu – chuyên chính vô sản còn thực hành một loạt biện pháp hạn chế quyền tự do đối với bọn áp bức, bọn bóc lột, bọn tư bản. Chúng ta phải trấn áp bọn đó để giải phóng nhân loại khỏi chế độ nô lệ làm thuê, phải dùng bạo lực để đập tan sự phản kháng của chúng, và chỗ nào có trấn áp, có bạo lực, thì đương nhiên là chỗ đó không có tự do mà cũng không có dân chủ. (Lenin, Nhà nước và cách mạng, sđd., tr. 142)
Dân chủ vô sản không dựa trên chế độ đại nghị mà dựa trên
một nền dân chủ trực tiếp tương tự như chế độ dân chủ thời nguyên thuỷ của nhân loại. Đáp lại sự phê phán của Bernstein đối với “chủ nghĩa dân chủ nguyên thuỷ”, Lenin viết:
Cũng như tất cả bọn cơ hội chủ nghĩa, cũng như bọn Cau-xky ngày nay, Béc-stanh hoàn toàn không hiểu rằng, một là không thể nào chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mà không “trở về” ít nhiều với chủ nghĩa dân chủ “nguyên thuỷ” (vì xét đến cùng, làm thế nào khác thế được để khiến cho đa số dân chúng, hơn nữa, khiến cho toàn thể dân chúng làm được những chức năng của nhà nước?); hai là, “chủ nghĩa dân chủ nguyên thuỷ”, dựa trên cơ sở chủ nghĩa tư bản và văn hoá tư bản chủ nghĩa, không phải là chủ nghĩa dân chủ nguyên thuỷ của những thời nguyên thuỷ hoặc tiền tư bản chủ nghĩa. Văn hoá tư bản chủ nghĩa đã tạo ra nền sản xuất lớn, những công xưởng, những đường sắt, bưu chính, điện thoại,v.v…, và trên cơ sở ấy, tối đại đa số những chức năng của “chính quyền nhà nước” cũ đã được đơn giản hoá, và có thể biến thành những công việc vào sổ, ghi chép, kiểm tra đơn giản đến nỗi những chức năng ấy có thể hoàn toàn hợp với sức của hết thảy mọi người biết chữ, đến nỗi những chức năng ấy hoàn toàn có thể làm được với một số “tiền lương công nhân” thông thường, cho nên người ta có thể (và cần phải) tước bỏ tất cả mọi dấu vết đặc quyền, “cấp bậc” của những chức năng ấy đi. (Lenin, Sđd, tr.70-71)
Theo Lenin, chế độ dân chủ vô sản là chế độ dân chủ của đại đa số dân cư, của những người lao động bị bóc lột, vì vậy nó ưu việt hơn chế độ dân chủ tư sản:
Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần; chính quyền xô-viết so với nước cộng hoà tư sản dân chủ nhất thì cũng dân chủ hơn gấp triệu lần. (Lenin, Cách mạng vô sản và tên phản bội Cau-xky, sđd., tr. 39)
Với một niềm lạc quan cao độ, Lenin hoàn toàn tin tưởng rằng sau khi phá bỏ nhà nước cũ, có thể xây dựng một
nhà nước kiểu mới trong đó mọi người lao động đều có thể tham gia vào công tác hành chính, không cần đến bộ máy quan liêu (tức là bộ máy công chức). Nhà nước kiểu mới đó sẽ dần dần
tự tiêu vong khi xã hội bước vào
giai đoạn cao của xã hội cộng sản (chủ nghĩa cộng sản), tức là khi sản xuất đã phát triển đến mức có thể áp dụng nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Còn trong
giai đoạn đầu của xã hội cộng sản (chủ nghĩa xã hội), tức là giai đoạn áp dụng nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”, thì nhà nước vô sản vẫn còn tồn tại vì còn phải trấn áp thiểu số bóc lột, nhưng việc trấn áp này không khó khăn lắm và không đòi hỏi phải có một bộ máy tốn kém:
Tiếp nữa, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, sự trấn áp vẫn còn tất yếu, nhưng nó đã là sự trấn áp của đa số bị bóc lột đối với thiểu số bóc lột. Cơ quan đặc biệt, bộ máy trấn áp đặc biệt là “nhà nước” vẫn còn cần thiết, nhưng nó đã là nhà nước quá độ, mà không còn là nhà nước theo đúng nghĩa của nó nữa, vì việc đa số người hôm qua là nô lệ làm thuê trấn áp thiểu số người bóc lột, là việc tương đối dễ dàng, đơn giản, tự nhiên, nên sẽ rất ít tốn máu hơn việc trấn áp những cuộc khởi nghĩa của nô lệ, của nông nô, của công nhân làm thuê, nên, đối với nhân loại, sẽ ít tốn kém hơn nhiều. (…) Bọn bóc lột dĩ nhiên là không thể trấn áp được nhân dân, nếu không có một bộ máy trấn áp rất phức tạp để làm nhiệm vụ đó, còn nhân dân thì dầu chỉ có một “bộ máy” rất giản đơn, hầu như không cần có “bộ máy” nữa, không cần có cơ quan đặc biệt nữa, mà chỉ với tổ chức quần chúng vũ trang đơn giản (đại loại như Xô-viết đại biểu công nhân và binh sĩ, - đây là chúng tôi xin nêu trước như vậy), cũng có thể trấn áp được bọn bóc lột. (Lenin, Nhà nước và cách mạng, sđd, tr.145)
Một khi các giai cấp bị bóc lột bị trấn áp xong, vẫn còn có những đối tượng cần trấn áp, đó là
một số cá nhân có những hành vi thái quá, nhưng việc trấn áp những phần tử như vậy cũng không khó khăn gì, và cũng không ngăn cản quá trình
tự tiêu vong của nhà nước:
Chúng ta không phải là những người không tưởng, và chúng ta nhận rằng những hành vi thái quá của một số cá nhân là có thể có và không thể nào tránh được, chúng ta cũng không phủ nhận sự cần thiết phải trấn áp những hành vi thái quá ấy. Nhưng, trước hết, tuyệt nhiên không cần phải có một bộ máy đặc biệt, một bộ máy trấn áp đặc biệt để trấn áp; nhân dân vũ trang sẽ tự mình làm việc đó một cách cũng giản đơn, cũng dễ dàng như bất cứ một đám đông những người văn minh nào, ngay trong xã hội hiện nay, đứng ra can những người đánh nhau hay ngăn không cho ức hiếp phụ nữ. Thứ nữa, chúng ta biết rằng nguyên nhân xã hội sâu xa của những hành vi thái quá vi phạm quy tắc của cuộc sống chung trong xã hội, là sự bóc lột những quần chúng lâm vào cảnh thiếu thốn, cùng khổ. Một khi gạt bỏ được nguyên nhân chủ yếu ấy, thì những hành vi thái quá tất nhiên sẽ bắt đầu “tiêu vong”. Những hành vi đó tiêu vong mau chóng như thế nào, mức độ như thế nào, thì chúng ta không biết, nhưng chúng ta biết rằng chúng thế nào cũng sẽ tiêu vong. Và cùng với sự tiêu vong đó, nhà nước cũng sẽ tiêu vong theo. (Sđd, tr. 146)
Nhà nước vô sản tiêu vong tức là
chế độ dân chủ vô sản cũng tiêu vong, nhường chỗ cho một xã hội hoàn toàn không có nhà nước, trong xã hội đó “sự
tất yếu phải tuân theo những quy tắc đơn giản và cơ bản của mỗi xã hội loài người sẽ rất mau trở thành một
tập quán.”(
Sđd, tr. 164).
Như vậy, khái niệm
dân chủ vô sản thực ra là một khái niệm được nêu ra nhằm đối phó với quan điểm của những người cải cách, kể cả những người xét lại một cách triệt để như Bernstein cũng như những người có lập trường trung dung hơn như Kautsky. Lenin có ý muốn biện minh cho quan niệm
chuyên chính vô sản, cho con đường
cách mạng (đập tan hoàn toàn bộ máy nhà nước cũ để xây dựng một bộ máy nhà nước hoàn toàn mới). Cho nên nền tảng của của khái niệm “dân chủ vô sản” chính là khái niệm “chuyên chính vô sản”. Chuyên chính nhưng lại rất dân chủ, chuyên chính để có đân chủ: chuyên chính đối với thiểu số để có dân chủ đối với đa số, chuyên chính đối với giai cấp bóc lột để có dân chủ đối với giai cấp vô sản và nhân dân lao động nói chung. Chúng ta thử xét xem khi hai khái niệm đối nghịch này cùng được nhét chung vào một bị thì hậu quả sẽ như thế nào?
*Mặc dù Marx và Engels đề cao Công xã Paris, coi đó là
nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới; nhưng nhà nước này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn (72 ngày), và trong một hoàn cảnh đặc biệt (thù trong, giặc ngoài), cho nên không thể coi là một nhà nước vô sản kiểu mẫu, đúng nghĩa được. Có thể nói chính Lenin mới là người đầu tiên áp dụng
chuyên chính vô sản vào thực tế. Không chỉ đề cao khái niệm này, coi đó là tiêu chuẩn thực sự phân biệt những người mác-xít chân chính với những người giả-mác xít, ông còn tô vẽ cho nó một bộ mặt dân chủ, và chỉ đạo thực hiện mô hình đã vạch ra.
Mâu thuẫn đầu tiên mà Lenin phải giải quyết sau Cách mạng tháng Mười là mâu thuẫn giữa một bên là
quốc gia - dân tộc và một bên là
giai cấp. Khi phải chọn giữa
Quốc hội lập hiến (được bầu theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu bởi tất cả các giai cấp) và các
Xô-viết (chỉ đại biểu cho những người lao động, nghĩa là loại bỏ những tầng lớp tư sản và quý tộc), Lenin đã kiên quyết chọn các Xô-viết, nghĩa là chọn giai cấp thay vì quốc gia–dân tộc.
Trong thực tế, cuộc bầu cử Quốc hội diễn ra sau Cách mạng tháng Mười Nga đã dẫn đến kết quả là Đảng bolshevik chỉ chiếm thiểu số trong Quốc hội mới. Đảng bolshevik chỉ chiếm 175 trong tổng số 707 ghế; nếu cộng thêm 40 ghế của những người xã hội-cách mạng cánh tả (là những người ủng hộ Đảng bolshevik) thì cũng chỉ đạt 215 ghế. Trong khi đó, chỉ riêng những người xã hội-cách mạng cánh hữu đã chiếm đến 370 ghế, chưa kể đến những nhóm khác không có cảm tình với Đảng bolshevik
[1] . Những người bolshevik đặt ra kế hoạch giải tán Quốc hội như sau: họ soạn sẵn một nghị quyết lấy tên là “Tuyên ngôn về quyền của những người lao động và bị bóc lột” trong đó xác nhận việc đặt quyền lực của Quốc hội dưới quyền lực của các Xô-viết, nhằm buộc Quốc hội thông qua, nếu không được thì giải tán Quốc hội.
Ngày 18 tháng 1 năm 1918 Quốc hội lập hiến nhóm họp tại lâu đài Tauride ở Petrograd trong một bầu không khí hết sức căng thẳng. Các thuỷ thủ và vệ binh đỏ bao vây lâu đài, các phái đoàn đến chào mừng Quốc hội đều bị giải tán bằng những phát súng. Những người bolshevik có vũ trang tràn ngập các khán đài. Tuy nhiên, các đại biểu vẫn họp, và bầu Chernov – một lãnh tụ xã hội - cách mạng, làm chủ tịch. Lenin đến dự phiên họp nhưng không ngồi vào chỗ dành riêng cho ông mà nằm dài trên lối đi giữa những hàng ghế, khi thì cuời phá lên, khi lại giả vờ ngủ; sau cùng, ông đứng dậy và bỏ ra khỏi phòng họp, dành việc “kết thúc" phiên họp cho các cận vệ của ông
[2] .
Bản tuyên ngôn do những người bolshevik đề nghị bị bác bỏ, do đó những đại biểu bolshevik và các đại biểu xã hội - cách mạng ủng hộ họ rời bỏ phòng họp. Quốc hội họp đến tận buổi tối, giữa tiếng la huyên náo của đám đông bolshevik ngồi đầy các khán đài. Sau cùng, một thuỷ thủ lên diễn đàn nhắc nhở chủ tịch rằng cần phải chấm dứt phiên họp vì đội cảnh vệ “đang cần ngủ”. Quốc hội bế mạc, và không bao giờ họp trở lại được nữa.
Ngày hôm sau Ban chấp hành Trung ương các Xô-viết đã thông qua một sắc lệnh giải tán Quốc hội lập hiến. Marcel Liebman nhận xét:
Như vậy là chấm dứt giai đoạn đại nghị của lịch sử nước Nga. Nó chỉ kéo dài chưa đến 24 tiếng đồng hồ. (Marcel Liebman, Sđd, tr. 371)
Việc giải tán Quốc hội lập hiến đã bị dư luận các nước phương tây đánh giá là “một cuộc đảo chính chống lại nền dân chủ”. Nhưng nếu xét theo quan điểm
đập tan nhà nước cũ, xoá bỏ chế độ đại nghị mà Lenin đã chấp nhận trong
Nhà nước và cách mạng, thì hành động này hoàn toàn hợp lôgic.
Điều đáng nói là vấn đề này đã trở thành một lý do tranh cãi giữa những người dân chủ - xã hội và những người cộng sản. Kautsky phê bình những người bolshevik đã “thủ tiêu chế độ dân chủ mà nhân dân Nga đã giành được trong cuộc cách mạng tháng Hai năm 1917”. Ông cho rằng trước kia Lenin rất hăng hái đòi hỏi triệu tập Quốc hội lập hiến; và chỉ vì những người bolshevik chiếm thiểu số trong Quốc hội cho nên Lenin coi Xô-viết cao hơn Quốc hội và tìm cách giải tán Quốc hội. Lenin cho đó là điều bịa đặt, và trả lời rằng ông đã bác bỏ chế độ đại nghị tư sản ngay từ trước Cách mạng tháng Mười Nga:
… mọi người đều biết rằng, ngay từ ngày đầu tiên khi tôi trở về Nga, ngày 4 tháng Tư năm 1917, tôi đã đọc trước công chúng những đề cương, trong đó tôi tuyên bố rằng một nhà nước kiểu Công xã Pa-ri ưu việt hơn là nền cộng hoà đại nghị tư sản. (Lenin, Cách mạng vô sản và tên phản bội Cau-xky, sđd, tr.71)
Ông gọi Kautsky là “một kẻ vô lại đã bán mình cho giai cấp tư sản”, và đánh giá quan điểm của Kautsky về vấn đề Quốc hội lập hiến là một “quan điểm hình thức”:
Trong đề cương của tôi, tôi đã nói rõ ràng và nhắc lại nhiều lần rằng lợi ích của cách mạng cao hơn các quyền hạn hình thức của Quốc hội lập hiến (…). Quan điểm dân chủ thuần tuý hình thức chính là quan điểm của người dân chủ tư sản, là kẻ không thừa nhận rằng lợi ích của giai cấp vô sản và của cuộc đấu tranh giai cấp của vô sản cao hơn hết. (Sđd, tr.76)
Để đạt thắng lợi cho
giai cấp vô sản, Lenin đã bất chấp mọi quy tắc của nền dân chủ, mà ông coi là
dân chủ tư sản, dân chủ thuần tuý, dân chủ hình thức; đồng thời cũng bất chấp mọi thứ luật pháp, như ông đã viết:
Chuyên chính là một chính quyền dựa trực tiếp vào bạo lực và không bị một luật pháp nào hạn chế cả.
Chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản là một chính quyền do giai cấp vô sản giành được và duy trì bằng bạo lực đối với giai cấp tư sản, chính quyền không bị một luật pháp nào hạn chế cả. (Sđd, tr. 18)
Đối với Lenin, các Xô-viết đại biểu công nhân, binh lính và nông dân chính là một
nhà nước kiểu mới. Ông hy vọng qua đó tạo điều kiện cho
mọi người lao động được tham gia vào việc quản lý nhà nước, và bằng cách đó
nền dân chủ xô-viết sẽ trở thành
dân chủ gấp triệu lần so với nền dân chủ tư sản. Trong thực tế, việc phá huỷ bộ máy nhà nước cũ, xây dựng nhà nước kiểu mới không dễ dàng như Lenin đã tưởng. Vào cuối năm 1920, Lenin đã phải thừa nhận công khai rằng nước Nga xô-viết là một “Nhà nước công nhân với sự biến dạng quan liêu” (Marcel Liebman,
Sđd, tr. 399). Tại Đại hội lần thứ XI của Đảng cộng sản (b)
[3] Nga (tháng 3 năm 1922), ông đã nêu một dẫn chứng đáng kinh ngạc:
Lực lượng kinh tế mà nhà nước vô sản Nga đang nắm trong tay hoàn toàn đủ bảo đảm cho bước chuyển sang chủ nghĩa cộng sản. Như vậy thì thiếu cái gì? Rõ ràng, cái còn thiếu chính là trình độ văn hoá của những người cộng sản lãnh đạo. Nhưng nếu ta lấy Mát-xcơ-va – nghĩa là lấy 4700 đảng viên cộng sản phụ trách – và đem đối chiếu với bộ máy quan liêu, với cái khối to lớn ấy, thử hỏi ai lãnh đạo ai? Tôi rất không tin là có thể nói được rằng những người cộng sản đang lãnh đạo. Nói cho đúng ra, không phải họ lãnh đạo. Mà chính là họ bị lãnh đạo. (Lênin, "Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (b) Nga", Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Matxcơva 1978, tr. 114)
Chúng ta có thể đặt câu hỏi: tại sao gần 5 năm sau khi Cách mạng tháng Mười thành công, nghĩa là sau khi Lenin đã
đập tan bộ máy nhà nước cũ, mà vẫn còn tồn tại
bộ máy quan liêu? Và điều đáng nói là ở nhiều nơi,
bộ máy quan liêu ấy đã điều khiển Đảng cộng sản bolshevik chứ không phải ngược lại! Mặc dù Lenin đưa ra lý do là những người cộng sản thiếu trình độ văn hoá, nhưng thật ra không hẳn như vậy!
Để có thể đánh giá đúng tầm mức nghiêm trọng của vấn đề, cần phải tìm hiểu trong “Những bức thư và bài báo cuối cùng của Lenin” (Lê-nin,
Toàn tập, tập 45, tr. 391-460), tức là những gì được viết trong thời gian ông cảm thấy sức khoẻ suy kiệt, gần kề cái chết (từ 23.12.1922 đến 2.3.1923).
Trong
Thư gửi Đại hội [4] , ông thừa nhận bộ máy nhà nước Xô-viết là “một bộ máy đang còn hết sức tồi”, là “kế thừa của chế độ cũ”:
Nếu trong vòng năm năm mà chúng ta đã xây dựng được một kiểu nhà nước mới, trong đó công nhân lãnh đạo nông dân đấu tranh chống giai cấp tư sản thì như thế cũng đã tươm rồi, và trong điều kiện hoàn cảnh quốc tế thù địch thì điều ấy cũng đã là một sự nghiệp vĩ đại. Nhưng việc nhận thức rõ điều ấy tuyệt nhiên không thể làm cho chúng ta không nhìn thấy một điều là thực ra chúng ta đã tiếp thu bộ máy cũ của Nga hoàng, của giai cấp tư sản, và giờ đây, khi đã có hoà bình, những nhu cầu tối thiểu đã được bảo đảm để thoát khỏi cảnh đói khổ, thì toàn bộ hoạt động phải được hướng vào việc cải tiến bộ máy. (Sđd, tr. 397-398)
Trong lá thư
Về vấn đề dân tộc hoặc vấn đề “tự trị hoá” (ngày 30.12.1922), Lenin cũng thừa nhận bộ máy nhà nước Xô-viết là bộ máy “đã vay mượn của chế độ Nga hoàng và chỉ quét lên chút ít bằng một lớp sơn xô-viết”. Ông viết tiếp:
Còn bây giờ chúng ta cần thành thật mà nói một điều trái lại là bộ máy mà chúng ta gọi là của mình, thực ra vẫn còn hoàn toàn xa lạ với chúng ta, nó là một mớ hổ lốn tư sản và Nga hoàng; cải tạo bộ máy ấy trong vòng năm năm trong điều kiện không có sự giúp đỡ của các nước khác và trong điều kiện chúng ta chủ yếu đang bận vào những “công việc” chiến tranh và chống đói, - đó là điều hoàn toàn không thể làm được. (Sđd, tr. 408)
Ở đây ta không nói đến lời bào chữa của Lenin muốn biện hộ cho cách mạng bằng cách đổ tội cho chế độ Nga hoàng, cho chế độ tư bản,… Vấn đề đặt ra ở đây là: sau nhiều năm hô hào
đập tan bộ máy nhà nước cũ, coi đó như điều kiện tiên quyết để tiến hành cuộc cách mạng vô sản, đến lúc này Lenin lại thừa nhận bộ máy nhà nước mới là bộ máy
được tiếp thu từ bộ máy cũ của Nga hoàng, của giai cấp tư sản, chỉ có cái vỏ ngoài là mới (lớp sơn xô-viết) và đã đến lúc phải tìm cách cải tiến nó. Như vậy là ông gián tiếp thừa nhận sự thất bại trong việc
xoá bỏ bộ máy quan liêu, một trong hai thành tích của Công xã mà Marx đã từng ca ngợi.
Thành tích thứ hai của Công xã
(giải tán quân đội thường trực), khi đem áp dụng vào thực tế cũng đem lại kết quả tương tự. Năm 1917, Lenin nhận định rằng “nhân dân thì dầu chỉ có một “bộ máy” rất giản đơn, hầu như không cần có “bộ máy” nữa, không cần có cơ quan đặc biệt nữa, mà chỉ với tổ chức quần chúng vũ trang đơn giản (…) cũng có thể trấn áp được bọn bóc lột” (Lenin,
Nhà nước và cách mạng, sđd, tr.145). Trong thực tế, nhân dân tự vũ trang chỉ có thể giúp những người bolshevik thành công trong khởi nghĩa, chứ không thể bảo đảm chống lại được các lực lượng phản cách mạng trong nội chiến; vì thế, mùa hè năm 1918, quân đội thường trực được thành lập. Sắc lệnh đặc biệt về việc tổ chức Hồng quân đánh giá rằng “cần phải thành lập quân đội đó dựa trên khoa học quân sự, bằng cách tận dụng kinh nghiệm và kiến thức của những chuyên gia quân sự của quân đội cũ”.
[5] Có lẽ vào lúc này, Lenin đã thấm thía
tính chất không tưởng của những ý tưởng của Marx và Engels, nhưng lại không có đủ can đảm thừa nhận điều đó, vì thừa nhận có nghĩa là chấp nhận lập trường của phái cải cách, nghĩa là đặt vấn đề xét lại ngay chính những bài học kinh điển của Marx và Engels. Là một môn đệ quá trung thành, quá tin tưởng vào Marx và Engels cho nên ông không bao giờ dám nghĩ rằng những người thầy của mình lại có thể sai. Mặt khác, là một người rất tự cao, ông không thể nào thừa nhận sự sai lầm của mình trước các đối thủ mà ông đã chửi rủa một cách thậm tệ như Kautsky, Vandervelde,...
Việc không dám nhìn thẳng vào sự thật đó khiến cho Lenin lúng túng về mặt lý luận. Điều này bộc lộ ngay trong đề án mà ông dồn hết tâm huyết và sức lực cuối cùng để gửi Đại hội Đảng lần thứ XII, được trình bày qua hai bài viết cuối cùng:
Chúng ta phải cải tổ Bộ dân uỷ Thanh tra Công nông như thế nào? (23.1.1923) và
Thà ít mà tốt (2.3.1923) (Lenin,
Toàn tập, tập 45, sđd, tr.435-460).
Trong hai bài viết nói trên, Lenin đề nghị “mở một cuộc thi soạn hai cuốn sách giáo khoa, hoặc nhiều hơn nữa, viết về tổ chức công tác nói chung, và đặc biệt là về công tác quản lý”. Ông nêu ví dụ về hai cuốn sách của Ec-man-xki và Kéc-gien-txép, là những cuốn sách nói về phương pháp Taylor, với hy vọng sử dụng những kinh nghiệm đó của chủ nghĩa tư bản để cải tiến lề lối làm việc của các cơ quan nhà nước. Ông còn đề nghị “cử một vài người có năng lực và tận tâm sang Đức hay sang Anh để sưu tầm tài liệu và nghiên cứu vấn đề”, thậm chí “sang Mỹ hay Canada”.
Nhưng điều khó khăn hơn hết là ở chỗ: chính quyền xô-viết, xét về bản chất vẫn là bộ máy nhà nước kiểu cũ, nhưng nó lại được lãnh đạo bởi Đảng cộng sản bolshevik Nga. Có thể nói nó là một sự hỗn hợp giữa
bộ máy quan liêu của Nga hoàng, của Kerensky với
bộ máy của Đảng cộng sản bolshevik Nga, và được hướng dẫn về lý thuyết bởi
chủ nghĩa Marx. Nếu chỉ cải tiến lề lối làm việc của bộ máy nhà nước bằng cách dựa vào kinh nghiệm của các nước tư bản thì vẫn không thể giải quyết được vấn đề, vì
nguy cơ lớn nhất nằm ngay trong cơ quan đầu não của Đảng, như Lenin đã cảnh báo trong
Thư gửi Đại hội.
Để giải quyết được mâu thuẫn nói trên, Lenin đề nghị cải tiến bộ máy nhà nước (và của đảng) bằng cách “hợp nhất một cách độc đáo bộ máy kiểm tra của đảng với bộ máy kiểm tra của chính quyền”. Bộ máy kiểm tra của đảng tức là Ban kiểm tra Trung ương. Lenin hy vọng rằng Ban kiểm tra trung ương (với khoảng từ 75 đến 100 uỷ viên mới được lựa chọn từ công nhân và nông dân) sẽ góp phần chấn chỉnh lại Đảng bolshevik đang có nguy cơ bị chia rẽ:
Và những uỷ viên Ban kiểm tra trung ương có nhiệm vụ tham dự, với một số lượng nhất định, vào mỗi phiên họp của Bộ chính trị, sẽ phải là một nhóm cố kết, nó, “không được vị nể cá nhân”, phải giữ gìn sao cho không một quyền uy nào của Tổng bí thư hay là của một uỷ viên nào trong Ban chấp hành trung ương có thể ngăn cản mình chất vấn, kiểm tra các hồ sơ, và nói chung, nắm được tình hình hết sức rõ ràng và xử lý mọi việc hết sức đúng đắn. (Sđd, tr. 440)
Mặt khác, bằng cách kết kợp Ban kiểm tra trung ương của đảng với Bộ dân uỷ thanh tra công nông của nhà nước (gồm khoảng 300-400 nhân viên được lựa chọn cẩn thận), Lenin hy vọng dùng quyền lực của Đảng để nâng cao uy tín của Bộ dân uỷ này. Với kinh nghiệm học được từ các nước tư bản, Bộ này sẽ cải tiến được bộ máy của nước Nga xô-viết, sẽ góp phần chống được chủ nghĩa quan liêu, bởi vì “bọn quan liêu ấy đang tồn tại không những trong các cơ quan xô-viết mà cả trong các cơ quan đảng nữa” (
Sđd, tr. 451).
Có một chi tiết đáng nêu ra ở đây: đó là việc trả lương cho các viên chức Nhà nước
ngang với mức tiền lương của công nhân. Như chúng ta đã biết, đây là một trong hai biện pháp chống quan liêu của Công xã mà Engels đã đề cao là rất hữu hiệu. Trong
Nhà nước và cách mạng, Lenin đã nhiệt liệt bênh vực cho biện pháp này, chống lại ý kiến của Bernstein. Nhưng trong đề án về việc cải tổ Bộ dân uỷ thanh tra công nông, ông lại đề nghị như sau:
Theo kế hoạch của tôi thì số 300 đến 400 nhân viên của Bộ dân uỷ thanh tra công nông hiện còn lại, một mặt sẽ làm nhiệm vụ thư ký cho những uỷ viên khác trong Bộ dân uỷ thanh tra công nông cũng như cho những uỷ viên mới của Ban kiểm tra trung ương; mặt khác, họ sẽ phải có khả năng công tác cao, phải được thanh tra một cách cẩn thận, phải là người đặc biệt tin cẩn, và sẽ được hưởng lương cao giúp cho họ thoát khỏi hoàn cảnh thật sự là khốn khổ (nếu không phải là hơn thế) như hoàn cảnh hiện thời của những viên chức trong Bộ dân uỷ thanh tra công nông (Sđd, tr. 438).
Điều đó có nghĩa là Lenin bắt đầu thấy rõ việc trả lương cho viên chức nhà nước ngang với lương công nhân cũng tỏ ra là một biện pháp
không tưởng.
Thực tế lịch sử của Liên Xô sau khi Lenin mất đã chứng minh rằng đề án mà ông đề nghị với Đại hội XII (về việc cải tổ Bộ dân uỷ thanh tra công nông) là một dự án không có hiệu quả. Lenin muốn ngăn ngừa sự chia rẽ trong Đảng, nhưng sự chia rẽ giữa Stalin và Trotsky mà ông nhìn thấy trước, vẫn diễn ra theo một chiều hướng còn vượt quá sự tưởng tượng của chính ông: chẳng những loại bỏ Trotsky, Stalin còn lần lượt loại bỏ hầu hết những nhà lãnh đạo của Đảng bolshevik thuộc thế hệ đầu tiên như: Zinoviev, Kamenev, Bukharin, nguyên soái Tukhachevsky...; đó là chưa kể đến sự thanh trừng tàn nhẫn đối với chính những thuộc hạ của ông
[6] .
Việc xoá bỏ những nguyên tắc của chế độ đại nghị, việc thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ đã tước mất của chế độ dân chủ vô sản cái khả năng ngăn chặn xu hướng chuyên chính hoá, quan liêu hoá. Có thể nói sự thất bại của Lenin và Đảng cộng sản bolshevik Nga trong việc
xoá bỏ bộ máy nhà nước cũ, xây dựng bộ máy nhà nước kiểu mới trong thực tế đã làm cho chuyên chính vô sản ngày càng biến dạng, ngày càng không giống với những hình ảnh đẹp đẽ mà Marx và Engels đã vẽ ra bằng trí tưởng tượng phong phú của hai ông.
[1]Marcel Liebman, "La révolution russe", collection
Marabout université, Ed. Gérard & C°, Verviers-Belgique, 1967, tr. 368.
[2]Lénine,
La révolution bolchéviste, Petite bibliothèque Payot, Paris 1963, tr. 26.
[3](b): viết tắt của chữ bolshevik.
[4]Thường được gọi là “Di chúc của Lenin”.
[5]Histoire de l’U.R.S.S., Editions du Progrès, Moscou, 1977, tr. 82.
[6]Theo tiết lộ của Khrushchev, trên tổng số gần 2000 đại biểu dự Đại hội lần thứ XVII (năm 1934) của ĐCSLX (một đại hội thể hiện sự chiến thắng hoàn toàn của phe Stalin), gần 60% đã bị bắt giam vì những tội phản cách mạng, chủ yếu trong những năm 1937-1938. Cũng trong thời gian thanh trừng nói trên, trong tổng số 130 uỷ viên Ban chấp hành trung ương được bầu, 98 người (nghĩa là 70%) bị bắt và bị hành quyết (Isaac Deutscher,
Staline, Gallimard, Paris 1964, tr. 689; Raymond Aron, "Démocratie et totalitarisme", Collection
Idées, Gallimard, Paris 1965, tr. 278-279).