Tôi rất muốn học viết chữ. Tôi biết đọc, nhưng chỉ đọc được những chữ in. Tôi không hiểu được chữ viết tay, vì tôi chỉ đọc chữ bằng cách đọc báo. Nhưng tôi cũng hay vấp phải những chữ khó. Mỗi lần như thế, tôi hỏi hai đứa con gái tôi.
Thoạt đầu ông Kaiser và Jacqueline đã thử dậy tôi một vài khái niêm cơ bản. Tôi muốn học để được như những người khác. Vào khoảng hai mươi bốn tuổi tôi bắt đầu đi làm, tôi có thể theo học một khóa ba tháng. Tôi rất vui. Cũng thật khó khăn vì tiền học mà tôi phải đóng cao hơn tiền lương của tôi. Antonio liền bảo tôi: “Không sao, anh có thể giúp em”. Tôi trả lời: “Không. Em muốn tự mình lo tiền học.”
Tôi muốn tự mình làm được việc đó, với tiền tôi kiếm ra. Sau ba tháng, tôi phải dừng việc học nhưng khóa học đó đã giúp tôi rất nhiều. Người ta đã đã dạy tôi cầm bút chì như dạy một đứa trẻ mẫu giáo và tôi viết tên tôi. Tôi không biết làm sao để viết chữ a, chữ s, tôi không biết gì cả. Vì vậy tôi học bảng chữ cái, chữ này tiếp theo chữ kia và đồng thời học luôn ngôn ngữ. Sau ba tháng đó, tôi mò mẫm đọc được vài chữ trên báo.
Thế là tôi bắt đầu đọc mục tử vi vì có ai đó nói tôi thuộc cung Thiên Xứng! Ngày nào tôi cũng giải mã tương lai của tôi. Những điều tôi hiểu thường không được rõ ràng nhưng đầu tiên tôi cần đọc những mẩu tin ngắn và những câu không quá dài. Trong những mẩu tin ngắn cũng có những đoạn tin cáo phó. Chưa có ai đọc kỹ những đoạn ấy như tôi! “Gia đình X vô cùng thương tiếc báo tin: Bà X đã từ trần. Cầu xin linh hồn bà được yên nghỉ!"
Tôi cũng đọc cả những dòng tin rao vặt tìm đối tượng hôn nhân, bán xe nhưng chỉ ít lâu sau tôi bỏ không đọc nữa vì tôi không hiểu nghĩa của những chữ viết tắt. Tôi muốn đặt mua dài hạn một tờ báo bình dân nhưng Antonio lại cho rằng điều đó thật ngốc nghếch và lố bịch… Thành thử mỗi ngày, trước khi đi làm, tôi xuống phố và tôi vừa uống cà phê vừa đọc báo. Tôi rất thích quãng thời gian đó. Đối với tôi, đó là thời điểm tốt nhất để học. Và dần dần, khi mọi người xung quanh bàn tán về sự kiện nào đó, tôi có thể trả lời rằng tôi đã biết, tôi đã được đọc trên báo. Mọi người đi du lịch, đi đây đi đó, nhắc đến biển, nhà hàng, khách sạn, bãi biển. Họ nói đến toàn thế giới và trước kia tôi không thể góp chuyện với họ về những điều đó. Nhưng bây giờ thì tôi có thể.
Tôi đã biết đôi chút về địa lý châu Âu, biết các thủ đô lớn và vài thành phố nhỏ. Tôi đã nhìn thấy Rome, Vanise và Portofino. Đến Tây Ban Nha, tôi đến thăm Barceloe với bố mẹ nuôi của tôi, nhưng tôi chỉ ở đấy năm ngày.
Đó là những ngày đi nghỉ trong dịp hè. Trời rất nóng và tôi có cảm tưởng làm cho bố mẹ nuôi không được ra bãi biển và bắt họ phải ru rú trong phòng như tôi. Vì thế, tôi quay về và họ ở lại. Đối với tôi, một bộ áo tắm, đó là một thứ khó có thể nghĩ đến. Muốn mặc thì phải kèm theo điều kiện chỉ có mình tôi trên bãi biển như những lúc tôi ở trong phòng tắm.
Tôi biết khá ít về thế giới. Tôi biết đó là một quả cầu tròn nhưng không ai dạy cho tôi biết về nó. Chẳng hạn tôi biết Hoa Kỳ, đó là châu Mỹ nhưng tôi không biết châu Mỹ là ở đâu trên quả cầu tròn. Ngay đến miền Cisjordanie tôi cũng không xác định được vị trí của nó.
Tôi đã thử xem sách địa lý của các con tôi, nhưng tôi không biết phải bắt đầu từ đâu để tưởng tượng ra tất cả các nước. Tôi không xác định được khoảng cách. Chẳng hạn nếu có ai đó hỏi tôi: “Chúng ta hẹn nhau ở chỗ cách nhà chị năm trăm mét”, tôi cũng không thể xác định được khoảng cách năm trăm mét ấy trong đầu. Tôi vẫn phải lấy một con đường hay một cửa hàng quen thuộc nào đấy làm mốc để tìm phương hướng. Thành thử tôi không thể tưởng tượng ra cả thế giới. Tôi xem dự báo khí tượng quốc tế trên truyền hình và tôi thử ghi nhớ để xem Madrid, Paris, Luân Đôn, Beirus và Tel–Aviv nằm ở đâu.
Tôi nhớ có lần đi làm việc với cha tôi gần Tel–Aviv. Hồi ấy tôi còn bé lắm, chỉ khoảng mười tuổi. Chúng tôi được đưa lên đấy để thu hoạch súp lơ. Để đổi công cho một người hàng xóm đã giúp chúng tôi gặt lúa mì ngoài ruộng. Có một hàng rào bảo vệ chúng tôi trước những người Do Thái vì khi ấy, chúng tôi gần như ở trên đất của họ. Và tôi nghĩ chỉ cần bước qua đoạn hàng rào chắn ấy là biến thành người Do Thái nên tôi sợ. Những kỷ niệm còn lại từ thời thơ ấu của tôi đều có liên quan đến nỗi sợ, tôi thấy rõ như vậy.
Người ta đã dạy tôi không nên đến gần người Do Thái vì đó là những người halouf, là những “con lợn”. Thậm chí không được phép nhìn họ. Đối với chúng tôi, thật là kinh khủng khi phải đứng đấy, đứng quá gần bọn họ. họ. Họ ăn uống khác chúng tôi, họ sống khác chúng tôi. Không thể so sánh họ với chúng tôi, chúng tôi khác họ như ngày khác đêm, như len khác lụa. Tôi đã được dạy những chuyện như vậy. Người Do Thái là len, người Hồi giáo là lụa. Tôi không thể hiểu tại sao người ta lại nhồi những thứ đó vào đầu tôi nhưng ngoài những thứ đó ra, không có điều nào khác để nghĩ đến. Mỗi khi nhìn thấy một người Do Thái ngoài đường – thực ra họ hầu như không bao giờ đi ra đường cả – lập tức có những vụ xô sát bằng đá hay than củi. Nhất là không nên đến gần họ hay đến nói chuyện với họ, nếu không sẽ bị biến thành Do Thái giống họ! Lẽ ra tôi nên biết những rằng đó là những điều ngớ ngẩn. Những người đó không hề làm hại gì đến tôi! Chẳng hạn, trong khu phố tôi có một cửa hàng thịt rất đẹp của người Do Thái. Thịt ở đấy ngon nhất, tôi đã ăn rồi, nhưng tôi không dám đi vào đấy một mình để mua thịt. Thế là tôi đến cửa hàng của người Tunisie chỉ vì người ấy là người Tunisie. Tại sao? Tôi cũng không biết. Tôi thường tự nhủ: “Souad, mày cứ đến đấy và mua thứ thịt ngon ở đấy đi, đó cũng là thịt như những loại khác thôi!”
Tôi biết rằng một ngày nào đó tôi sẽ đến đấy. Nhưng tôi vẫn sợ. Khi còn ở đất nước tôi, tôi đã nghe quá nhiều lời khuyên răn là không nên có bất kỳ sự tiếp xúc nào với họ mà xem như họ không có mặt trên mặt đất này. Do đó còn hơn cả sự thù hằn. Đó là kẻ thù tồi tệ nhất của người Hồi giáo.
Tôi sinh ra là người Hồi giáo và tôi luôn tin ở Đấng Tối cao, tôi mãi mãi là người Hồi giáo nhưng hiện nay, tôi chẳng còn giữ nhiều phong tục của ngôi làng cũ. Và tôi không thích chiến tranh, tôi ghét bạo lực. Nếu có ai trách tôi điều gì, chẳng hạn phủ nhận tôi giáo của tôi bằng cách nói những điều không hay về những người đàn ông ở xứ tôi – việc này từng xảy đến với tôi – thì thay vì kháng cự tôi nói, tôi tranh luận, tôi cố thuyết phục người ấy bằng cách buộc họ phải nghe tôi nói để giúp họ hiểu những điều mà họ chưa hiểu.
Mẹ tôi vẫn đánh nhau với các bà hàng xóm. Bà nhặt đá để ném vào họ hoặc giật tóc họ. Ở làng tôi, mỗi khi đánh nhau, họ túm tóc nhau và giật. Còn tôi, tôi nấp sau cánh cửa, trong lò nướng bánh hoặc trong chuồng gia súc cùng với đàn cừu. Tôi không muốn nhìn thấy cảnh đó.
Tôi muốn học tất cả những gì mà tôi chưa biết. Hiểu những khác biệt trên thế giới và tôi hy vọng rằng, ở đây, các con tôi sẽ biết tận dụng những cơ hội của chúng. Chính nỗi bất hạnh của tôi đã ban cho chúng những may mắn đó, chính số phận đã giúp chúng tránh khỏi những bạo lực ở đất nước tôi, những vụ ném đá, khỏi dã tâm của cánh đàn ông. Tôi không muốn người ta nhồi vào đầu chúng những thứ người ta đã nhồi vào đầu tôi, những thứ mà phải khó khăn lắm tôi mới vứt bỏ được. Tôi đã cố suy nghĩ về điều đó và tôi nhận ra rằng nếu có ai bảo tôi là mắt tôi màu xanh mà không đưa cho tôi chiếc gương thì suốt đời tôi sẽ tin hai mắt mình màu xanh. Chiếc gương tượng trưng cho văn hóa, giáo dục, sự hiểu biết về chính mình và người khác. Nếu tôi soi gương chẳng hạn, tôi sẽ nhủ thầm: “Sao mình lại thấp bé thế không biết!”
Nếu không có chiếc gương, tôi sẽ bước đi mà không biết đến điều đó, trừ phi tôi đi bên cạnh một gã cao lớn hơn tôi. Và tôi sẽ nghĩ về gã cao lớn đó nếu gã cũng bước đi mà không biết mình cao lớn?
Tôi bắt đầu nhận thấy rằng tôi không biết gì về người Do Thái, rằng tôi đã không được học lịch sử của họ và nếu tôi cứ tiếp tục như thế thì chính tôi cũng sẽ bảo với các con tôi rằng người Do Thái là halouf! Và thay vì truyền cho chúng vốn hiểu biết và khả năng tư duy, tôi sẽ chỉ dạy cho chúng những điều ngớ ngẩn.
Một hôm Antoni nói với Laetitia:
“Bố không muốn sau này con thành hôn với một người Ả Rập.
– Tại sao thế, hả bố? Người Ả Rập cũng như bố, như bất cứ người nào khác, như tất cả mọi người.”
Tôi liền bảo Antonio: “Người Ả Rập, người Do Thái, người Tây Ban Nha, người Ý đều được cả…. điều quan trọng nhất là bọn trẻ được chọn người mà chúng yêu thương và được hạnh phúc. Bởi vì trước kia em không hề được hạnh phúc.”
Tôi yêu Antonio, nhưng tôi không hiểu tại sao anh ấy lại yêu tôi và tôi không bao giờ có đủ can đảm để hỏi anh điều đó, hay nói với anh: “Anh hãy nhìn em đi, em từ đâu đến và bây giờ em như thế nào. Em đã bị thiêu sống, tại sao anh có thể thích em trong khi quanh đây có bao người phụ nữ khác?”
Tôi không tự tin. Đôi khi tôi tự nhủ: “Lạ thật, nếu anh ấy tìm đến người phụ nữ khác, mình sẽ làm thế nào?”
Điều đó thậm chí còn rất lạ thường. Mỗi lần nói chuyện điện thoại với anh, tôi thưởng hỏi một câu: “Anh đang ở đâu, anh yêu?” Và khi nghe anh trả lời là anh đang ở nhà thì tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Lúc nào trong lòng tôi cũng sợ. Sợ bị bỏ rơi, sợ người đàn ông không quay về. Sợ phải một mình chờ đợi trong khắc khoải như trước kia tôi từng chờ đợi cha của Marouan.
Thời gian gần đây, tôi đã nhiều lần nằm mơ thấy Antonio ở bên một người phụ nữ khác.
Lại thêm một cơn ác mộng nữa. Nó bắt đầu kể từ hai ngày sau khi tôi sinh bé Nadia, đứa con gái thứ hai, Antonio ở bên một người phụ nữ khác. Họ khoác tay nhau dạo bước trên phố. Và tôi nói với Laetitia: “Con mau gọi bố về đi!” Còn tôi, tôi không dám đi. Và con gái tôi đã kéo vạt áo của bố nó: “Không, bố ạ! Bố đừng đi với bà ấy! Bố về đi!” Nó phải đưa bố nó về phía tôi và kéo hết sức nó có thể. Cơn ác mộng ấy không chấm dứt. Tôi không bao giờ biết được Antonio có trở lại hay không. Lần mới đây nhất, tôi tỉnh dậy lúc ba giờ sáng và không nhìn thayAntonio đâu. Tôi bật dậy, anh không ngồi trên chiếc ghế quen thuộc của mình, vô tuyến không bật. Tôi chạy ùa ra cửa sổ để xem xe anh có còn đỗ dưới đường không, trước khi nhận thấy có ánh đèn trong phòng làm việc, anh đang làm việc của công ty.
Tôi rất muốn được thanh thản và không bị những cơn ác mộng kia ám ảnh nữa! Những tình cảm của tôi không bao giờ yên: xúc động, lo sợ, bất ổn, ghen tuông, day dứt thường trực về cuộc đời. Có cái gì đó đang đổ vỡ trong tôi mà mọi người không nhận thấy vì lúc nào tôi cũng mỉm cười để tỏ ra lịch sự và kính trọng người khác.
Nhưng khi tôi nhìn thấy một người phụ nữ đẹp với mái tóc đẹp, đôi chân đẹp và làn da đẹp đi qua… Khi mùa hè đến, mùa của bể bơi và những bộ quần áo mỏng và ngắn…
Tôi mở tủ: trong tủ đầy ắp những bộ quần áo cài kín cổ. Tuy nhiên, tôi cũng mua mấy thứ quần áo khác, những chiếc váy rộng cổ, những chiếc áo sơ mi không tay. Để thỏa mãn chính mình. Nhưng tôi chỉ có thể mặc chúng cùng với áo khoác, chiếc áo khoác đó cũng cài kín cổ. Một lớp da khác của tôi….
Cứ mỗi khi hè đến, tôi lại đâm ra bực dọc. Tôi biết bể bơi mở cửa ngày mùng 6 tháng Năm và đóng cửa ngày mùng 6 tháng Chín, điều đó làm tôi phát điên lên. Tôi muốn trời đổ mưa và nhiệt độ không bao giờ lên quá hai mươi lăm độ. Tôi hóa ra ích kỷ nhưng không sao cưỡng được. Những khi trời nóng quá, tôi chỉ đi ra phố thật sớm vào buổi sáng hoặc thật muộn vào buổi tối. Tôi theo dõi dự báo thời tiết và có lúc đã buột miệng nói to lên: “Càng tốt, ngày mai thời tiết sẽ xấu.” Các con tôi phải kêu lên:
“Những điều mẹ nói thật độc ác! Chúng con muốn đến bể bơi cơ!”
Khi nhiệt độ bên ngoài lên đến ba mươi độ, tôi nằm lỳ trong phòng. Tôi khóa cửa và tôi khóc. Nếu tôi đủ can đảm đi ra ngoài với hai lớp quần áo, một lớp để khoe cho mọi người thấy, một lớp để che thân, thì tôi lại sợ những người qua đường. Họ có biết tôi như thế nào không? Họ có tự hỏi tại sao mùa hè mà tôi vẫn mặc như mùa đông hay không?
Tôi thích mùa thu, mùa đông và mùa xuân. Tôi có may mắn được sống ở một đất nước mà một năm chỉ có ba hay bốn tháng nắng nóng. Tôi không thể sống ngoài nắng nóng mặc dù tôi được sinh ra ở một nơi có nhiều nắng. Tôi đã quên nơi ấy, đã quên những giờ phút mà mặt trời vàng rực thiếu đốt mặt đất, những giờ phút mà mặt trời chuyển màu vàng nhạt trên nền trời xanh xám trước khi lặn xuống. Tôi không muốn có mặt trời.
Đôi khi, tôi nhìn bể bơi bên ngoài tòa nhà và tôi ghét nó. Khổ cho tôi là người ta đã xây bể bơi này để phục vụ người dân trong khu tập thể.
Chính nó đã khiến tôi rơi vào tình trạng suy sụp tinh thần đáng nguyền rủa này.
o0o
Tôi đã bốn mươi tuổi. Mùa hè vừa chớm bắt đầu, một tháng Sáu báo hiệu mùa hè nhiều nắng nóng. Tôi vừa xuống nhà mua đồ và trở lại đứng bên cửa sổ, nhìn những phụ nữ gần như khỏa thân trong bộ đồ của họ. họ. Một trong những hàng xóm của tôi, một cô gái xinh đẹp, mặc bikini hai mảnh đang từ bể bơi về nhà, chân trần, chiếc váy quấn vắt trên vai, người bạn trai để lưng trần đi bên cạnh. Tôi chỉ có một mình, ru rú trong phòng, bị ám ảnh bởi ý nghĩ tôi không thể làm như họ. Thực không công bằng, trời nóng như thế kia. Thế là tôi mở toang của tủ và tôi tìm. Tôi bày không biết bao nhiêu quần áo trên giường trước khi tìm được một cái gì đó trông có vẻ hợp lý nhất, và tôi luôn cảm thấy làn da của mình không ổn. Áo tay ngắn ở bên trong, thêm một chiếc áo sơ mi khác khoác bên ngoài. Nóng quá. Tôi không thể mặc một chiếc sơ mi quá mỏng dù cài hết cúc cổ, tôi không thể. Tôi cũng không thể mặc váy ngắn vì đôi chân tôi đã nhiều lần bị lấy da cho cuộc phẫu thuật ghép da trước đây. Áo hở ngực, áo tay ngắn tôi không thể mặc vì những vết sẹo. Tất cả những thứ tôi bày ra trên giường đều là những thứ “tôi không thể mặc”.
Cả người tôi mồ hôi vã ra như tắm, mọi thứ dính chặt vào da tôi.
Tôi nằm trên giường và tôi bắt đầu khóc thật nhiều. Tôi không bị cái nóng này giam cầm mãi, trong khi những người khác đang ở bên ngoài, hoàn toàn tự do để lộ làn do họ. Tôi có thể khóc chừng nào tôi muốn, muốn, tôi chỉ có một mình, các con tôi đang học trong ngôi trường nằm đối diện với tòa nhà. Sau đó, tôi soi vào tấm gương trong phòng ngủ và tự nhủ: “Mày hãy nhìn mày đi! Tại sao mày lại ở đây chứ? Mày không thể cùng gia đình tới bãi biển? Dù cho mày có đi ra đó, mày cũng khiến cả gia đình không được hưởng cái thú ngâm mình dưới nước mà phải quay về vì mày. Laetitia và Nadia đang đi học nhưng khi về đến nhà, chúng sẽ muốn ra bể bơi. May mắn cho chúng là chúng có quyền làm thế, chứ mày thì không! Mày cũng không được ngồi trong nhà hàng của bể bơi để uống một tách cà phê, một ly nước chanh, vì mày sợ bị người khác nhìn thấy. Mày mặc quần áo kín mít từ đầu đến chân, họ sẽ nói rằng giờ đang là mùa đông và bể bơi, trời lạnh đến mười độ. Người ta sẽ bảo mày là một mụ điên! Mày không được tích sự gì cả. Mày ở đây mà cũng như không hề có mặt ở đây. Mày là một món đồ bị giam cầm trong nhà.”
Thế rồi tôi đi vào phòng tắm, tôi lấy lọ thuốc ngủ mua không theo đơn của bác sĩ ở một cửa hàng dược phẩm vì tôi mắc chứng khó ngủ. Quá nhiều thứ đang nhảy múa trong đầu tôi. Tôi trút sạch lọ thuốc ra và tôi đếm. Có tất cả mười chín viên và tôi nuốt hết.
Mấy phút sau, tôi cảm thấy trong người thật lạ, mọi thứ đang quay cuồng. Tôi mở cửa sổ, tôi vừa khóc vừa nhìn ngôi trường của Laetitia và Nadia ngay trước mặt. Tôi mở cửa căn hộ và nói lảm nhảm một mình, tôi nghe thấy giọng mình vang lên như thể tôi ở đáy giếng. Tôi muốn trèo lên tầng sáu, tôi muốn nhảy từ tầng thượng xuống, tôi đi lên đó, vừa ngủ lơ mơ vừa lảm nhảm:
“Nếu mình chết thì chúng sẽ ra sao? Chúng yêu mình. Tại sao mình lại sinh chúng ra? Để chúng chịu khổ sở ư? Mình đã khổ sở nhiều như thế chưa đủ à? Mình không muốn chúng phải khổ sở, hoặc cả ba cùng rời bỏ cõi đời này hoặc không…. Không, chúng cần có mình. Antonio đi làm. Anh bảo đi làm nhưng có thể anh đang ở bãi biển, mình không biết anh ở đâu… Nhưng anh biết rõ mình đang ở nhà vì trời nóng quá. Mình không đi ra ngoài được, mình không thể ăn mặc như mình muốn. Tại sao chuyện đó lại xảy đến với mình? Mình đã phạm tội gì với Đấng Tối cao? Mình đã làm gì trên đời này?”
Tôi khóc trong hành lanh. Tôi không biết tôi đang ở đâu. Tôi quay vào nhà để đóng cửa sổ rồi tôi đi xuống sảnh phía dưới, đứng trước các thùng thư để đợi các con. Sau đó, tôi không nhớ gì nữa, cho đến khi thấy mình nằm trong bệnh viện.
Tôi bị ngất đi vì những viên thuốc ngủ. Người ta đã rửa ruột cho tôi và bác sĩ giữ tôi lại bệnh viện để theo dõi. Ngày hôm sau, tôi được đưa đến bệnh viện tâm thần học. Tôi được gặp bác sỹ chuyên khoa tâm thần, một người phụ nữ khả ái. Bà bước vào phòng:
“Chào bà….
– Chào bác sĩ.”
Tôi đỉnh mỉm cười lịch thiệp với bà bác sĩ nhưng tôi bật khóc ngay sau đấy. Bà bác sĩ cho tôi uống một loại thuốc an thần và ngồi xuống cạnh tôi:
“Hãy kể cho tôi biết mọi việc đã xảy ra như thế nào, tại sao bà lại uống những viên thuốc ấy? Tại sao lại muốn tự tử?”
Tôi giải thích, nắng nóng, bể bơi, ngọn lửa, các vết sẹo, ý định chết và tôi lại khóc. Tôi không sao sắp xếp rõ ràng những gì đang xảy ra trong đầu tôi. Cái bể bơi, cái bể bơi ngu xuẩn ấy đã gây ra mọi chuyện. Tôi đã muốn chết chỉ vì một cái bể bơi?
“Bà có biết đây là lần thứ hai bà đã thoát chết không? Trước đây là người anh rể của bà, bây giờ lại là bà. Tôi thấy như thế là quá nhiều, nếu người ta không quan tâm đến bà thì chuyện đó sẽ tái diễn. Nhưng tôi có mặt ở đây để giúp bà, bà có muốn không?”
Suốt một tháng trời, tôi điều trị theo liệu pháp của bà ta, và sau đó, bà ta khuyên tôi đến một bác sĩ chuyên khoa tâm thần khác, mỗi tuần một lần vào ngày thứ Tư. Từ lúc bị thiêu sống đến giờ, đây là lần đầu tiên tôi có dịp kể với một người có mặt bên cạnh tôi để chỉ nghe tôi nói về cha mẹ tôi, về nỗi bất hạnh của tôi, về Marouan… Đối với tôi, điều đó thực không dễ dàng gì. Có lúc, tôi chỉ muốn ngừng kể nhưng tôi buộc mình phải cố gắng vì tôi biết, sau khi ra khỏi đây, tôi sẽ cảm thấy dễ chịu hơn nhiều.
Ít lâu sau, tôi nhận thấy bà ta quá độc đoán. Tôi cảm thấy bà ta muốn áp đặt cho tôi một con đường để đi theo. Như thể bà ta bắt tôi phải đi bên phải con đường để về nhà, trong khi tôi biết rõ có thể về nhà bằng cách đi bên trái đường…
Tôi tự nhủ: “Quỷ tha ma bắt bà ta! Bà ta chỉ đạo mình, đó không phải là mẹ của mình”. Đã thế lại còn buộc tôi đến gặp vào ngày thứ Tư. Tôi thì chi đến khi nào tôi cảm thấy thích, hoặc khi thấy cần. Nhưng tôi cũng muốn bà ta đặt câu hỏi, bà ta nói chuyện với tôi, bà ta nhìn thẳng vào mặt tôi chứ không để tôi trò chuyện với những bức tường trong khi bà ta ghi chép. Suốt một năm, tôi cố cưỡng lại ý định bỏ trốn. Và tôi hiểu rằng mình không hề thực tế chút nào, khi có ý định chết, tôi đã chối bỏ sự tồn tại của hai đứa con tôi. Tôi thật ích kỷ khi chỉ nghĩ đến bản thân, khi có ý định bỏ đi, mặc kệ những gì còn lại. Kể cũng hay khi tôi nói: “Tôi muốn chết…” Nhưng những người khác thì sao?
o0o
Tôi đã khá hơn nhưng nhiều lúc thật kinh khủng. Tình trạng này xảy ra vào bất cứ lúc nào. Nhất là trong dịp hè. Chúng tôi sắp dọn đi nơi khác, rời xa bể bơi. Ngôi nhà mới nằm ven một con lộ nhưng mùa hè vẫn luôn đến. Dù nằm trong núi hay trên xa mạc, đó vẫn là mùa hè.
Nhiều lúc tôi tự nhủ thầm: “Trời ơi, mình chỉ muốn sáng mai mình không thức dậy nữa, mình chỉ muốn chết và không phải chịu đau khổ nữa.”
Tôi có một gia đình, có bạn bè xung quanh, tôi đã cố gắng nhiều. Nhưng tôi thấy xấu hổ về chính mình. Giá như tôi bị bỏng trong một vụ tai nạn hay bị liệt, liệt, có lẽ tôi đã nhìn những vết sẹo của mình theo cách khác. Đó sẽ là số phận, chẳng ai phải chịu trách nhiệm, kể cả tôi.
Nhưng chính người anh rể đã châm lửa thiêu tôi, và đó là ý muốn của cha mẹ tôi. Không phải số phận hay định mệnh đã khiến tôi ra nông nỗi này. Điều làm tôi đau đớn nhất là họ tước đoạt làn da của tôi, của chính tôi, không phải là một tháng, một năm, mười năm mà là cả cuộc đời.
Và lâu lâu tình trạng ấy lại tái diễn. Một bộ phim cao bồi Mỹ có nhiều vụ đánh nhau và rất nhiều ngựa. Hai người đàn ông đánh nhau trong chuồng ngựa. Một tên độc ác đã bật diêm ném vào đống cỏ khô, giữa hai chân đối thủ. thủ. Người này bị lửa đốt đã vội vã bỏ chạy với ngọn lửa đang bốc cháy trên người. Tôi bắt đầu la hét và phun những thứ đang ăn ra. Tôi như bị điên.
Antonio bảo tôi: “Không phải đâu em yêu, đó chỉ là phim, là phim thôi mà”. Và anh tắt vô tuyến. Anh ôm tôi vào lòng, để giúp tôi bình tĩnh và nhắc đi nhắc lại: “Em yêu, đó là truyền hình. Nó không có thật đâu, nó chỉ là phim thôi mà!”
Tôi đang lùi xa về phía sau, tôi đang chạy với ngọn lửa cháy trên người. Suốt đêm tôi không ngủ được. Tôi sợ lửa đến nỗi chỉ một ngọn lửa nhỏ cũng đủ làm tôi sững sờ. Tôi dõi theo từng cử chỉ của Antonio khi anh bật lửa châm thuốc lá, tôi chờ đến lúc que diêm tắt hoặc ngọn lửa của chiếc bật lửa biến mất. Tôi ít xem truyền hình cũng chính vì lý do đó. Tôi sợ phải nhìn thấy một ai đó hay một vật gì đó đang cháy. Các con tôi cũng tỏ ra thận trọng vì việc này. Ngay khi nhận thấy điều gì có thể làm tôi sốc, chúng vội tắt ngay hình ảnh đó.
Tôi không muốn cho chúng đốt nến. Ở nhà mọi vật dụng đều dùng điện. Tôi không muốn nhìn thấy lửa trong bếp hoặc một nơi nào khác. Nhưng một hôm, có người đã đùa với que diêm và cười trước mặt tôi để biểu diễn một trò lạ. Anh ta đã đổ cồn lên ngón tay và anh ta châm lửa. Da trên ngón tay không bị cháy, đó chỉ là một trò đùa.
Tôi đứng bật dậy, vừa sợ vừa giận sôi lên:
“Anh đi nơi khác mà làm trò! Tôi đã từng bị thiêu rồi. Anh không hiểu bị thiêu là thế nào đâu!”
Lửa trong lò sưởi thì tôi không sợ, miễn là tôi không đến gần. Nước cũng không làm tôi khó chịu, nhưng phải là những ấm. Tôi sợ tất cả những gì nóng. Lửa, nước nóng, lò nấu, bếp điện, xoong chảo, bình cà phê lúc nào cũng cắm điện, chiếc vô tuyến có thể bị bắt lửa, những phích điện tiếp xúc kém, máy hút bụi, những mẩu thuốc lá bỏ quên, đủ thứ… Tất cả những gì liên quan đến lửa. Cuối cùng, các con tôi cũng trở nên khiếp sợ vì tôi. Bởi vì một đứa con gái mười bốn tuổi mà không biết bật bếp điện để hâm nóng thức ăn cũng chỉ vì tôi, đó là chuyện không bình thường. Nếu tôi không có mặt ở nhà thì tôi không muốn chúng đứng bên bếp, không muốn chúng đun nước nấu mì hoặc pha trà. Tôi cần có mặt bên cạnh chúng, chăm chú, căng thẳng, để chắc chắn được tự tay tôi dập lửa. Không có ngày nào mà tôi không đi soát lại bếp điện trước khi đi ngủ.
Tôi sống với nỗi lo sợ ngày này qua đêm khác. Tôi biết tôi làm sáo trộn cuộc sống của người khác. Chồng tôi vốn kiên nhẫn nhưng thỉnh thoảng, anh ấy cũng đam chán nản trước nỗi sợ vô lý của tôi. Tôi phải bình tĩnh khi trông thấy các con tôi cầm một cái xoong. Đến một ngày nào đó, chúng sẽ phải làm được việc đó.
o0o
Khoảng bốn mươi tuổi, tôi lại có thêm một nỗi sợ khác. Tôi cho rằng Marouan đã trở thành người lớn, từ hai chục năm nay tôi không gặp lại nó lần nào, và nó biết tôi đã lấy chồng và có mấy đứa con gái hiện đang ở một nơi nào đó. Nhưng Laetitia và Nadia không biết chúng có một người anh trai.
Sự dối trá đó là một gánh nặng mà tôi không thể nói cho ai biết. Ngay từ đầu Antonio cũng đã biết về Marouan, nhưng chúng tôi không bao giờ nhắc đến nó, Jacqueline biết, nhưng chị ấy tôn trọng chuyện riêng của tôi. Chị mởi tôi tham gia những buổi hội thảo, để nói về tội ác vì danh dự trước những phụ nữ khác. Chị tiếp tục công việc của chị, chị đi công tác và đôi khi chiến thắng trở về, nhưng cũng có lúc trở về tay không. Tôi thấy mình có nghĩa vụ phải kể lại cuộc đời một phụ nữ bị thiêu sống của tôi, và đứng ra làm chứng với tư cách một người thoát chết. Trên thực tế, tôi là người duy nhất có thể làm công việc đó sau chừng ấy năm.
Và tôi tiếp tục nói dối, không tiết lộ sự tồn tại của Marouan và tự thuyết phục mình rằng tôi đang bảo vệ con trai mình tránh khỏi sự thật kinh khủng nhất. Nhưng nó gần như đã trở thành một người lớn. Vấn đề quan trọng hiện nay là tìm hiểu xem khi cho Marouan làm con nuôi người khác, liệu có phải tôi đã che đậy sự xấu hổ của cá nhân tôi, tội lỗi của tôi hay định che chở cho Marouan.
Tôi cần thời gian mới hiểu được rằng mọi sự việc đều liên quan đến nhau. Trong làng tôi không có bác sĩ chuyên khoa tâm thần học, phụ nữ ở đó không đặt ra những câu hỏi như vậy. Chúng tôi chỉ có tội vì chúng tôi là phụ nữ.
Các con tôi đã lớn, những câu: “Tại sao thế hả mẹ?” trở nên nhức nhối hơn.
“Nhưng tại sao họ lại thiêu mẹ, hả mẹ?
– Vì mẹ muốn được làm vợ một người mà mẹ đã chọn vì mẹ sắp sinh em bé.
– Em bé ấy bây giờ thế nào và đang ở đâu?”
Nó vẫn còn ở đó, trong trại trẻ mồ côi. Tôi không thể nói với chúng khác được.