|
Tướng Đức Field Marshall Erwin Rommel - người được mện danh Cáo Sa mạc. |
Quân đội Đức suy đoán (cộng với những thông tin giả từ các tình báo hai mang) rằng quân đồng minh sẽ tiến sang Pháp từ chỗ hẹp nhất của eo biển Anh. Thậm chí, khi các binh sĩ đồng minh đã tràn lên Normandy, họ vẫn tin rằng mũi tấn công "thực sự" là ở phía bắc.
Bên kia eo biển Anh, các binh sĩ Đức chờ đợi. Chỉ huy quân đội Đức là Field Marshall Erwin Rommel, khi đó 51 tuổi, từng làm chỉ huy tại Bắc Phi, nơi ông được đặt biệt danh Cáo Sa mạc. Rommel đã có 5 tháng chuẩn bị kỹ càng lực lượng phòng vệ trên một khu vực rộng lớn của nước Pháp và Hà Lan.
Bờ biển phía Tây của Pháp khi đó được tô điểm bằng hàng loạt chướng ngại vật, cả nổi trên mặt nước và ngầm dưới biển, để phòng trường hợp bị tấn công. Trong đó có "Những chiếc cổng Bỉ" (những bức tường sắt cao gần 4m), những "Cứ điểm Czech" (các trụ tam giác bằng gỗ và thép cao gần 2 m được nhồi đầy mìn và đạn pháo - số vũ khí này bị nước che khuất khi thuỷ triều lên cao), những khối tứ diện được bao bằng dây thép gai; những cọc gỗ nhọn đầu kết đầy mìn.
Đằng sau những bãi biển là vô số các bức tường chống tăng, những hàng rào thép gai và hàng triệu quả mìn. Lô cốt, trụ súng máy, những công sự vững chắc với những trụ bê tông kiên cố để làm trụ súng máy có ở khắp nơi.
Những công sự này được đặt cái tên là Bức tường Atlantic. Rommel tin tưởng rằng các trận đánh quyết định sẽ diễn ra tại đó. "Cuộc chiến quyết định thắng lợi hay thất bại là ở các bãi biển. Chúng ta sẽ chỉ có một cơ hội để chặn kẻ thù và đó là khi chúng còn ở dưới nước", ông tuyên bố khi quan sát những bãi biển vắng vẻ.
Cũng giống như những người khác, Rommel đã thư giãn một chút vào cuối tuần và ý nghĩ của ông hướng về bà vợ Lucie, còn ở Đức. Ông mới biết tin quân đồng minh đã ném bom Stuttgart, gần quê ông.
Hai ngày sau, thứ ba ngày 30/5, ông nếm vị cay đắng khi biết những gì bom của đồng minh đã gây ra cho hàng phòng thủ của ông ở Pháp. Sáng sớm hôm đó, lúc 6h20, ông rời trụ sở ở Roche-Guyon bên bờ sông Seine để đi thị sát Bức tường Atlantic. Chuyến đi của ông liên tiếp bị gián đoạn bởi những tiếng báo động không kích. Cây cầu ở Mantes đã bị phá hỏng chỉ một giờ sau khi ông đi qua và khi Rommel trở về lâu đài đêm hôm đó, ông đã phải vượt sông Seine bằng thuyền. Cuối ngày 30/5, tất cả các cây cầu nối Elbeuf với Paris bị phá huỷ.
Tuy nhiên, Rommel vẫn tin tưởng vào Hitler. Cũng giống như Führer, ông cho rằng mũi tiến công của quân đồng minh sẽ hướng đến Pas-de-Calais, trên bờ eo biển Anh. Họ sẽ chọn chỗ hẹp nhất của eo biển để vượt sang. Và khi lên bờ, họ sẽ lọt vào vị trí lý tưởng để quân Đức tấn công, đặc biệt là khu trung tâm của Ruhr. Điều đó cũng có nghĩa là quân đồng minh sẽ tác chiến bên trong phạm vi hoạt động của các sân bay của họ ở Anh. Và điều đó có vẻ rất hợp logic.
Quân đồng minh đã tận dụng suy đoán sai lầm này của Đức để lên kế hoạch đánh lừa. Kế hoạch đánh lừa dành cho chiến dịch Overlord được đặt tên là "Vệ sĩ". Các cuộc tấn công trên đất Pháp được đặt tên là "Phía Nam ngoan cường". Quân Đức đã mắc lừa đến mức thậm chí sau khi quân đồng minh đã đổ bộ lên Normandy, họ vẫn tin rằng hướng tấn công "thực sự" vẫn là nhằm về phía bắc.
Để đánh lạc hướng quân Đức, đồng minh đã sử dụng nhiều kỹ xảo nhưng quan trọng nhất vẫn là sự đóng góp của các điệp viên hai mang. Và đáng kể nhất phải kể đến Juan Pujol.
Pujol, khi đó 32 tuổi, là người xứ Catalan đến từ Barcelona. Nghề gián điệp của Pujol được đánh dấu bằng nhiều vụ dối trá và đánh lừa. Trước tiên anh làm gián điệp cho Anh. Không được chấp nhận, anh liên lạc với Abwehr (sĩ quan tình báo Đức) tại Madrid và được chấp thuận.
Với cái tên Arabel, anh đã giao cho Đức hàng loạt các báo cáo giả nhưng đầy thuyết phục. Sau đó vài tháng, Pujol trở lại làm việc cho người Anh. Lần này, với những thông tin từ bên trong kẻ thù, London đã nhận Pujol và năm 1942 bí mật đưa anh tới Anh. Tại đó, Pujol được đặt tên là Garbo - để tỏ lòng tôn kính nữ diễn viên Greta Garbo.
Trong nhiều tháng liền, Pujol gửi tin tức cho Abwehr, tạo ra viễn cảnh là quân đồng minh đang xây dựng lực lượng tại khu vực đông nam của Anh và sẵn sàng mở hướng tấn công về phía bắc của Normandy.
Pujol đã được nhận vào làm việc tại Ban Chiến thuật Chính trị ở London, vị trí đó là lý tưởng để thu những thông tin chính xác về các cuộc tấn công của đồng minh. Chỉ huy của anh tại Madrid đã thông báo với Berlin tin đó vào thứ ba ngày 30/5.
Đêm hôm sau, vào lúc 8h35 , máy nhận tin bí mật của Pujol - được cất giấu tại một ngôi nhà trên đường Crespigny, Hendon - đã gửi cho Madrid một bức điện thông báo rằng nhiều đơn vị không quân của sư đoàn 6 của Mỹ đã có mặt tại Suffolk. Điều đó là sai sự thật và nó khiến chỉ huy quân đội Đức nghĩ rằng quân đồng minh đang xây dựng lực lượng tại Anh và đến cuối cùng họ vẫn tưởng như vậy.
Cũng trong ngày 30/5, một binh sĩ Mỹ tại Anh được đưa đến trạm đóng quân cuối cùng trước khi tham gia D-Day. Tên anh ta là Bill Tucker, một lính dù thuộc sư đoàn không vận 82.
Tucker đến từ Boston, Massachusetts. Dù mới 21 tuổi, anh là một binh sĩ dày dặn trong chiến đấu. Năm trước đó, anh đã tham chiến lần đầu tiên tại Salerno, Italy.
Nhiều ngày trong tháng 5, Tucker đóng quân gần làng Leicestershire ở Quorn. Nhưng vào thứ ba ngày 30/5, anh được đưa tới trại đóng quân gần Cottesmore để chuẩn bị lên đường tham gia chiến dịch D-Day.
Tucker gần như dành cả ngày kiểm tra lại trang thiết bị. Đó là một danh sách dài những đồ cần thiết cho một lính dù để có thể xoay sở trong 48 tiếng đầu tiên sau khi tiếp đất. Ngoài quần áo mặc khi nhảy dù, bộ đồng phục màu xanh ôliu, mũ ngụy trang, dù chính, dù dự trữ, ủng, găng tay và áo cứu đắm, anh còn phải mang cả một khẩu súng trường tự động, một khẩu colt 45, dao, nhiều băng đạn, túi cứu thương, quần áo và đồ ăn cho 3 ngày. Đó là chưa kể đến LMG 42, một khẩu súng máy hạng nhẹ với cái giá 3 chân.
Sau khi yên tâm là mọi thứ đã đâu vào đấy, Tucker dành một đêm để đọc cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Mỹ mà anh nhặt được trong chiếc hộp đằng sau nhà chứa máy bay. Tucker vẫn chưa biết anh sẽ đi đâu. Các bạn của Tucker cá cược với nhau xem họ sẽ được đưa đến đâu còn anh tin chắc là sẽ đến Nauy.
Thứ tư ngày 31/5, các con tàu bắt đầu rời cảng Scotland và hướng về eo biển Anh. Những người đầu tiên lên hạm đội và bắt đầu đi dọc bờ biển phía Tây của Anh. Họ là những người có hành trình dài nhất để tới được các bãi biển của Normandy. D-Day được lên kế hoạch sẽ diễn ra vào ngày 5/6.
Trong khi đó, nằm sâu bên trong các đường hầm ở Fort Southwick, Veronica Owen đang trực đêm. Cố chống lại cơn buồn ngủ, cô với lấy cây bút máy. "Những người yêu thương nhất của con", cô mở đầu lá thư gửi cho bố mẹ và kể cho họ nghe về những gì cô mới đọc và những lần đi xem phim mới đây. Cô cũng vừa xích mích với người bạn cùng phòng, dấu hiệu cho thấy những nữ hải quân Hoàng gia Anh ngày càng stress. Có cái gì đó xuất hiện trên bầu trời và Owen phải xem đó là cái gì.
"Nếu bố mẹ không nhận được thư của con trong một thời gian dài thì đừng lo lắng hoặc cho rằng con đã đi nước ngoài hay ra biển hay con bị ốm. Người ta vẫn đồn thổi khắp nơi nhưng con không cho rằng điều đó sẽ xảy ra".
Từ đầu tháng 5, những lá thư của các nữ hải quân đều phải qua kiểm duyệt nhưng họ cũng chỉ chọn hú hoạ. Lá thư này đã bị kiểm tra và dán tem. Lời ám chỉ trong bức thư của Owen về một điều gì đó to lớn sắp diễn ra thì khá mơ hồ và vì thế cũng không có hại gì.
Cũng trong ngày hôm đó, một gián điệp có tên Sonia d’Artois đã dành cả ngày đạp xe cùng Sydney Hudson dọc những con đường yên tĩnh của nước Pháp để tới căn cứ của anh ở Chateau des Bordeaux, cách Le Mans gần 20km. Binh sĩ Canada Glenn Dickin thì vẫn ở trong trại và Andre Heintz - thành viên phong trào kháng chiến Pháp - lại cố gắng nghe đài
BBC để tìm tìm những thông tin có thể cho anh thấy rằng D-Day đang đến gần. Tại Paris, Albert Grunberg vẫn liều lĩnh chờ đợi tin tức từ những đứa con trai ông.