Khoá này ta học về hệ thống thuế về cả những khía cạnh lý thuyết và thực tế.
Chỉ có con người mới đóng thuế. Tất cả các thuế khoá đều thu được từ con người. Các loại thuế dành cho những tập đoàn lớn về thực tế là thuế đánh lên các cổ đông.
Định nghĩa.Thuế là "..một loại chi trả không tự nguyện cho Chính phủ của cá nhân hay công ty mà không được coi là người trả cho những lợi nhuận đối lưuhoặc cho giá trị tương đương của hàng hoá và dịch vụ trong khi trao đổi". Bruce, trang 295.
Vì vậy, những chi phí người sử dụng (user fee) cho các dịch vụ mà Chính phủ cung cấp không phải là thuế. Tiền hối lộ cho các viên chức chính phủ cũng không tính.
Ranh giới đó có thể bị mờ nhạt trong một vài trường hợp nếu các nhân viên Chính phủ giữ các vị trí khác và thừa hành những chức năng được hiểu là họ sẽ nhận một số tiền đền bù nào đó cho các chức năng này qua việc hối lộ. Trước đây đã từng xảy ra trường hợp này và hiện giờ vẫn còn tồn tại ở một số nơi trên thế giới. Những nơi này thường là nơi có cơ cấu kinh tế thực sự yếu kém.
Thuế lợi ích (benefit tax) là một loại thuế trả cho Chính phủ tương đương với một loại lợi ích nào đó, và nó có liên quan rất mật thiết với một loại phí của người sử dụng. Bruce đưa ra ví dụ về thuế Bảo Hiểm Xã Hội (Social Security tax) như là một loại thuế lợi ích.
Định nghĩa này về thuế được coi như là một định nghĩa của Chính phủ. Một Chính phủ có thể là Chính phủ xây dựng trên các quy định và luật pháp, dạng như Chính phủ Hoa Kỳ. Điều này xây dựng nên một cơ cấu kinh tế tốt đẹp. Một Chính phủ có thể là Chính phủ của 1 cá nhân, trong đó các quyết định của họ không bị trói buộc bởi bất kỳ một loại luật lệ nào ngoài những ý thích bất chợt của họ, loại này dẫn tới một nền kinh tế rất yếu kém.
Một Chính phủ có thể là Chính phủ của quyền lực nơi mà người mạnh nhất trong thời điểm hiện tại có quyền áp đặt ý muốn của mình đối với công chúng. Hơn nữa, ở một vài nơi trên thế giới, những con số về tội phạm có tổ chức ở địa phương còn diễn ra theo nhiều cách khác khi những loại Chính phủ khác sẽ hoạt động. Người ta có thể hỏi vậy tiền bảo kê trả cho bọn cướp trong vùng và thuế kinh doanh trả cho Chính phủ có gì khác nhau?
Nếu bạn muốn hiểu về những điều này theo những khái niệm trên thì một Chính phủ có thể chỉ là một tổ chức có cái roi lớn nhất trong vùng. Điều này cho phép họ có khả năng yêu cầu những khoản chi bắt buộc từ người dân địa phương.
Các loại thuế có thể được đánh theo một hệ thống nào đó đã được hiểu rõ hoặc hoàn toàn thất thường.
Phân loại.Các loại thuế có thể được phân loại theo nhiều cách.
Người trả thuế.1. Những loại thuế trực tiếp được đánh thẳng vào người và các công ty kinh doanh.
- các loại thuế thu nhập.
2. Những loại thuế gián tiếp được đánh vào các hàng hoá và dịch vụ.
- các thuế về xăng dầu hoặc thuế về các loại hàng hoá được sản xuất, bán và tiêu dùng trong nội địa.
Thuế dựa trên cơ sở là các loại hoạt động.1. Hoạt động phi kinh tế.
-thuế khoán hay thuế thân.
2. Những loại thuế yếu tố.
-thuế đánh vào những yếu tố trong sản xuất, chẳng hạn như lao động hay vốn.
3. Những loại thuế yếu tố cục bộ.
-thuế thu nhập công ty.
4. Các loại thuế hàng hoá và dịch vụ.
-thuế bán hàng.
-thuế giá trị gia tăng (VAT), có những điểm bắt buộc cần phải tuân theo.
5. Các loại thuế tài sản.
-thuế tài sản.
-phí tự động đăng ký nếu bị ràng buộc vào giá trị của phương tiện.
6. Những yếu tố tiêu cực bên ngoài (Thuế Pigouvian):
-thuế xăng dầu và thuốc lá có thể được liệt vào loại này.
-mối liên kết giữa mua và thiệt hại cần thiết tới mức nào?
-thuế xanh (green tax) ? thuế đánh trên những mặt hàng ô nhiểm môi trường.
Chúng cụ thể như thế nào?1. Các loại thuế tuyển chọn.
-thuế xăng dầu, thuốc lá và rượu.
-thuế lãi vốn.
-thuế môn bài là loại thuế đánh vào việc mua hay sử dụng một hàng hoá hay dịch vụ cụ thể.
-những loại thuế tài sản đánh vào những tài sản thực.
2. Các loại thuế chung.
-thuế bán hàng.
-hầu hết các thuế thu nhập.
Nơi chúng được áp dụng, dần được đưa ra trong kinh tế thương mại.1. Căn nguyên.
-dựa vào những loại hàng hoá được sản xuất trong vùng của các nhà quản lý thuế.
2. Cư ngụ.
-dựa vào một người sống trong phạm vi quyền hạn của nhà quản lý thuế.
3. Nguồn.
-phụ thuộc vào nơi kiếm ra thu nhập hơn là nơi người kiếm ra thu nhập sống.
Các loại thuế khác nhau.
Thuế được thực thi ở nhiều dạng qua nhiều năm. Đây là một tóm tắt về những dạng thông thường được thực sự sử dụng hoặc chỉ là trên đề xuất:
Thuế thu nhập (income tax).
Có thể đánh trên tất cả các thu nhập hoặc chỉ một vài dạng thu nhập (tiền lương, lợi tức, lãi vốn).
Có thể là một tỷ lệ lãi suất biên giảm hay tăng đồng loạt.
Có thể có những chiết khấu, miễn hay nợ.
Có thể gồm một thuế thu nhập tiêu cực trong đó người không có thu nhập lại nhận được một khoản chi trả.
Thuế bán (Sales Tax).
Có thể được đánh vào tất cả các vật hoặc chỉ một vài vật.
Các tỷ lệ có thể thay đổi theo số lượng hoặc dạng mua.
Có thể được gọi là một loại thuế tiêu dùng hay thuế chi dùng.
Những điều này có thể thúc đẩy việc tiết kiệm.
Thuế bán trong một quốc gia cũng có thể được liệt vào đây.
Thuế bất động sản (Property Tax).
thường được áp dụng cho những bất động sản hay tài sản thực.
Một vài người có thể trả ở những mức tỷ lệ khác nhau (những người về hưu chẳng hạn).
Dạng chính xác của thuế có thể áp đặt vào giá mua, giá trị định mức, thanh toán hợp lý, số cửa sổ, v.v.
Thuế lương (Payroll Tax).
Loại thuế đánh vào lương thu nhập.
Ví dụ như là các thuế bảo hiểm xã hội hay bảo hiểm y tế.
Thuế Lãi vốn (Capital Gain).
Là loại thuế đánh vào mức tăng trong giá trị của hàng hoá được mua vào sau đó lại bán ra.
Thông thường đánh vào mức tăng giá trị trên danh nghĩa.
Thuế của các hàng hoá sản xuất, bán và tiêu dùng nội địa (Excise Tax).
Các loại thuế áp dụng khi bán những hàng hoá cụ thể.
Chẳng hạn như thuế xăng dầu.
Bao gồm cả cái gọi là loại thuế vi phạm áp dụng vào việc bán rượu, thuốc lá, v.v.
Khách tới thăm quan một thành phố phải trả thuế khách sạn, nhà hàng, và thuế cho việc thuê xe hơi.
Có thể là một phần trăm của giá bán hoặc một số lượng nhỏ tính trên một đơn vị.
Các loại thuế của cải (Wealth Tax).
Liên quan tới thuế tài sản, nhưng đánh vào tổng số tài sản không tính thu nhập.
Ít được sử dụng.
Thuế thân hay Thuế khoán (Head Tax or Lump Sum Tax).
Mỗi một đầu người đều phải trả một khoản tiền nhỏ.
Rất hiệu quả.
Thuế cử tri (Poll Tax).
Loại thuế phải trả để có được bầu cử mặc dù về bản chất nó giống như thuế thân ở trên (head tax).
Trước đây vài năm, Margaret Thatcher đã thử áp dụng loại này. Nó không phổ biến lắm.
Thuế hàng xa xỉ (Luxury Taxes).
Thuế đánh vào loại hàng hoá chỉ được những người giàu có tiêu thụ hoặc là loại thuế đánh vào giá bán của một loại hàng hoá trên một mức độ cụ thể.
Thuế kinh doanh và thuế nghề nghiệp (a.k.a Thuế lợi nhuận)(Business and Occupations Taxes).
Thuế đánh vào tổng thu nhập trong kinh doanh.
Áp dụng ở thành phố Seatle và tiểu bang Washington.
-đối với việc chế tạo, in ấn, bán buôn hay bán lẻ, tỷ lệ là 0.215% tổng số.
-đối với các dịch vụ, tỷ lệ là 0.415% tổng thu nhập có thể đánh thuế.
Thuế giá trị gia tăng.
Loại thuế đánh vào sự khác biệt giữa những gì mà một công ty bán ra và mua vào (nguyên liệu).
Rất dễ thi hành vì các công ty có một động cơ thông báo gắn liền bên trong.
Thuế xuất nhập khẩu.
Thuế đánh vào việc nhập và xuất khẩu hàng hoá.
Có thể được lập ra để tăng tổng thu nhập hoặc để bảo vệ nên công nghiệp trong nước.
Thuế bất động sản.
Đánh vào các bất động sản do những người đã qua đời để lại.
Thuế lợi ích công ty.
Thực sự là loại thuế áp dụng cho các cổ đông.
Khi cổ dông nhận được phần chia, lại phải đóng thuế một lần nữa.
Nếu cổ đông nhận được lãi vốn, lại đóng thuế một lần nữa.
Thuế và các điều khoản thương mại (Trường hợp Bruce).
Có lẽ phần quan trọng nhất trong Hiến pháp Hoa Kỳ là điều khoản thương mại, về cơ bản nó giúp cho liên bang tránh việc tạo ra những điều luật ngăn cản sự buôn bán kinh doanh giữa các bang.
Trường hợp Toà án tối cao bao gồm cả Điều khoản thương mại và liên quan tới thuế là Jefferson Lines và Nhà chức trách về thuế Oklahoma. Trong trường hợp này, một công ty xe buýt đã tranh cãi rằng không nên áp đặt thuế bán của bang vào việc bán vé của công ty vì nó liên quan tới thương mại liên bang, các tuyến xe buýt chạy giữa các bang. Họ đã sớm đi tới một quyết định trong đó một loại thuế của bang đánh vào lợi nhuận quá cảnh của công ty bị coi là trái pháp luật vì nó đã ảnh hưởng tới thương mại liên bang.
Trong trường hợp này, toà án thấy rằng thuế bán ở Oklahoma có thể được áp dụng đối với việc bán vé của công ty xe buýt ở bang đó vì:
1. Có một mối liên hệ quan trọng với các bang.
2. Thuế thường là thuế bán chung hơn là một loại thuế cụ thể đánh vào thu nhập từ những quá cảnh xe buýt liên bang, như là trường hợp của loại thuế ở bang New York được xem xét sớm hơn trong vụ kiện Greyhound Lines và Mealey. Tức là, loại thuế đánh vào việc bán vé chứ không phải là vào việc cung cấp dịch vụ.
Về cơ bản, loại thuế đánh vào việc bán vé xe buýt có dịch vụ liên bang trong một bang có thể được bang đó đánh thuế hoàn toàn. Tuy vậy, một loại thuế đánh vào việc cung cấp dịch vụ, vì nó hoạt động giữa các bang, có thể chỉ bị đánh thuế về cung ứng số lượng dịch vụ đó trong bang.
Tỷ lệ thuế và Tổng thu nhập từ thuế.Tỷ lệ thuế là lượng thuế thu được tính theo theo đơn vị hoạt động kinh tế hoặc theo phần trăm của lượng tiền đổi được.
Chẳng hạn, một loại thuế hàng hoá/môn bài thu được từ một gallon xăng dầu hoặc từ một gói thuốc lá được thu theo một số đô-la trên một đơn vị hoán đổi, không kể tới giá mua. Đây là một tỷ lệ thuế trên một đơn vị hoán đổi. Một cân nhắc quan trọng là giá trị thực của những loại thuế này sẽ giảm khi có lạm phát xảy ra và giá cả tăng cao. Thuế cho xăng dầu là $0.20/gallon ngày nay đã rất khác so với những năm 1970, cả về mặt giá trị thực của đơn vị thuế mà còn cả về mặt ảnh hưởng mà nó tác động tới hành vi.
Thuế bán thu được từ giá bán một mặt hàng đã được mua bị đánh thuế một phần trăm giá mua. Ở đây, tỷ lệ là phần trăm thu được.
Mỗi một thứ là một loại tỷ lệ thuế, các tỷ lệ có thể được tăng lên hoặc giảm xuống.
Tổng thu nhập từ thuế là tổng lượng tiền thu được, kết quả của một loại thuế nào đó. Bạn có thể coi nó tương đương với tỷ lệ đã được nhân lên bởi tổng lượng đã được hoán đổi, hoặc là về số đơn vị (như trong trường hợp xăng dầu hoặc thuốc lá) hoặc trong tổng chi chịu thuế (như đối với thuế bán).
Mối liên hệ giữa tỷ lệ thuế và tổng thu từ thuế có thể được coi như có hình dạng sau:
Nếu tỷ lệ thuế bằng 0 thì tổng thu sẽ là 0. Với tỷ lệ thuế đủ cao, sẽ không có sự trao đổi (ít nhất là không có sự trao đổi nào được phát hiện và ghi lại), tổng thu đầu tiên sẽ tăng lên và sau đó giảm xuống theo một phương trình về tỷ lệ thuế và sẽ có một tỷ lệ, t* sinh ra tổng thu nhập tối ưu từ thuế.
Câu hỏi vui về mối liên hệ giữa tỷ lệ và tổng thu nhập có thể là liệu tỷ lệ tăng có dẫn tới tổng thu nhập cũng tăng không, thậm chí mặc dù đây luôn là điều được lấy ra giả sử.
Ví dụ: Cho rằng tổng giá trị của một hoạt động nào đó, giữ những thứ khác không đổi, được biểu diễn bằng phương trình về tỷ lệ thuế (t, trong đó 0<t<1) là:
V(t) = 40.000-40.000t2
Phương trình này có các đặc điểm là V(0)=40.000 và V(1)=0, có thể hoặc không hợp lý.
Tổng thu nhập từ thuế là:
R(t)=t*V(t)=40.000t-40.000t3
Nếu mục đích là chọn một tỷ lệ thuế để tăng tổng thu nhập lên tối ưu, điều này có thể làm được bằng cách lấy sai số dR(t)/dt, làm cho nó bằng 0 và tìm ra t
max.
DR/dt=40.000-120.000t2=0 => t*=0.577
Nên nhớ rằng, tổng thu nhập thuế lên tới mức tối đa có thể cũng chưa phải là điều mong đợi.
Phân tích thuế trên khía cạnh người tiêu dùng.Xét biểu đồ tiêu chuẩn về người tiêu dùng với những đường bàng quan (indifference curves) và những đường thẳng biểu diễn ngân sách vốn. Điều này có thể được sử dụng để phân tích ảnh hưởng của thuế tới quyết định của người tiêu dùng.
Trước tiên hãy xét ảnh hưởng của loại thuế khoán (lump sum tax). Điều này sẽ làm thay đổi đường thẳng biểu diễn ngân sách vốn theo trục hoành.
Giờ hãy xét ảnh hưởng của việc đánh thuế cả hai loại hàng hoá theo cùng một mức độ. Phân tích này với loại thuế khoán khác nhau như thế nào? Gợi ý, mặt tốt nào còn thiếu trong sơ đồ này?
Mặt tốt còn thiếu có lẽ là sự tiết kiệm. Tức là, bạn có thể tránh thuế môn bài, thậm chí loại thuế đánh vào tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ bằng cách tiết kiệm, nhưng bạn không thể tránh thuế khoán. Sự khác nhau thực sự chỉ phụ thuộc vào việc bạn mô hình hoá hoàn cảnh như thế nào. Nếu bạn có một mô hình đa giai đoạn, hoặc chỉ là mô hình một giai đoạn, khi đó có thể không có sự khác biệt giữa thuế khoán (lump sum tax) và những loại thuế môn bài (excise taxes) tương đương đối với mọi hàng hoá.
Nó giới thiệu cho ta thấy lý thuyết về điều kiện tốt nhất thứ hai (the theory of the second best). Đó là, thế giới lý tưởng (hay thế giới tốt nhất đầu tiên - first best) sẽ là nơi mà trong đó không có sự méo mó hay không hoàn hảo của thị trường. Trong một thế giới như vậy, bất kỳ một sự méo mó nào cũng sẽ dẫn tới việc phúc lợi xã hội bị giảm đi. Tuy vậy, với những sai lệch và thiếu hoàn chỉnh trong thị trường đã được đưa ra, đúng là việc đưa một loại sai lệch khác vào có thể thực sự cải thiện kết quả.
Trong trường hợp này, chuyển từ một loại thuế môn bài sang hai loại, trong một vài hoàn cảnh, có thể loại bỏ được sự méo mó và dẫn tới một kết quả tốt đẹp.
Có thể chỉ ra rằng, tổng thu nhập từ thuế có thể được thu qua thuế khoán cũng như thu qua thuế môn bài là giống nhau trong khi người tiêu dùng vẫn ở mức lợi ích cao hơn. Điều này thực sự là tâm điểm cho các cuộc tranh luận về hiệu suất (efficiency).
Bạn sẽ thực hành điều này qua bài tập về nhà đầu tiên .
Định nghĩa Hiệu suất, Các loại thuế khoán và thuế môn bài.
Để có được phương hướng khác tiếp cận với vấn đề về thuế và hiệu suất, xét về hiệu suất trong một cơ cấu kinh tế, ta cần tỷ lệ thay thế biên của người tiêu dùng tương đương với tỷ lệ biến đổi biên của người sản xuất cho bất kỳ loại hàng hoá nào:
MRS=MRT
Điều này thường được thực hiện qua hệ thống giá cả trong đó người sản xuất và người tiêu dùng phải đối mặt với cùng một loại giá và, nhờ sự tối đa hoá lợi ích và lợi nhuận, thu được cùng một tỷ lệ mặc dù họ phải trải qua những quá trình hoàn toàn khác nhau:
Các loại thuế không tương đương cho các hàng hoá khác nhau sẽ phá vỡ mối liên hệ hiệu quả này. Chẳng hạn, một loại thuế đánh vào hàng hoá X sẽ làm cho mối liên hệ này thành:
Tức là, người tiêu dùng sẽ tối đa hoá lợi ích của họ đối với thuế mà họ phải trả cho hàng hoá trong khi người sản xuất sẽ tối đa hoá lợi nhuận dựa trên hệ thống giá cả họ nhận được sau thuế. Sự mất cân bằng này do đó chỉ ra hiệu suất trong hệ thống.
Tuy nhiên, nếu cùng một tỷ lệ thuế được đánh vào cả hai loại X và Y, tỷ lệ ban đầu sẽ được duy trì và hiệu suất được củng cố:
Các loại thuế ngầm (hidden tax).
Các câu hỏi:
Các câu hỏi bài tập này mở đường cho tôi khi tôi viết bài giảng và chúng quả là quá hay đến nỗi không thể không viết vào. Chúng sẽ chỉ ra rất nhiều dạng khác nhau trong cùng những loại bài tập và bài kiểm tra cụ thể qua các khoá học ở mỗi kỳ, nhưng đối với những trường hợp khác chúng có thể khác đi hoặc không đúng nữa.
Câu hỏi bài tập: hãy giải thích mối liên hệ giữa việc nhóm hàng hoá phải chịu thuế phải lớn tới mức nào và gánh nặng quá mức với độ mềm dẻo. Theo Bruce, bạn có thể giảm được gánh nặng quá mức của thuế bằng cách mở rộng các căn cứ tính thuế. Giải thích tại sao lại như vậy, cả bằng ngôn ngữ thông thường và sử dụng tính co giãn (elasticity).
Câu hỏi bài tập: Thảo luận về vấn đề tỷ lệ thuế đánh vào các hàng hoá khác nhau có liên quan tới tính co giãn của chúng như thê nào và sau đó thảo luận điều này liên quan tới giá trị ròng còn lại như thế nào? Đưa ra một vài ví dụ vui.
Câu hỏi bài tập: Coi độ co giãn trong việc thảo luận liệu có hiệu quả hơn không khi tính thuế vào lương của chồng hay vợ cao hơn của người kia.
Câu hỏi bài tập: Trong những công ty tính thuế thì hiệu quả hết mức có thể là rất tốt. Thảo luận về tính co giãn của từng cách trong ba cách có thể mà công ty bị đánh thuế và các phản ứng có thể xảy ra từ phía các công ty.
1. Phí môn bài là một số tiền cố định cho mỗi công ty ở trong vùng.
2. Thuế đánh vào tổng thu nhập của một công ty (Washington có áp dụng)
3. Thuế đánh vào lợi nhuận của một công ty.
Câu hỏi bài tập: Xét thuế về sách. Đưa ra ba cách mà thuế có thể được tính và giải thích từng cách hoạt động như thế nào để tác động tới hành vi.
Câu hỏi bài tập: Giải thích, cả bằng lời và một vài thảo luận về tính co giãn, tại sao các thành phố ít khi đánh thuế xăng dầu mặc dù đã có biện pháp tốt để làm giảm tắc nghẽn trong những khu vực thành thị đông dân cư.
Câu hỏi bài tập: Xét trường hợp một người tiêu dùng có hàm lợi ích là U(X,Y)=2X
2Y chịu giá là P
x=1và P
y=2 với thu nhập là 120. Giải phương trình sao cho lượng lợi ích của họ là tối đa đối với mỗi hàng hoá. Giờ hãy tưởng tượng rằng một loại thuế tính $1/đơn vị đối với X tăng giá hàng hó đó lên $2. Tính lượng lợi ích tối đa mới và lượng tăng lên do có thuế. Ảnh hưởng của loại thuế này tới mức lợi ích của người này so với ảnh hưởng của loại thuế khoán tương đương đối với lợi ích của họ là như thế nào?
Câu hỏi bài tập: Nghĩa đen của từ vật đối lưu (quid pro quo) là gì và trong sử dụng tiếng Anh hiện nay, nó có nghĩa là gì?
Câu hỏi bài tập: Có sự khác nhau về kinh tế quan trong nào giữa tiền bảo kê trả cho một tên cướp trong vùng với tiền thuế kinh doanh trả cho nhà chức trách địa phương?
Câu hỏi bài tập: Nhìn vào ngân quỹ đề xuất năm 2002 của thành phố Seattle. Thuế nào cung cấp hầu hết thu nhập và bạn phân loại nó như thế nào?
Câu hỏi bài tập: Với thuế lương thấp, tổng lương được biểu diễn theo phương trình có tỷ lệ thuế là W(t)=1200-1200*t
1/2. Giải phương trình sao cho tỷ lệ thuế thu nhập là cao nhất.
Câu hỏi bài tập: Xét một cộng đồng gồm hai cá nhân, Smith làm việc còn Jones thì không. Smith bị đánh thuế, và thu nhập từ thuế đánh vào Smith được đưa cho Jones. Nếu đường bàng quan (indifference curve) xã hội giảm xuống, cho thấy phúc lợi xã hội không được tối đa hoá khi Smith bị tính thuế ở mức tỷ lệ có thể tối đa hoá tổng thu nhập từ thuế.
Câu hỏi bài tập: Tưởng tượng rằng giá hiện thời của cirene, một loại pho-mát ngon của Bul-ga-ry là $5/pao. Chính phủ xét mức thuế $1/pao đối với pho-mát Bul-ga-ry, vì những lý do ta sẽ bàn dưới đây, sẽ làm tăng giá tới $6/pao. Nếu số lượng bán ra là 1000 pao và độ co giãn về giá của cầu là -1.5, hãy tính tổng thu nhập từ thuế.
Câu hỏi bài tập: Thuế của chorapi hiện tại là $0.50 một đơn vị và giá người tiêu dùng phải trả là $1.75. Chính phủ xét tăng thuế thành $1.00/đơn vị và mong rằng điều này sẽ làm giá tăng lên $2.25. Nếu xảy ra, độ co giãn về giá cầu sẽ dẫn tới tỷ lệ thuế tăng và không làm cho tổng thu nhập về thuế thay đổi sẽ là gì? Điều gì sẽ xảy ra với tổng thu nhập từ thuế nếu cầu có tính co giãn hơn thế? Nếu cầu ít co giãn hơn thế?