Lúa Và Đất
Võ Thị Xuân Hà
Nhân vật của tôi là những nông dân đôn hậu và thông minh hơn chúng ta hằng nghĩ về họ. Cuộc đời của họ bừng sáng và héo tàn cũng đơn giản hơn chúng ta từng biết về họ. Và tôi chỉ có ý định ghi lại một khoảnh khắc bình dị trong toàn bộ chuỗi ngày mà họ đã có trên đời.
Từ khi biết thế nào là trời và đất. Điền đã biết đất không chỉ có màu nâu.
Nhưng trên hết vẫn là màu nâu. Mọc trên đất là màu xanh của lúa, màu vàng của lúa, sự úa tàn của những gốc ra. trơ trọi dưới bầu trời sao, ướt đẫm sương.
Anh đứng trên bờ con mương nhỏ vắt ngang cánh đồng làng, con mương đã cạn nước vào mùa.
Nhưng ký ức vụt chạy qua như cơn lốc xoáy làm tiêu tan những kỷ niệm đẹp. Trước mắt chị là cảnh người cha quật mẹ xuống nền hè vào một đêm trăng. Đầu tóc mẹ tả tơi. Nhưng hình như mẹ không hề oán thán điều gì. Đôi mắt mẹ vẫn ánh lên lấp lánh. Mẹ kín đáo cất thẻ bài giải nhì vào bọc. Chị bất giác muốn gọi thật to: Mẹ Ơi, bây giờ mẹ Ở phương trời nào ?
Từ xa, có tiếng xe bò lăn bánh. Sương sớm đã tan, và chị đã có thể nhìn thấy người con trai làng bên hàng ngày vẫn gặp chị. Họ thường đi ngang qua nhau vào buổi sáng sớm. Chẳng ai nói với ai câu nào, nhưng bước chân người đàn bà khẽ run lên. Còn người con trai thường giật căng dây cương trong khoảnh khắc khiến con bò kéo xe đứng khựng lại, rồi nó lại thong thả đi tiếp cho tới khi sương tan hẳn, cánh đồng hiện lên xù xì thô kệch phía sau lưng Điền.
Nhưng lần này thì Điền ngừng hẳn xe và chào:
- Chị Đào!
Đào khẽ nhướng mày. Ánh sáng ban mai hắt vào đôi mắt, lấp lánh buồn. Mái tóc dày mượt bỗng lồng lên theo cơn gió bất chợt nổi lên từ cánh đồng.
- Mạ héo cả rồi!
Chị nhìn anh ngạc nhiên vì sự chia sẽ.
- Vâng, tôi cũng đang không biết phải tính sao.
Rồi chị đứng tránh hẳn vào vệ đường, mắt nhìn anh mơ hồ lạnh lạnh.
- Tôi có thừa ít giống mới. Chị lấy mà dùng. Loại này khá lắm.
Rồi không đợi chị trả lời hay kịp phản ứng gì, anh nhảy xuống, bê mấy xảo mạ ra khỏi xe bò. Đào lắc đầu:
- Nhưng...
- Chị đừng ngại. Đằng nào tôi cũng đem cho mà. Ruộng nhà tôi cấy đủ rồi.
- Phiền anh quá. Để chúng tôi... chúng tôi gửi lại tiền...
- Không! Đây là mạ thí nghiệm của tôi. Tôi biếu anh chị đấy. Dù sao anh ấy cũng là chỗ đi lại thân quen với người bên làng. Để tôi gom gọn vào nhé.
Chị không biết nói gì hơn. Hai người bê những xảo mạ đặt trên bờ ruộng nhà chị, xếp gọn một góc. Họ vừa làm vừa tránh né nhau. Nhưng có một lần chẳng may tay anh đụng vào tay chị. Chị đỏ rực mặt, kín đáo ngoảnh lơ chỗ khác.
Khi chỉ còn mình chị trên đồng, chị cũng chẳng kịp nhớ lại những gì đã xảy ra. Những ngón chân thô kệch tóe ra bám chặt xuống mặt ruộng, y như giống lúa. Nhưng hình như có điều gì thật khó tả đang dâng lên trong chị khiến chị thấy yêu mảnh ruộng của mình tha thiết.
Lúc đó người chồng đã tỉnh ngủ, ngồi ngáp trên giường. Anh hỏi đứa con gái đang lúi húi làm cơm dưới bếp:
- Mẹ mày biến đâu rồi ?
Đứa con gái tóc đuôi gà, người nhỏ xíu đến sắt lại so với cái tuổi lên mười của nó, nhanh nhẩu:
- Mẹ con ra ngoài ruộng ạ.
- Sao không bảo vác chiếu ra ngoài ấy mà ngủ ? Suốt ngày lúa với chả lúa. Ăn thua mẹ gì. Tao tính đi tìm sét trắng bán cho mấy lão lò gốm còn ăn hơn. Tao làm thuê tay nhà Điền, tao biết, chỉ có vận may con ạ. Chứ tiền công nhật với thóc lúa ăn thua mẹ gì.
Con bé đăm chiêu, già dặn hơn tuổi. Anh vục dậy khỏi giường, ra sân rửa mặt, rồi ngửa cổ súc miệng sòng sọc, miệng vẫn lầm bầm bảo vợ ngu.
Vào quá trưa, Điền đánh xe bò đi giao gạch ở khu bến cảng. Trên bến, tàu thuyền san sát. Tiếng còi hú báo hiệu rời bến ngược sông của một chiếc tàu khách làm con bò kéo xe đứng khựng lại, hoan hỉ.
Gia đình Điền có lò gạch gốm trong làng. Nhưng anh rất yêu lúa và cũng đang muốn lên thành phố học để trở thành kỹ sư nông nghiệp. Giao hàng xong, cầm tấm giấy biên nhận từ một tay phụ trách Cung ứng vật tư ở một Công ty TNHH, Điền hờ hững bước vào một nhà hàng tầm tầm ở phố cảng. Trông anh lúc này giống hệt một tay cao bồi chăn bò vùng Nam Mỹ. Nhưng gương mặt anh đôn hậu hơn bộ quần áo anh mặc. Dù không tẩy hết mùi bò, mùa đất nung than xỉ, mùi bùn và mạ non trên người.
Quán ăn bán đủ thứ, cả cà phê và bia tươi. Trong vườn kê những bộ bàn ghế nhỏ đủ cho từng cặp trai gái ngồi với thế giới riêng họ. Phía gian hàng bên ngoài là khách uống bia, không ồn ào như ở những quán bia hơi tầm tầm khác. Có vẻ khách đều là lớp trung lưu của cái xứ sở đầy bụi và tiếng ồn này.
Điền bỗng nhìn thấy người thầy giáo cũ hồi cấp ba ngồi lặng lẽ ở một góc khuất. Anh đến gần khẽ chào:
- Thưa thầy!
Người thầy ngẩng lên, nheo mắt một lúc rồi cười:
- Anh Điền phải không ? Lâu lắm không gặp.
- Thưa thầy có khỏe không ạ ?
- Anh nhìn tôi thì biết. Anh uống bia nhé.
- Vâng, thầy để em gọi.
Hai thầy trò nâng lỵ Ban đầu họ lặng lẽ uống. Sau hơi men ngấm vào người khiến mọi thứ trước mắt Điền đều óng ánh và trong trẻo. Người thầy nói với Điền mà như thủ thỉ cho mình nghe.
- Chiều nào tôi cũng ra đây ngồi để ngẫm nghĩ sự đời. Anh bây giờ là ông hay là thằng ?
Điền thoáng nhíu mày:
- Dạ, em vẫn chưa vào đâu. Gia đình neo người quá.
- Thằng nào không làm nên trò trống gì cũng cứ cái giọng điệu như anh. Tôi thấy tiếc cho anh. Ngày trước học giỏi...
Điền trầm ngâm ngắm thầy, biết mình còn chưa học được ở thầy nhiều điều. Người thầy vẫn nhẹ nhàng:
- Ở cái quán này thấy được nhiều điều vô cùng. Anh có hay đọc sách báo không ?
- Thỉnh thoảng em cũng mua một vài món. Em đọc được mấy truyện của thầy trên báo. Đầu tiên em không nghĩ đó là thầy vì thầy dạy toán. Nhưng sau thì em nhận ra giọng điệu của thầy.
- Anh đọc những cái chuyện vớ vẩn ấy, có thấy ích lợi gì không ?
- Em luôn nghĩ phải đi học lên bằng được. Mỗi lần đọc được những gì hay, em lại thấy mình thật vô dụng. Em nhất định phải học thôi thầy ạ.
- Nghĩ như thế là còn muộn chán rồi đấy. Nhưng cũng còn kịp. Anh có vợ chưa ?
- Dạ chưa!
- Còn may...
- Thầy bảo sao ạ ?
- Tôi gặp anh thế này rất vui. Hôm qua bà vợ tôi làm cho tôi một trận. Bà ấy bảo tôi toàn viết vớ viết vẩn. Tôi không bao giờ sợ những lời nói đó của đàn bà. Nhưng tự nghĩ có lẽ mình cũng chưa viết được gì thật. Gặp anh tôi lại càng thấy đúng như thế.
- Em...
Người thầy đứng lên:
- Thôi tôi về. Tôi vừa nghĩ ra một cốt truyện khá hay phải về viết thôi. Anh đi học đi nhé. Định làm gì phải làm bằng được, vì chúng ta chỉ có mỗi một cuộc đời thôi.
Thầy đi rồi, Điền ngồi lặng lẽ một mình với ly bia. Từ trong một hành lang mờ tối của góc quán, một cô gái chạy vụt ra, ngơ ngác, xộc xệnh. Rồi cô lao nhanh ra đường phố như một con mèo hoang. Trong quán có sự xáo trộn một loáng, rồi lại lặng lẽ như củ.
Anh chợt nhìn thấy hình ảnh lầm lũi của người đàn bà mà anh gặp mỗi buổi sáng sớm trên đồng. Đôi mắt anh sẫm lại.
Trong thời khắc tranh tối tranh sáng, Đào sững người trước cái chuồng bò rỗng không. Chị Ôm đầu:
- Trời ơi, con Nâu...
Có tiếng người chồng khật khùng từ cổng vào vì thua bạc.
- Cô rên cái gì. Đổi đời rồi, cô không thích à ? Chỉ cần một vài mẻ sét trắng là tôi sẽ chuộc được con Nâu cho cộ Cô chớ có hở ra đấy, nghe chưa.
Ngoài ngõ, thằng Tư bạn cùng lớp với con gái của họ, núp sau một bụi cây, ngó vào. Nó buồn rầu nhìn cái chuồng bò rỗng không như xẻ chia. Mặt trời bừng lên. Tiếng những chú chim liu điu ríu ran chào ngày mới. Rồi như không chịu lép vế với những chú chim nhỏ xinh, vô tự Thằng Tư vung tay quất ngọn roi vào không khí. Nó dừng chân bên bờ ruộng, vốc nắm đất dẻo nặn tượng Bao Công xử án.
"Kẻ quỳ dưới công đường kia là ai ?"
"Dạ, dân nữ là Nguyễn Thị Đào, nhà ở... "
"Có việc gì mà nửa đêm đánh trống kêu oan."
"Xin cho tôi hỏi! Bao Thanh Thiên có xử cho dân đen nỗi oan khuất mà xưa nay không ai chịu xử?"
"Cứ nói!"
"Đàn bà chúng con liệu có bao giờ được đối xử công bằng với đàn ông ? Vì sao đàn bà lại là chiếc xương sườn của đàn ông?"
"Ngươi có nhân chứng nào không?"
"Dạ, thưa có con bò tên là Nâu ạ."
Thằng Tư vung roi lên làm bay tung ca ? Bao Thanh Thiên với người đàn bà bằng cỏ trên mặt đường đầy bùn đất và phân gio.
Đào bước lầm lũi. Chiếc cuốc trên vai nặng trĩu. Chị nhớ đến con Nâu. Không biết người ta đã đưa nó đi đâu rồi ? Nó sắp sinh ra một con bệ Và có lẽ số phận của mẹ con con Nâu là vào lò mổ. Chị biết dù có giận chồng đến mấy thì sự việc cũng đã rồi.
Ngang qua đầm súng, chị nhìn thấy Điền đang bò ẹp bên mép đầm, bên cạnh là chiếc xuồng nhỏ. Mặt đầm đầy hoa súng, hoa bèo tây óng ánh hồng trong hơi sương.
- Đào!... Tiếng người con trai tan trong sương sớm.
Chị ngập ngừng, đứng lại, chống cuốc xuống vệ cỏ.
- Sao anh ấy không ra ruộng ? Lúc nào tôi cũng thấy chị một mình ?
- Tôi quen rồi. Anh đang làm gì vậy ?
- À, chị có vội không ? Giúp tôi một tay!
Chị đến gần chiếc xuồng.
- Anh làm gì vậy ?
- Đào chống xuồng ra đầm giúp tôi nhé.
- Tôi chèo không được thạo lắm đâu.
- Không sao! Chỉ cần giữ thăng bằng, để tôi đo lại độ sâu của đầm. Tôi đang định nhận khoán mặt đầm này. Mặt ruộng bên cạnh tôi cũng tính xin nhận khóa.
- Nhưng chỗ này là bãi ruộng làng anh xin để...
- Để làm chỗ cho người chết chứ gì ? Thì bây giờ còn rộng mà.
Anh cười tươi. Chị quệt mồ hôi, dù hình như chẳng có giọt nào. Chị chống xuồng. Chiếc xuồng xoay xoay rồi tiến ra giữa đầm. Những bông hoa dạt sang hai bên. Anh dùng sợi thừng buộc hòn đá thả xuống đáy đầm ở một vài chỗ, chị thấy sốt ruột:
- Đã xong chư ?
- Ừ, xong. Chờ tôi đã.
Anh thò tay hái một bông hoa súng rồi đưa cho chị.
- Chị Đào có biết hoa súng còn có tên gọi là gì không ?
- Tôi chịu thua.
- Là hoa tiên tử. Một nàng tiên bị chết trong bùn.
- Vì sao vậy ?
- Tôi không nhớ nữa. Nhưng ngày xưa mẹ tôi kể thế. Giá bà còn sống tôi sẽ hỏi vì sao cho Đào...
Anh mỉm cười mơ hồ. Chị nhảy lên bờ làm xuồng chòng chành suýt hất anh xuống nước. Nước bắn tung tóe làm ướt áo, ướt tóc anh. Chị chào:
- Tôi về đây!
- Để tôi đưa về cho nhanh!
- Không! Họ cười chết. Chồng tôi...
Chị vớ cuốc quày quả đi. Bông hoa súng trên mái tóc chị rơi xuống mặt đường, như một nàng tiên bị hắt hủi, lạc lõng giữa đám cỏ gan gà cứng ngắt.
Lúc đó tôi đi ngang qua cánh đồng. Tôi về nông thôn ngàn đời xa lạ với cuộc sống của mình để đi tìm một người. Khi anh chia tay với tôi rồi, tôi mới nhớ ra mình chưa hỏi quê anh ở đâu. Và thế là tôi đi ngang qua đó. Tôi nhìn thấy bông hoa tiên tử màu tím hồng đang héo dần dưới ban mai. Tôi nhìn thấy người đàn bà trẻ khi chị cắm đầu bước trên đường đồng. Chị đẹp đôn hậu, không rực rỡ, hơi thô kệch và không xáo trộn. Tôi nhìn thấy người con trai khi anh ngồi thừ trên bờ đầm.
Tôi cũng nhìn thấy những gốc ra. và những mảnh ruộng cấy sớm, mạ đang bén rễ. Lúc đó tôi nghĩ rằng họ giống như lúa và đất, bám sâu và che chở.
Và những tình cảm thoảng qua, chân chất ấy sẽ giúp họ luôn đứng vững trên mảnh đất lầy bùn của mình.
Hết