Sau trận đấu trên Núi Mặt Trời, Kazan đã dẫn Sói Xám đến một khu rừng nhỏ toàn thông và trám hương bên bờ sông. Cuộc sống của Kazan dường như xoay quanh ba niềm đam mê lớn: lòng hận thù tất cả những gì chứa đựng mùi hay dấu ấn của mèo rừng, nỗi mất mát đau đớn khi Jeanne và đứa trẻ ra đi, và Sói Xám. Nỗi căm giận chính đang sục sôi trong nó kể từ ngày ấy là nỗi hận thù mèo rừng bởi vì đối với nó, trận chiến định mệnh trên Núi Mặt Trời không chỉ gây ra cảnh mù lòa cho Sói Xám và làm chết lũ con nó, mà theo nó, còn dẫn đến sự ra đi của Jeanne. Từ đó, nó trở thành kẻ thù không đội trời chung với loài mèo rừng. Mỗi khi nó ngửi thấy mùi của một con mèo rừng, nó lồng.lộn hiện hình một con quỷ nhăn nhó, và trong khi nó ngày càng hòa nhập tốt hơn với cuộc sống hoang dã thì sự giận dữ điên cuồng đối với mèo rừng ngày càng tăng. Nó cũng hiểu rằng Sói Xám giờ đây cần đến nó hơn bao giờ hết kể từ ngày Sói bỏ bầy đàn để đi theo nó. Và vì trong người nó có đến ba phần tư là chó, nó rất cần một người bạn đồng hành và giờ đây, chỉ Sói Xám mới có thể đáp ứng được mong muốn đó bởi vì ở chốn này, chúng hoàn toàn bị cô lập. Khi Jeanne và đứa trẻ còn ở đấy, nhiều đêm ròng Sói Xám thường ở một mình trong rừng để chờ đợi và gọi bạn. Nhưng bây giờ, chính Kazan lại cảm thấy bị bỏ rơi và khó chịu mỗi khi nó không có Sói Xám bên cạnh. Quả vậy, Sói Xám trở nên có ích với Kazan hơn khi nó còn có hai mắt - một nghịch lý thường xuyên được kiểm chứng sau đó... ở Sói Xám, khứu giác và thính giác chẳng bao lâu đã hoàn toàn thay thế cho thị giác và hai giác quan này ngày càng phát triển hơn, cùng lúc một ngôn ngữ câm lặng cũng được hình thành giữa con đực và con cái, nhờ đó, Sói Xám truyền đạt được cho Kazan tất cả những gì nó ngửi hoặc nghe thấy; thế là Kazan có thói quen quan sát những phản ứng của bạn mình mỗi khi chúng dừng lại để đánh hơi hay lắng nghe những tiếng động chung quanh. Chúng ở lại đấy cho đến đầu hè và tuần này sang tuần khác, con chó lại quay lại rảo quanh căn lều nơi Jeanne và con gái từng sống, cùng người đàn ông. Nó quan sát chốn ấy rất lâu, đêm cũng như ngày với hy vọng tìm thấy ở đấy một dấu hiệu của sự sống. Nhưng cánh cửa không bao giờ mở. những tấm ván và những khúc gỗ con đóng chặt vào cửa sổ vẫn không hề nhúc nhích và mùi hơi người ngày một nhạt đi dần dần... Căn lều là nơi duy nhất Sói Xám không chịu đi cùng nó đến. Còn những nơi khác, Sói luôn ở bên cạnh nó. Khi Sói Xám bắt đầu quen với cảnh mù lòa, nó còn theo Kazan đi săn, ít ra cũng theo cho đến lúc Kazan phát hiện được một con mồi và phóng theo săn lùng. Khi đó, Sói Xám dừng lại và đợi bạn quay về. Trong suốt mùa hè ấy, chúng không hề rời nhau nửa bước vì nhiều lý do và trên lãnh thổ.rộng lớn hoang dã nơi chúng trú ngụ, dấu chân chúng thường lẫn lộn với nhau. Thế rồi, một trận cháy lớn xảy ra. Sói Xám đánh hơi được trước tiên mùi cháy khi ngọn lửa còn cách hai ngày đường. Chiều hôm ấy, mặt trời lặn trong một lớp mây nhợt nhạt, còn vầng trăng mọc ở phía Tây thì đỏ rực như máu. Khi mặt trăng soi như thế trên cánh đồng bao la, người ấn Độ gọi là Trăng Máu và thế là họ khẳng định có thể thấy được những điềm xấu trên trời. Suốt ngày hôm sau, Sói Xám trở nên căng thẳng và quãng giữa trưa, đến lượt Kazan cũng đánh hơi được trong không khí cái điềm mà bạn nó đã nhận thấy trước nó khá lâu. Cái mùi đó cứ tăng dần lên và vào khoảng giữa buổi chiều, mặt trời bị lớp khói che phủ. Kazan tìm cách để trốn thoát. Nó chỉ cần bơi qua một trong các con sông đang quây quanh một góc ngọn lửa. Đối với nó đó là chuyện dễ vì chó không sợ nước... Nhưng bạn nó thì lùi bước, hoảng sợ mỗi lần chân chạm nước. Như các con vật cùng loài, Sói Xám thích đối chọi với lửa hơn, cho dù có bị chết thiêu ở bờ sông. Để thúc giục bạn theo mình, Kazan nhảy khoảng hơn mười hai lần xuống nước và bắt đầu bơi. Nhưng Sói Xám vẫn bướng bỉnh ở lại trên bờ. Thế là chúng bắt đầu nghe thấy phía xa xa tiếng lửa réo ầm ầm. Lửa đuổi các con vật ra phía trước. Hươu, nai, hoẵng lao mình xuống sông và chẳng mấy chốc đã an toàn ở bờ bên kia. Sau đó, nhiều con thú khác cũng như Sói Xám sợ nước nên chẳng mấy chốc trên một doi cát nhỏ chen chúc xô đẩy nhau vô số loài thú không thể hay không dám nhảy xuống nước. Thân mình nước chảy ròng ròng, hơi thở hổn hển, gần như ngạt vì nóng và vì khói, Kazan đứng ép mình vào Sói Xám. Từ lúc này, chỉ còn một chỗ duy nhất có thể trú chân là doi cát nhô ra vài mét giữa dòng sông. Nó nhanh chóng dìu người bạn mù lòa của mình đến đấy. Sói Xám và Kazan tiến đến mép ngoài cùng của doi cát và cố tự bảo vệ bằng cách cuộn tròn mình và mõm giấu trong lớp lông....Lúc này, đám cháy đã đến rất gần rồi. Tiếng lửa gào rít nghe như tiếng thác trào. Thỉnh thoảng, người ta nghe thấy tiếng răng rắc của một thân cây đổ nhào xuống đám than hồng. Bầu trời đầu tro và tia lửa. Đã hai lần, Kazan phải vùng dậy rũ lông để vẩy hết những tàn lửa nóng bỏng rớt xuống mình và thiêu đốt nó như một thanh sắt nung đỏ. Gần sát mặt nước, những bụi cây rậm mọc ở ven bờ ngăn cản tốc độ của ngọn lửa và hơi nóng có giảm xuống chút ít. Nhưng Kazan và bạn mình buộc phải đợi khá lâu mới có thể đứng dậy và thở thoải mái hơn. Chúng hiểu rằng mảnh đất nơi chúng trú chân đã cứu sống chúng. Toàn bộ khu vực nằm giữa hai con sông đã đen kịt một màu và mặt đất thì nóng rãy. Đêm đó, mặt trăng trông thật khủng khiếp, cứ như thể một vết máu bắn lên nền trời và trong suốt nhiều giờ, khi mặt trăng treo lơ lửng trên đầu, chúng không nghe thấy ngay cả tiếng cú kêu để chứng tỏ rằng sự sống vẫn tồn tại trên mặt đất này, nơi hôm qua còn là thiên đường thực sự cho muông thú... Kazan biết rằng không còn gì để săn lùng nơi đây và nó tiếp tục đi; chỉ đến khi bình minh, chúng mới phát hiện ra một đầm nước nhỏ dọc theo con sông. Những con hải ly đã đắp một con đê bắc ngang qua dòng nước, nhờ đó đôi bạn có thể sang được bờ bên kia, nơi ngọn lửa không chạm đến. Chúng đi theo hướng Tây trong một ngày một đêm và cuối cùng đến được vùng đầm lầy và rừng cây chạy dọc theo vùng Water-found. Cùng lúc, trong một cái trạm của vịnh Hudson, ở phía Đông, một anh chàng lai Pháp, người mảnh khảnh, da ngăm đen, tên là Henri Loti, vốn là một tay săn mèo rừng nổi tiếng nhất vùng cũng đến đấy. Lần theo dấu vết của những con mồi tương lai, anh tìm thấy rất nhiều dấu ở ven bờ vùng Water-found. Henri dựng một cái chòi săn ở đấy, sau đó quay lại trạm để chờ cho đến khi những bông tuyết đầu tiên rơi để quay lại vùng này với xe kéo, thực phẩm và bẫy. Vào thời điểm đó, một người đàn ông khác đang chậm rãi tiến đến vùng này - đó là một giáo sư động vật học đang đi thu thập tài liệu để viết một cuốn sách về tư duy của các loài thú.hoang. ông tên là Paul Weyman, và ông đã trao đổi với Henri Loti để mùa đông đến sống cùng anh một thời gian. Trong hành trang của mình, ông có rất nhiều giấy để ghi chép, một máy ảnh và bức chân dung một thiếu nữ. Vũ khí độc nhất của ông là con dao nhíp. Trong thời gian đó, Sói Xám và Kazan cũng phát hiện thấy ở chính giữa đầm lầy rậm rạp một hang ổ chúng đang tìm cho mùa đông. Cái hang này nằm cách căn chòi của Henri Loti khoảng chục cây số. Vào tháng giêng, một người hướng dẫn của trạm thuộc vịnh Hudson dẫn ông Paul Wey-man đến lều của Henri Loti ở vùng Water-found. Paul chạc băm hai hay băm ba tuổi, tràn trề sinh lực khiến anh chàng săn bẫy lập tức thấy Paul dễ mến. Nếu ông không được như vậy, chắc hẳn những ngày đầu chung sống trong chòi sẽ gặp khó khăn bởi vì Henri đang rất bực bội, cáu gắt. Buổi tối, khi Paul Wey-man đến, anh chàng lại giải thích cho nhà động vật học lý do không hài lòng của mình, khi hai người ngồi hút thuốc bên cạnh cái bếp lò tỏa ánh đỏ rực: - Thật là kỳ lạ! - Anh nói. - Tôi bị mất bảy con mèo rừng đã bẫy được. Chúng bị xé xác thành từng mảnh nhỏ như những con thỏ thường bị cáo xé xác. .. Cho đến nay, không một con thú nào, kể cả gấu nữa, lại tấn công một con mèo rừng đã bị bẫy... Đây là lần đầu tiên tôi gặp chuyện thế này! Tấm da bị xé nát không đáng giá nửa đô la nếu tôi mang chúng về trạm! Bảy con mèo rừng! Vì chuyện này, tôi đã mất đứt hơn hai trăm đô la! Tôi biết thủ phạm là hai con sói... Hai con Sói luôn đi cùng nhau! Tôi biết thế là nhờ dấu chân chúng để lại. Hai con sói! Chúng lần theo những con thỏ của tôi, các loại chồn nâu hay trắng... đều không khiến chúng quan tâm, không hề, nhưng mèo rừng thì ngược lại... Thật quá lắm! Chúng nhảy lên mình nó và cắn xé bộ lông như thể anh bứt bông dại trong bụi rậm... Câu chuyện này đã thu hút Paul Weyman. Ông thuộc số những nhà tư tưởng ngày càng đông cho rằng con người do tin theo thuyết nhân loại bản vị, đã bỏ qua hầu hết những sự việc kỳ diệu của tạo hóa... Với tầm hiểu biết khiến ông có đông đảo thính giả trong toàn quốc, ông đã.phản đối những ai cho rằng con người là sinh vật duy nhất của hành tinh có lý trí còn lương tri và trí thông minh của sinh thể, không phải là người, chỉ được giải thích bằng bản năng. Vượt xa hơn những chuyện buồn bực mang tính vật chất mà lũ sói đã gây cho Henri Loti, Paul nắm bắt được toàn bộ tầm quan trọng của sự việc và họ chỉ nói về chúng cho đến tận nửa đêm. Hai tuần tiếp theo, Paul Weyman đã thu thập được nhiều dữ kiện cho cuốn sách của mình. Không ngày nào Henri và ông không nhìn thấy đây đó gần các bẫy, dấu vết của hai con sói phi thường; Paul buộc phải công nhận rằng anh bạn mình nói đúng; luôn luôn có hai loạt dấu vết. Và mỗi ngày trôi qua càng khiến Weyman tin rằng đây là sự minh chứng cụ thể cho lý thuyết của ông. ông cảm thấy tấn thảm kịch bí ẩn xảy ra quanh cái bẫy có một lý do khác với bản năng. Một điều gì đó khiến trong ông nảy sinh mối thiện cảm với hai con vật tự do và hùng dũng không bao giờ bỏ lỡ một dịp nào không tấn công lũ mèo rừng mắc bẫy. Đêm đêm, trong căn chòi, ông ghi chép các cảm tưởng và những điều khám phá được trong ngày. Một hôm, Henri Loti nảy ra một sáng kiến mới. Hai người đàn ông vừa phát hiện ra dấu vết còn mới của một con mèo rừng. Lần theo dấu chân mèo, họ đến được một thân cây lớn bị bão đánh đổ. Và ở đó, trên mặt tuyết bị giẫm nát, rải rác từng nạm lông thỏ. Henri hoan hỉ nói: - Lần này, tôi sẽ tóm gọn chúng! Chắc chắn là như vậy! Anh chăm chú thăm dò vùng chung quanh. Sau đó, anh giải thích kế hoạch của mình cho Weyman; nếu con mèo rừng bị mắc bẫy, và nếu hai con sói lại đến, trận đấu ắt hẳn sẽ diễn ra trong cái hốc dưới tán lá cây này mà bọn sói trận buộc phải chui vào... Thế là anh ta đặt thêm năm cái bẫy khác nữa nhỏ hơn, ngụy trang kỹ dưới đám lá, rêu và tuyết, nằm cách khá xa cái bẫy lớn nhất để cho mèo rừng, trong lúc giãy giụa, không làm bật tung các bẫy khác lên... - Khi chúng quyết chiến, con sói sẽ nhảy từ phía này, - Henri nói thêm, - có thể nó sẽ tránh được một bẫy, hoặc hai ba nhưng không thể tránh.được năm cái. Tôi chắc chắn là nó sẽ bị mắc bẫy! Sáng hôm ấy, một đợt tuyết rơi mới phủ kín dấu chân của hai người và xóa đi mùi của họ. Điều đó giúp thêm cho mưu kế của Henri. Đêm hôm sau, Kazan và bạn mình đi cách chỗ cái cây đổ khoảng vài trăm mét và nhờ vào khứu giác rất tinh của mình, Sói Xám nhận ra ngay nơi đó có điều gì kỳ lạ khiến nó thấy khó chịu. Nó liền báo cho bạn mình bằng cách tỳ mạnh lên vai bạn, chúng liền chuyển hướng ngay và mặt đón chiều gió, chúng đi ngược lại một loạt các bẫy của Henri Loti. Lại hai ngày và ba đêm trôi qua, những đêm dài băng giá tràn ngập ánh trăng, không có gì xảy ra quanh cái cây đổ. Henri Loti giải thích lý do cho ông bạn Paul của mình. Con mèo rừng, cũng giống anh, là một tay săn mồi nên nó cũng có một hành trình quen thuộc phải mất gần một tuần lễ mới đi hết. Và quả vậy, năm đêm sau, con vật lại xuất hiện, đi về phía cây đổ, lao thẳng đến con mồi... và cái bẫy thép có răng nhọn tàn nhẫn sập ngay lên chân sau bên phải con vật. Kazan và Sói Xám đang ở xa hơn trong rừng, cách đấy khoảng bốn trăm mét, thì bỗng nhiên nghe thấy tiếng khua lách cách của răng bẫy bằng kim loại bị con mèo rừng lay mạnh trong khi vùng vẫy tìm cách thoát thân. Khoảng mười phút sau, chúng đến trước lối vào cái hang chắn bằng cành lá. Đó là một đêm rất sáng, trên bầu trời, lấp lánh nhiều sao đến nỗi chính Henri cũng có thể đi săn được chỉ nhờ ánh sao. Con mèo rừng, kiệt sức vì cố vùng vẫy đang nằm sóng soài dán bụng xuống đất, thì Kazan và Sói Xám xuất hiện. Theo thói quen, Sói Xám lùi lại phía sau trong khi Kazan tấn công. Không có cách nào khác là tấn công trực diện, Kazan liền lao vào nhanh như một tia chớp. Hai con vật quần nhau, vai chọi vai. Nanh Kazan đớp hụt yết hầu mèo rừng. Nó còn chưa kịp nhảy cú thứ hai thì mèo rừng đã tung ra một cú đá hậu bằng cái chân sau chưa mắc bẫy. Tiếng khủng khiếp của da thịt bị xé rách vọng đến tai Sói Xám ở cách đấy một chút... Kazan vừa nhảy lùi lại vừa gầm lên, vai nó bị rách toạc đến tận xương..Chính một trong năm chiếc bẫy phụ do Henri Loti gài đã cứu Kazan thoát khỏi đòn đánh trả thứ hai của mèo rừng - và khỏi cái chết chắc chắn. Hai hàm răng thép bập lấy một chân trước của mèo và ngăn nó nhảy xổ lên mình Kazan. Hiểu được rằng bạn mình đang gặp nguy hiểm, Sói Xám nhảy hai bước tiến đến: trong giây lát, nó quên hết mọi sự thận trọng, và khi nó nghe thấy tiếng Kazan tru lên vì đau đớn, nó chui xuống vòm cây và hai bẫy của Henri tóm gọn gần như cùng lúc hai chân của nó. Nó vừa nằm vật nghiêng, vừa gầm gừ và tìm cách đớp vào khoảng không. Trong lúc giao chiến, Kazan làm sập nốt hai cái bẫy cuối cùng, một cái bập lại một cách vô ích, nhưng cái kia lại ngoạm vào hai chân sau của nó. Ngày hôm đó, Henri và Paul ra ngoài từ sớm. Khi đi đến cái hang bằng lá trứ danh đó cảnh tượng kỳ lạ khiến họ không thốt nên lời. ở Henri, bản năng của người thợ săn chiếm ngay ưu thế, bất kể nỗi ngạc nhiên. Anh đã nâng súng lên định nhả đạn vào sọ Kazan, con vật ở gần anh nhất thì những ngón tay của Paul Wey-man xiết mạnh cánh tay anh ngăn lại. Nhà sinh vật học nhìn chằm chằm con vật, mắt căng ra, quả thật ông đã nhìn thấy một cái vòng bằng thép quấn quanh cổ Kazan... - Chờ đã, Henri! - ông la lên. - Đó không phải là một con sói! Đó là một con chó! Henri hạ súng xuống và ngắm kỹ Kazan. Còn Paul Weyman, ông quan sát Sói Xám. Nó đối mặt với họ, vừa gầm gừ vừa nhe nanh vào kẻ địch mà nó không nhìn thấy. Đôi mắt mù lòa của nó bị một loại da phủ lông che kín. Một tiếng kêu của nhà bác học trẻ tuổi lại thốt lên: - Nhìn này, Henri! Trời ơi, gì thế này? - Con lớn hơn, đúng là chó, ông có lý. Một con chó đã xổng khỏi đàn và gia nhập bầy sói, - Loti đáp. - Và con kia, đó là... một con sói cái... - Một con sói cái mù! - Paul nói thêm trong tiếng nấc bàng hoàng. - Đúng đấy, ông ạ! Mù lòa! - Henri tiếp lời. Lần nữa, anh nâng súng lên và Paul lần này lại tóm chặt nòng súng..- Đừng giết chúng, Henri. - ông nói. - Hãy giao chúng cho tôi! Hãy tính trị giá những con mèo rừng đã bị chúng xé nát, thêm vào số tiền người ta thưởng cho anh ở trạm về hai con sói. Tôi sẽ trả anh số tiền đó nhưng tôi cần chúng sống! Điều này rất quan trọng! Lạy Chúa! Một con chó và một con sói mù chung sống với nhau! Anh chàng săn bẫy đồng ý. Anh dựng ngược súng lên, sẵn sàng bắn, trong khi đó, ông bạn lại lôi máy ảnh ra và bắt tay vào việc. Sói cái và mèo rừng nhe nanh nhếch mép lên đe dọa khi vừa nghe thấy tiếng lách cách của máy ảnh. Kazan chỉ nằm bẹp mình xuống hơn nữa trên mặt đất. Không phải là nó sợ, chỉ có điều là một lần nữa nó nhận thấy uy lực áp đảo của con người. Khi Paul chụp xong, ông tiến lại gần nó, gần như chạm vào người nó và nói với nó có thể còn nhẹ nhàng hơn người đàn ông cùng chung sống với Jeanne trong căn lều giờ đã bị bỏ hoang. Henri Loti giết con mèo rừng; nhìn thấy vậy, Kazan bắt đầu gầm gừ giằng xích về phía cái xác đang giãy giụa của kẻ thù hấp hối. Lúc đó, Weyman nghĩ đến vị hôn thê của mình ở nơi xa, nghĩ đến tình yêu mà Sói Xám có thể cảm thấy đối với Kazan, và lại nghe thấy Henri nói với ông rằng Sói Xám quá già nên không thể thuần dưỡng và nó sẽ nhịn đói cho đến chết nếu bị nhốt, ông nghĩ rằng câu chuyện này quả là kỳ lạ và khi những con sói được tháo khỏi bẫy, ông để chúng đi và thì thầm: - Sóng đôi... luôn sóng đôi dù gặp điều tốt nhất hay bất hạnh nhất, cho đến khi cái chết chia lìa nhé....