Trong tất cả những tục ngữ ngộ nghĩnh, những cách ngôn hay phương ngôn mà dân quê miền Provence chúng ta tô điểm lời lẽ của họ, tôi không biết được câu nào thú vị hơn và kỳ lạ hơn câu này. Ở mười lăm dặm chung quanh chiếc máy xay gió của tôi, khi nói đến một người nào hay nhỏ mọn, thù hằn người ta bảo: - Cái người ấy, các bạn hãy đề phòng….Hắn như con lừa của Giáo chủ giữ bảy năm cú đá… Tôi tìm rất lâu xem câu cách ngôn ấy có thể từ đâu tới, con lừa của Giáo chủ kia và cú đá giữ trong mười năm trời nọ là gì. Không ai ở đây có thể cho tôi biết về cớ tích đó, ngay lão Francet Mamai - người thổi sáo - bạn tôi, vốn rành chuyện cổ miền Provence làu như cháo. Francet, như tôi, cho là bên trong có một câu chuyện xưa nào đó của xứ Avignon nhưng bao giờ lão cũng chỉ nghe nó nói qua câu ngạn ngữ. Lão thổi sáo già cười bảo tôi: - Ông sẽ chỉ tìm ra chuyện đó trong thư viện Con Ve mà thôi. Ý nghĩ này tôi thấy hay và nhân thư viện Con Ve ở cạnh cửa nhà, tôi đến giam mình trong suốt tám hôm. Đó là một thư viện tuyệt diệu, đầy đủ một cách đáng khen, đêm ngày mở cửa cho các thi sĩ và được coi sóc bởi những quản thủ thư viện bé nhỏ mang phèng la chơi nhạc cho bạn suốt buổi. Tôi sống qua tại đây mấy ngày vui thú và sau một tuần lễ tìm tòi - nằm ngả người ra - cuối cùng tôi phác giác được điều tôi muốn, nghĩa là câu chuyện con lừa và cú đá cừ khôi giữ suốt bảy năm trời nọ. Cốt chuyện xưa ấy ngộ nghĩnh, tuy có hơi ngây ngô và cố kể nó lại với các bạn, hệt như tôi đã đọc sáng qua trong một bản thảo màu bạc thếch thơm mùi long não khô có những sợi chỉ to làm dây dấu. Ai không thấy xứ Avignon thời các Giáo chủ (1) là không thấy gì hết. Nói về sự vui vẻ, sự sống, sự nhộn nhịp, những cuộc lễ lạc, không hề có thành phố nào bằng. Từ sáng đế tối ròng những buổi diễu hành, những cuộc hành hương, những ngã đường ngổn ngang hoa, phủ khảm cao, những thuyền cập bến của các Hồng y ở sông Rhône, cờ tung gió, thuyền tung hoàng vẽ vời, lính của Giáo chủ ca tiếng La tinh trên các công trường, những bánh xay gió nhỏ của các huynh khất sĩ; rồi từ cao xuống thấp các gian nhà chen lấn nhau rì rầm quanh cung điện to lớn của Giáo chủ, không khác nào những con ong vây chung quanh tổ, cũng lại có tiếng tích tắc của các guồng máy ren, tiếng qua lại của những chiếc thoi đan vàng lên các áo lễ phủ ngoài, những chiếc búa con của những người cưa bình, những bản âm tiết người ta lên dây ở những hiệu thợ đàn, và vượt trên hết tiếng mấy quả chuông và luôn luôn vài tiếng trống người ta nghe khua ở đàng kia, phía cầu. Bởi ở xứ chúng ta, khi dân chúng vừa lòng, họ cần phải nhẩy, họ cần phải múa; và vì vào thời kỳ đó, đường thành phố hẹp quá đối với điệu Farandole, mấy tay thổi sáo, đánh trống bèn đến đóng trên cấu Avignon, dưới làn gió mát của sông Rhône, và đêm ngày, người ta nhẩy ở đó, người ta múa ở đó….Chao, thuở sung sướng! Thành phố sung sướng làm sao! Có những cây thương không đâm chém, những khám đường nơi người ta cho rượu uống để giải khát. Không hề có nạn đói, không hề có chiến tranh….Ấy, các Giáo chủ biết cai trị dân của họ như thế đấy! Ấy, tại sao dân của họ mến tiếc họ nhiều!…. Nhất là có một ông Giáo chủ, một ông lão hiền lành người ta gọi là Boniface….Ồ - ông ấy - sao mà có lắm giọt nước mắt người ta rơi. Đó là một ông bụt dễ mến làm sao, niềm nở làm sao! Ngồi trên lừa cao, ông cười với các bạn lành làm sao. Và khi bạn đi qua bên ông – dù bạn là một anh kéo cỏ nhỏ bé nghèo hèn hay là ông toà cao trọng trong thành phố - ông ban phúc cho bạn lễ phép vô cùng. Một ông Giáo chủ Yvetot (2) thật sự, nhưng một Yvetot miền Provence với một cái gì tế nhị trong nụ cười, một cọng cây kinh giới trên mũ tu của ông. Mỗi Chúa nhật, khi xong buổi đọc kinh ông lão khả kính đến viếng thăm vườn nho của mình - một vườn nho nhỏ, đích thân ông trồng cách Avignon ba dặm, ở giữa những cành sim của vùng Château Neuf, và khi ông ở trên đó rồi, ngồi dưới ánh nắng ấm, con lừa bên cạnh ông, các Hồng y của ông nằm chung quanh dưới chân mấy gốc cây nho, bấy giờ ông cho mở một chai rượu bổn xứ - thứ rượu ngon kia, màu hồng ngọc, và từ khi ấy được gọi là rượu Château Neuf của các Giáo chủ - và ông nhấp từng ngụm rượu, mắt nhìn vườn nho của mình với một vẻ trìu mến. Rồi, chai cạn, chiều xuống, ông vui vẻ trở về thành phố, theo sau là tất cả đoàn tuỳ tùng, và khi ông đi ngang trên cầu Avignon, giữa tiếng trống, những điệu nhảy, con lừa của ông, phấn chấn lên vì điệu nhạc mới nhảy nhót đưa hai chân hơn cao một bên. Trong khi chính ông, ông đánh nhịp bước nhảy bằng cái mũ, điều này làm cho các ông Hồng y rất lấy làm xấu hổ, nhưng khiến tất cả mọi người nói: - Chà, ông ấy tốt quá, đức Giáo chủ tử tế quá. Sau vườn nho ở Château Neuf, vật mà Giáo chủ yêu thương nhất trên đời này là con lừa của ông. Ông lão say mê con vật ấy lắm. Mỗi chiều tối, trước khi đi nằm, ông đến xem chuồng nó có đóng kỹ chưa, có thiếu gì trong máng ăn của nó không và không bao giờ ông rời khỏi bàn ăn mà không bảo làm ngay, dưới mắt ông một tô rượu to với nhiều đường và cây thơm, đích thân ông mang đế cho lừa, mặc kệ sự phản đối của các ông Hồng y…. Cũng cần phải nói là con lừa đáng được săn sóc như thế. Đó là một con lừa xinh xắn đen, có đốm đỏ, chân vững, lông ngời, mông rộng và đầy đặn, cái đầu nhọn khô ráo ngạo nghễ, thắng đầy gù, mối thắt, lục lạc bạc, túi con; lại còn dịu hiền như một thiên thần, mặt ngây dại và hai cái tai dài luôn luôn lay động đem đến cho nó một vẻ trẻ con hiền lành. Tất cả vùng Avignon kính mến nó, và không có sự đối đãi miền nở nào mà người ta tiếc với nó, vì ai cũng biết rằng đó là cách hay hơn hết để chiếm cảm tình Giáo chủ, và dưới vẻ ngây thơ của nó, con lừa của Giáo chủ đã đem sự nghiệp đến cho hơn một người rồi, bằng chứng là Tistet Védène và câu chuyện phi thường của tên này. Tên Tistet Védène nguyên là một đứa trẻ mất dạy, trơ tráo, bị cha, nhà điêu khắc vàng Guy Védène, bắt buộc đuổi ra khỏi cửa vì nó chẳng chịu làm gì cả và phá rối cho các anh tập sự phải bỏ sở. Trong sáu tháng trời, người ta thấy nó kéo lê áo trên tất cả các rãnh nước của Avignon, nhưng đặc biệt là phía nhà Giáo chủ; vì từ lâu tên bất lương, có rắp tâm về con lừa của Giáo chủ và các bạn sẽ thấy đó là cái gì quỷ quyệt. Một hôm Thánh thể dạo chơi một mình dưới các tường thành với con lừa, thì tên Tistet của tôi đến trước mặt Người, và nói với Người mà hai tay chấp lại với vẻ thán phục: - Chà - trời ơi - Đức Thánh Cha cao cả, Ngài có con lừa tốt quá… Xin ngài cho con nhìn nó một chút. Chà, thưa Giáo chủ, con lừa đẹp thật….Hoàng đế Đức quốc không có con nào bằng con này… Và nó vuốt ve lừa và nó dịu dàng nói với lừa như với một tiểu thơ: - Đây này, cưng của anh, vàng của anh, ngọc quí của anh. Ông Giáo chủ hiền lành cảm động quá, tự nhủ: - Thằng nhỏ thật tốt…Sao mà nó dễ thương với con lừa của ta thế! Và rồi hôm sau, các bạn biết chuyện gì xảy ra không? Tistet Védène đánh đổi chiếc áo cũ vàng của mình với một chiếc áo dài đẹp bằng đăng ten, một chiếc áo choàng bằng lụa tím, đôi giầy có khoanh, và nó bước vào trường Thánh nhạc nơi mà trước nó người ta chỉ tiếp nhận con trai các nhà quí phái, các Hồng y….Câu chuyện lương lẹo là như thế ấy….Nhưng Tistet không dừng lại ở chỗ đó. Một khi đã vào giúp việc cho Giáo chủ, tên bất lương tiếp tục cái trò nó đã thành công mỹ mãn. Hỗn láo với mọi người, nó chỉ niềm nở săn đón con lừa, và luôn luôn người ta gặp nó đi ngoài sân cung điện với một nắm lúa hay một bó cây long đảm, nó nhè nhẹ rẩy những chùm hồng, mắt nhìn bao lơn Đức Thánh Cha với vẻ muốn hỏi: - Hở, cho ai đây? Mãi mãi cho đến sau rốt ông Giáo chủ hiền lành, cảm thấy mình già đi, mới để cho nó cái việc trông nom chuồng lừa và mang đến cho lừa tô rượu của nó; điều này không làm cho các ông Hồng y cười nữa. Con lừa điều này cũng không làm cho nó cười….Bây giờ, đến giờ rượu của nó, nó luôn luôn trông thấy có năm sáu tên học trò nhỏ của trường Thánh ca đến chuồng nó, chúng vội vàng chui vào trong rơm cùng với áo choàng, với ren của chúng; rồi một lát sau, một mùi ngon lành của đường cùng cỏ thơm ngào ngạt chuồng, và Tistet Védène hiện ra thận trọng mang tô rượu. Bấy giờ cái việc đau đớn của con vật vô phúc bắt đầu. Thứ rượu thơm mà nó thích biết mấy, khiến cho nó nóng, khiến cho nó phơi phới, người ta đành tâm mang đến cho nó ở đó, trong cái máng của nó, cho nó thở hơi; rồi khi mà mũi nó đầy những hơi rượu rồi, thì rượu sắc lửa hồng đẹp đẽ chảy hết vào trong cổ họng mấy tên quái kia. Còn nữa, nào chúng chỉ có ăn cắp rượu của nó đâu; mà chúng như những con quỉ, tất cả những tên học trò nhỏ đó, khi chúng uống rượu xong….Đứa kéo tai nó, đứa kéo đuôi. Quiquet leo lên lưng nó, Béluguet thử đội mũ cho nó và không tên nào trong đám mất dạy nghĩ rằng: một cái hất mạnh hay một cái húc, con vật hiền lành đã có thể tống chúng hết lên đến sao Bắc cực và ngay còn xa hơn nữa….Nhưng không, làm con lừa của Giáo chủ có phải dễ đâu, con lừa của phép lành và hỉ xả kia mà! Bọn trẻ có làm thế nào, lừa cũng không giận, chỉ với Tistet Védène là nó lấy làm hiềm khích….Tên ấy, chẳng hạn, khi lừa cảm thấy nó ở đằng sau mình, lừa ngứa ngáy vó và điều này thì hẳn nhiên rồi. Tên Tistet mất dạy đó chơi lừa nhiều cú ác quá. Nó có những ý định tàn nhẫn hết sức khi nhậu xong…. Một hôm, nó há chẳng nảy ý đem lừa cùng đi với nó lên trên cao, tới tháp chuông con của trường Thánh nhạc, trên cao, tít ở mũi nhọn của cung điện….Và điều tôi kể các bạn đây không phải là một chuyện láo, hai trăm ngàn người Provencaux trông thấy nó. Các bạn hãy tưởng tượng, sự hãi hùng của con vật khốn nạn. Lúc mà, sau khi dò dẫm quanh co suốt một tiếng đồng hồ trong một cầu thang trôn ốc và leo không biết bao nhiêu là bậc thang, lừa thoắt cái thấy mình đứng trên một nóc nhà bằng chói chan ánh sáng, và ba trăm mấy mươi thước phía dưới. Lừa trông thấy cả một vùng Avignon quái đản, mấy cái lều chợ không to hơn hạt đậu, mấy người lính của Giáo chủ trước trại của họ, không khác nào những con kiến đỏ. Và đằng kia, trên một sợi chỉ bạc, một cái cầu nhỏ li ti, nơi người ta nhẩy, nơi người ta múa. Thương hại con vật! Thật là hoảng vía, tiếng lừa kêu thét lên, làm tất cả cửa kiếng cung điện đều rung chuyển. Ông Giáo chủ hiền lành đâm bổ đến bao lơn hỏi to: - Chuyên gì thế? Ai làm gì nó thế? Tistet Védène đã ở ngoài sân, làm ra vẻ khóc lóc và bứt tai bứt tóc. - Ôi! Đức Thánh cha cao cả, chuyện gì à? Chuyện con lừa của ngài. Trời ơi, rồi chúng ta ra sao đây? Chuyện con lừa của ngài lên trên tháp chuông. - Một mình à? - Phải, thưa Đức Thánh cha, một mình….Này, ngài hãy trông nó, ở trên cao kia….Ngài hãy trông đầu tai lừa ló ra?….Người ta tưởng như là hai con én. Ông Giáo chủ đáng thương, ngửng mắt lên nói: - Khổ!….Nó điên mất rồi hay sao? Mà nó sắp chết mất….Mày có chịu xuống không, hở con khốn? Hừ, nó không yêu cầu gì hơn. Nó ấy, bằng cái việc xuống….Nhưng xuống ngã nào? Cầu thang ư? Không nên nghĩ đến chuyện này: nó còn lên cao nữa, cái ngữ ấy; nhưng khi xuống, đủ để mà gẫy chân đến trăm lượt….Con lừa khốn nạn lấy làm buồn khổ và trong khi quanh quẩn trên nóc nhà bằng, với đôi mắt to choáng váng cả lên. Nó nghĩ đến Tistet Védène: - À! Tên cướp, nếu tao mà thoát khỏi đây được….mai mày sẽ biết cú đá của tao. Ý nghĩ cú đá đó khiến cho nó bình tĩnh được đôi chút, không thế nó không tài nào đứng vững được….Cuối cùng người ta đem nó xuống bằng một con đội, những sợi dây, và một cây cán. Và các bạn thử nghĩ, xấu hổ biết mấy cho con lừa của Giáo chủ khi thấy mình bị treo trên cao ngần ấy, chân bơi trong khoảng không như một con bọ rầy ở đầu dây. Và tất cả Avignon đang nhìn nó. Đêm, con vật khốn nạn không ngủ được vì chuyện trên. Nó luôn luôn như thấy nó quay đi quay lại trên nóc nhà bằng khốn nạn kia, giữa những tiếng cười của thành phố phía dưới. Rồi nó nghĩ đến tên Tistet Védène khốn nạn và cú đá đích đáng mà nó sẽ tống cho Tistet sáng mai. Chà, các bạn phải biết cú đá đó! Từ Pampérigouste, người ta sẽ trông thấy được hơi khói của nó…. Thế nhưng, trong khi người ta sửa soạn tiếp đón nó nồng hậu như thế ấy ở chuồng, các bạn có biết Tistet Védène làm gì không? Nó xuôi dòng sông Rhône miệng ca hát, trên một chiếc thuyền của Giáo chủ và đến triều đình Naples, với một toán những nhà quí phái trẻ tuổi mà hàng năm thành phố phái đến bên cạnh Hoàng hậu Jeanne (3) để học tập việc ngoại giao và những phép tắc lịch sự. Tistet không phải quí phái; nhưng Giáo chủ khăng khăng tưởng thưởng nó việc nó săn sóc con lừa của ông, và nhất là hành động nó vừa thi thố trong ngày cứu lừa. Chỉ con lừa là hôm sau lấy làm thất vọng. Lừa giận dữ lắc mạnh đám lục lạc nghĩ: “À tên cướp, nó nghi ngờ điều gì rồi….Nhưng không hề gì, đi đi, tên vô lại. Khi trở về mày sẽ gặp nó, cú đá của mày ấy….tao giữ nó cho mày ” Và lừa giữ nó cho Tistet.
Sau khi Tistet ra đi, con lừa của Giáo chủ tìm lại được đà sống bình thản và những dáng đi ngày trước. Không còn Quiquet, không còn Béluguet ở chuồng nữa. Những ngày đẹp với rượu ngon trở về và với chúng, sự vui tính, những giấc ngủ trưa dài và bước đi nhỏ nhảy nhót khi nó đi ngang trên cầu Avignon. Tuy thế, từ khi xảy ra câu chuyện, trong thành phố luôn luôn người ta tỏ ra hơi lạnh nhạt đối với lừa. Trên đường nó đi, có những tiếng thì thầm; mấy người lớn tuổi gật gật đầu và trẻ con cười, trỏ nhau tháp chuông con. Ngay ông Giáo chủ hiền lành cũng không tin tưởng nhiều ở người bạn thân của mình nữa, và ngày Chúa nhật ông ấy nhè ngủ quên đi một lúc ngắn trên lưng lừa khi ở vườn nho về, ông luôn luôn có ẩn ý này: - Nếu rồi ta sẽ thức giấc trên kia, trên nóc nhà bằng. Lừa trông thấy thế, lấy đó làm đau khổ mà chẳng nói gì cả; có điều khi người ta nói tên Tistet Védène trước mặt nó, đôi tai dài của nó run lên và nó nghiến ken két miếng sắt chiếc vó của nó lên trên lề. Bảy năm trôi qua như thế ấy; rồi sau bảy năm đó, Tistet Védène từ triều đình Naples trở về. Thời gian lưu trú của nó chưa chấm dứt ở đó, nhưng nó nghe Đệ nhất Mù tạt gia (4) của Giáo chủ đột nhiên từ trần ở Avignon và vì nó thấy chân đó tốt, nó vội vàng trở về để có thể thế vào.
Khi cái tên Védène lương lẹo kia bước vào cung điện, đức Thánh cha gần như không nhận ra được nó vì nó lớn quá và to người ra. Cũng cần phải nói là ông Giáo chủ hiền lành kia đã già đi, và không gọng kính thì ông không trông thấy rõ. Tistet không chút rụt rè nói: - Ô hay! Đức Thánh cha cao cả, ngài không nhận ra con nữa ư? Con đây, Tistet Védène. - Védène? - Thưa phải, ngài biết rõ….người mang rượu cho con lừa của ngài ấy. - À! Phải….phải, ta nhớ ra một….đứa bé dễ thương, tên Tistet Védène đó….Thế bây giờ cậu muốn gì? - Ồ! Không có gì đáng, đức Thánh cha cao cả ạ….Con đến xin ngài….Nhân thể, ngài vẫn còn nó mãi chứ, con lừa của ngài ấy? Thế nó mạnh khoẻ chứ? À, càng hay….Con đến xin ngài chỗ làm của Đệ nhất Mù tạt gia từ trần. - Đệ nhất Mù tạt gia, con?….Nhưng con trẻ quá. Thế con bao nhiêu tuổi? - Thưa Ngài, hai mươi tuổi hai tháng, đúng năm tuổi lớn hơn con lừa của Ngài….À, thật là vinh diệu của trời….vật hiền lành ấy. Giá mà Ngài biết con yêu lừa bao nhiêu….con tưởng nhớ nó bao nhiêu ở Ý….Ngài có để cho con đến thăm nó không? - Có chứ con, con sẽ đến gặp nó – ông Giáo chủ hiền lành đáp – Và bởi con thương con vật hiền lành ấy quá như thế, ta không còn muốn con sống xa nó. Ngay ngày hôm nay ta thâu nạp con bên cạnh ta với tư cách Đệ nhất Mù tạt gia….Các ông Hồng y của ta sẽ phản đối, nhưng kệ, ta đã quen thế rồi….Con đến gặp chúng ta ngày mai khi buổi kinh xong, chúng ta sẽ chuyển giao con những phù hiệu cấp bậc của con trước mặt đoàn tăng lữ của chúng ta….Và rồi, ta sẽ đưa con đi thăm lừa, và con sẽ đến vườn nho với hai chúng ta….Hé! Hé! Thôi, đi. Nếu Tistet lấy làm vui sướng khi bước ra khỏi gian phòng rộng lớn, và nó nóng nẩy như thế nào chờ đợi buổi lễ ngày mai, tôi không cần kể điều đó lại cho các bạn. Tuy thế, trong tu viện, có một kẻ sung sướng hơn và nóng nảy hơn nó: đó là con lừa. Từ khi Védène trở về đến buổi lễ ngày hôm sau, con vật kinh khủng không ngớt dồn rơm tống vào tường bằng đôi vó sau. Cả nó nữa cũng chuẩn bị cho buổi lễ.
Và như vậy, hôm sau khi kinh đọc xong, Tistet Védène tiến vào trong sân của cung điện Giáo chủ. Tất cả giai cấp Thượng tăng lữ có mặt ở đó, các Hồng y mặc áo đỏ, Trạng sư của quỷ (5) mặc áo nhung đen, các Giáo sĩ nhà dòng đội những chiếc mũ cao nhọn, nhân viên quản trị giáo khu Thánh Agrico, những chiếc áo tím của trường Thánh nhạc, có cả giới hạ tăng lữ, quân lính của Giáo chủ mặc bộ đại quân phục, ba hiệp hội những kẻ sám hối, các thày tu hành núi Ventoux với vẻ mặt thị đời và chú học trò nhỏ đi phía sau mang chiếc chuông con, các huynh hành thể trần người đến thắt lưng, các ông từ rực rỡ trong áo quan toà. Tất cả, tất cả, cho đến những người cho nước phép, và người cùng người….không có một ai vắng mặt trong buổi lễ….Chà, thật là một cuộc phong chức trọng thể. Những chuông, những pháo, ánh nắng, nhạc và luôn luôn những tên cuồng mê tiếng trống đang nhảy nhót đàng kia, trên cầu Avignon.
Khi Védène xuất hiện ở giữa buổi họp, sự oai vệ và vẻ mặt tuấn tú của nó khiến mọi người thì thầm thán phục. Đó là một người miền Provence phong nhã, tóc hoe vàng, những lọn tóc to quắn ở đầu và bộ râu con lún phún, như lấy ở những mạt kim khí tinh khiết rơi từ chiếc kéo phép của cha nó, nhà điêu khắc vàng. Người ta đồn rằng mấy ngón tay của Hoàng hậu Jeanne đã vài lần đùa giỡn trong bộ râu hoe đỏ đó; và quả thậts, ngài Védène có vẻ sang cả và cái nhìn hững hờ của những người được các bà Hoàng thương yêu….Ngày hôm ấy, để làm vinh dự dân tộc mình, Tistet thay đổi bộ quần áo Ý, với một chiếc quần viền hoa hồng theo kiểu miền Provence và trên cái áo choàng run rẩy một cái lông chim cò to miền Camargue.
Vừa bước vào, viên Đệ nhất Mù tạt gia chào với một vẻ lịch thiệp rồi đi lại phía bậc thềm cao, nơi Giáo chủ đợi nó để chuyển giao những dấu hiệu cấp bậc của nó: cái muỗng vàng và chiếc áo màu nghệ. Con lừa ở phía dưới cầu thang, đeo đồ đủ và sẵn sàng để đi vườn nho. Khi đi ngang qua lừa, Tistet Védène nở một nụ cười niềm nở và dừng lại để thân mật vỗ lên lưng lừa hai ba cái, vừa nhìn qua khoé mắt xem Giáo chủ có nhìn thấy mình không? Vị trí tốt rồi….Con lừa lấy trớn: - Này hứng lấy tên cướp! Bảy năm nay tao giữ cho mày!
Và lừa tống cho hắn một đạp kinh khủng, thật kinh khủng đến ngay ở Pampérigouste người ta còn trông thấy hơi khói cái đá đó, một luồng khói đỏ hồng trong đó bay một ngọn lông chim: tất cả những gì còn lại của tên Tistet Védène bạc phước.
Những cú đá của lừa bình thường không đến sấm sét như vậy, nhưng lừa này là một con lừa của Giáo chủ; và với lại, các bạn hãy nghĩ, lừa giữ nó cho hắn từ bảy năm nay….Không có ví dụ tốt đẹp nào hơn cho sự thù hằn ở giới tu hành.
Chú thích: 1. Từ năm 1309 – 1378 các Giáo chủ đặt toà Thánh tại Avignon. 2. Thành phố Normandie, ám chỉ đến một bài ca danh tiếng của Béranger nói về một ông vua hiền lành. 3. Jeanne đệ nhất, Hoàng hậu thành Naples từ 1343 – 1382, bà đã bán miền Avignon cho Giáo chủ với giá 70.000 florins. 4. Premier Moutardier: Giáo chủ Avignon Jean XXII vốn thích mù tạt, và cho nó vào trong tất cả những thức ăn, nên tạo ra chức vị trên cho một người cháu của mình. 5. Trạng sư của quỷ: là một nhà Thần học có uy tín, trong một buổi phong thánh sẽ biện bác chống lại chuyện này.