Đúng bảy tháng đã trôi qua kể từ ngày các du khách lạc đến đảo Lincoln. Và từ đó đến nay, bất chấp mọi cuộc tìm kiếm, họ đã không phát hiện được một người nào cả. Ấy thế mà bây giờ đây, hôm ấy 24 tháng mười, trong bữa ăn trưa, Pencroff đã nhai phải một viên đạn chì trong món thịt heo quay.
Pencroff đặt viên đạn chì lên bàn, các bạn của anh kinh ngạc nhìn. Cyrus Smith đã nói ra một số giả thuyết của mình về cái vật kì lạ và bất ngờ được tìm thấy ấy. Ông hỏi Pencroff:
- Anh có tin con heo bị thương bởi viên đạn này được khoảng ba tháng tuổi không?
- Không thể nào hơn được thưa ngài Cyrus – Pencroff trả lời – Con heo con đang bú mẹ, khi tôi nhìn thấy nó ở dưới hố bẫy mà.
- Vậy là, – viên kỹ sư nói tiếp – độ ba tháng trước đây trên đảo Lincoln này có ai đó đã từng bắn súng…
- Và viên đạn chì, – Gédéon Spilett nói thêm – đã làm con thú bị thương tuy chưa tử thương.
- Hiển nhiên rồi. – Cyrus Smith nói tiếp – Và đây, từ tất cả những điều ấy cần phải rút ra kết luận: Hoặc là trên đảo, trước chúng ta đã có ai đó sống, hoặc là có người đã lên đây chừng ba tháng trước, không hơn. Họ chủ tâm hay bắt buộc phải cập vào bờ biển của ta, họ bị tai nạn tàu thuỷ hay khí cầu gì đó – ai mà biết được? Nhưng, những vấn đề này quan hệ với chúng ta mật thiết tới mức không thể để lâu hơn nữa.
- Tôi sẵn sàng nhắc lại trăm lần, ngàn lần rằng trên đảo Lincoln không có ai khác ngoài chúng ta. – chàng thuỷ thủ từ sau bàn đứng dậy kêu to lên.
- Không còn nghi ngờ gì nữa. – Cyrus Smith nói – Có ai đó đã bắn súng trên đảo này, và cách đây không quá ba tháng. Nhưng tôi bảo đảm rằng những người đã lên đảo ở lại đây không lâu và chỉ đơn giản đi qua đảo thôi. Nếu họ sống ở đây thì khi đi khảo sát đảo từ trên núi Franklin ta đã thấy họ, còn họ thì cũng đã thấy ta.
- Theo tôi, cần phải hành động một cách thận trọng. – nhà báo nhận xét.
- Ý kiến của tôi cũng vậy. – Cyrus Smith trả lời – Tôi e bọn cướp biển Mã Lai đã lên đảo!
- Thưa ngài Cyrus. – chàng thuỷ thủ nói – Chẳng phải tốt hơn sao, trước tiên ta hãy đóng một cái thuyền, rồi sau đó đi thám thính khu vực, chúng ta sẽ bơi ngược dòng sông, còn nếu muốn thì bơi ra biển và vòng quanh đảo! Chỉ cốt sao chúng ta không bị tập kích!
- Một ý kiến hay đấy, Pencroff ạ! – viên kỹ sư trả lời – Nhưng không thể chờ đợi được. Bởi vì nhanh nhất cũng phải mất một tháng anh mới đóng xong chiếc thuyền.
- Thuyền thực sự thì vậy. – chàng thuỷ thủ trả lời – Nhưng chúng ta không cần thuyền để bơi trên biển, nhiều nhất là năm ngày tôi bảo đảm đóng xong cái thuyền đáy bằng vỏ cây theo kiểu thuyền của người da đỏ có thể bơi trên sông của ta…
Ngày hôm sau, Pencroff hối hả bắt tay vào việc đóng thuyền dưới sự hướng dẫn của kỹ sư.
*
* *Ngày 29 tháng mười, Pencroff đã giữ đúng lời hứa và trong năm ngày đã đóng xong chiếc thuyền bằng vỏ cây, thân được gắn kết bằng những cành cây mền dẻo. Một chiếc thang đặt ở đuôi thuyền, thang giữa được gia cố hai bên mạn thuyền, thang thứ ba ở mũi thuyền để làm cọc chèo. Thuyền còn được trang bị hai mái chèo, mái chèo ở đuôi dùng để lái. “Con tàu nhỏ” ấy dài mười hai bộ và trọng lượng không quá hai tạ. Hạ thuyền xuống nước chẳng khó khăn gì. Con nước lên đã tự nâng nó. Pencroff nhảy phắt vào thuyền, thử lái bằng mái chèo ở đuôi và tin chắc rằng con thuyền đạt yêu cầu.
- Hoan hô! – chàng thuỷ thủ kêu to, được thể khoe khoang sự thành công của mình – Chúng ta có thể ngồi lên chiếc thuyền này đi du lịch vòng quanh…
- Thế giới? – Gédéon Spilett nói hòa theo.
- Không, vòng quanh đảo… Nào, các bạn, trèo lên, xem con tàu mới của chúng ta có chịu trọng lượng của năm người không!
Thế là tất cả ngồi vào thuyền, phân công nhau bơi. Họ bơi xa khỏi bờ để nhìn thấy hết tầm núi Franklin, rồi vòng trở lại cửa sông. Họ bơi như vậy được ba phần tư giờ; con thuyền đã gần đến cuối mũi đảo, và Pencroff đã định bơi vòng qua đó thì bỗng Harbert chồm lên và chỉ tay vào một chấm đen nào đó kêu to:
- Có cái gì đó ở trên bãi cát đằng kia kìa!
Mọi người nhìn về hướng đó.
- Đúng, ở đấy có cái gì thật. – chàng nhà báo nói.
- Chà! – Pencroff kêu to – Thế mà tôi lại biết đó là cái gì đấy.
- Cái gì vậy? – Nab hỏi.
- Một cái thùng phuy! Thùng phuy – và khả năng đó là những thùng phuy chứa đầy hàng! – chàng thuỷ thủ đáp.
Con thuyền cập vào bờ…
Pencroff đã không lầm. Trên bờ là hai cái thùng phuy bị cát vùi đến lưng chừng và buộc chặt vào một cái hòm to nổi trên mặt nước.
- Không nhẽ gần hòn đảo của chúng ta lại xảy ra một tai nạn đắm tàu? – Harbert hỏi.
- Có lẽ! – Gédéon Spilett trả lời.
- Trong hòm có cái gì nhỉ! – Pencroff sốt ruột kêu lên – Hòm đóng kín, lại chẳng có gì để cạy nắp ra!
Chàng thuỷ thủ đã định lấy hòn đá to đập vào thành hòm, nhưng viên kỹ sư ngăn lại, ông yêu cầu mọi người buộc các thứ tìm được vào thuyền, kéo về Lâu đài Đá hoa cương để mở ra và kiểm tra.
Tất cả những người khai khẩn thật là vui sướng, bởi trong hòm có đủ các loại dụng cụ: dao, rìu, bào, đục, dũa, cưa, khoan, đinh ốc, đinh vít; nhiều loại vũ khí khác nhau. Súng săn, súng cabin, kèm theo nhiều đạn dược; các loại khí cụ, máy lục phân, ống nhòm, dụng cụ vẽ, địa bàn, nhiệt kế Fahrenheit, phong vũ biểu, một chiếc máy ảnh kèm theo các dụng cụ, phụ tùng cần thiết như: ống kính, phim, giấy và hoá chất in phóng ảnh; nhiều quần áo vải và bít tất; đủ các loại dụng cụ nấu ăn: nồi, xoong, đồ dùng bằng nhôm, bình trà, dao. Và sách gồm nhiều cuốn: thánh kinh, tập bản đồ, từ điển thổ ngữ Polinesia, bách khoa toàn thư khoa học tự nhiên gồm sáu tập, giấy viết và sổ sách.
Sau khi thống kê xong, chàng nhà báo nói:
- Chủ của chiếc hòm này là người biết lo xa không chê vào đâu. Ở đây chẳng còn thiếu thứ gì. Quả thật cỏ thể nghĩ rằng ông ta đã đợi tai nạn đắm tàu và đã chuẩn bị trước!
Trong ngày, những người khai khẩn đã chuyển hết các thứ đồ họ bắt được vào Lâu đài Đá hoa cương và xếp cẩn thận trong phòng lớn.
*
* *Sang ngày hôm sau, 30 tháng mười, những người ngụ cư chuẩn bị lên đường. Bây giờ, sau tất cả những gì mới xảy ra, việc nghiên cứu đảo không thể trì hoãn được.
Gédéon Spilett đề nghị khảo sát đảo để giải quyết dứt khoát vấn đề ở đây đã có xảy ra tai nạn đắm tàu không.
Ba giờ chiều, họ đến một vịnh hẹp, kín, là một bến cảng thiên nhiên tốt. Mọi người lên bờ, ăn trưa, rồi hết sức chăm chú nhìn qua ống nhòm quan sát vùng duyên hải cần nghiên cứu, bắt đầu từ bờ cát tới các dải đá ngầm, nhưng không phát hiện thấy dấu vết vụ tai nạn đắm tàu nào.
- Vậy thì kết luận thế nào đây? – chàng nhà báo hỏi.
- Kết luận là thế này – viên kỹ sư đáp – Khoảng ba tháng trước, có một con tàu lạ đã cố ý hoặc bị bắt buộc ghé vào đây…
- Thế nghĩa là, thưa ngài Cyrus, ngài cho rằng con tàu đã biến mất tăm? – nhà báo hỏi.
- Không, Spilett thân mến, nhưng anh hãy đồng ý rằng bây giờ nó không còn ở đây nữa.
- Nghĩa là, thưa ngài Cyrus, nếu cháu hiểu ngài đúng thì con tàu đã bơi đi mất rồi? – Harbert nói.
- Có lẽ!
- Nếu đã lỡ cơ hội rồi thì ta về thôi! – Pencroff nói, anh chàng đã bắt đầu nhớ Lâu đài Đá hoa cương.
Nhưng anh vừa đứng dậy thì thấy có tiếng con Top sủa vang. Con chó từ trong rừng phóng ra, răng ngoạm một miếng gì bẩn thỉu. Nab giật miếng ấy ra khỏi mõm con chó. Anh nhận thấy đó là một mảnh vải gai.
Con Top sủa đầy kích động, nó chạy, nhảy như mời ông chủ đi theo nó vào rừng.
- Biết đâu lời giải đáp về viên đạn chì ở đó cũng nên! – Pencroff thốt lên.
Và tất cả đều đi theo con chó, họ lách giữa những cây thông cao dựng thành bức tường ở cửa rừng. Cyrus Smith và các bạn của ông đều lên đạn súng, đề phòng mọi sự bất trắc.
Những người khai khẩn đi sâu vào rừng, nhưng họ đã thất vọng, họ không phát hiện thấy dấu chân người.
- Mày làm sao thể Top? – Cyrus Smith hỏi.
Con Top càng sủa càng to hơn và chạy nhảy loăng quăng bên cạnh một gốc cây thông khổng lồ cành lá xum suê.
- Tuyệt thật! Ra thế đấy! – Bỗng Pencroff reo lên.
Và chàng thuỷ thủ chỉ tay lên một mảnh vải lớn có màu trắng trên ngọn thông: con Top có lẽ đã tha về cho họ miếng vải rách, rơi dưới đất.
- Không nhẽ đó là…
- Phải rồi, đó là tất cả những gì còn lại của quả khí cầu bay, khi nó bị mắc trên cành cây.
Pencroff đã không lầm và lại kêu lớn lên: Hoan hô!
- Thế là lại có thứ vải tuyệt diệu nữa! Chúng ta sẽ có vải may quần áo mặc trong nhiều năm liên tiếp! Chúng ta sẽ may khăn tay và áo! Thế nào, thưa ngài Smith, ngài sẽ nói gì về hòn đảo có vải bọc trên cây?
Họ quyết định giữ gìn vỏ khí cầu để sau này nếu cần sẽ du hành trên không, hoặc dùng vài trăm vuông vải sợi tốt vào việc có ích, sau khi đã khử hết dầu trong vải. Dĩ nhiên mọi người đã chia sẻ niềm vui của Pencroff.
Nhưng cần phải hạ vỏ khí cầu từ trên cây xuống và cất giấu vào một nơi chắc chắn. Tiến hành việc đó không phải dễ dàng. Nab, Harbert và chàng thuỷ thủ đã leo lên ngọn thông và loay hoay mất hơn hai giờ mới hạ được xuống đất vỏ khí cầu cùng với van khí, lò xo, các bộ phận bằng đồng, lưới, các dây cáp.
Đêm xuống dần. Những người ngụ cư quyết định để thuyền lại, đi bộ trở về lâu đài. Khi các khách bộ hành của chúng ta về đến mũi Tìm thấy, nơi họ phát hiện ra thùng đồ quý báu, trời đã bắt đầu tối. Cả ở đây nữa họ cũng không tìm thấy dấu vết tàu đắm và đành phải đồng ý với kết luận của Cyrus Smith đã rút ra.
Từ mũi Tìm thấy đến Lâu đài Đá hoa cương còn bốn dặm nữa. Họ đi men theo bờ biển và về đến khúc sông Tạ ơn thì đúng nửa đêm. Khúc sông ở đây rộng tám mươi bộ, nhưng vượt qua không phải dễ dàng.
Trong lúc Pencroff và Nab đóng bè để qua sông thì Cyrus Smith và Gédéon Spilett ngồi đợi, cần gì thì giúp, còn Harbert đi dạo ngược dòng ngay lúc đó.
Bỗng chú chạy trở lại và chỉ xuống sông kêu lên:
- Xem kìa! Cái gì dưới đó vậy?
- Ê, thuyền kìa! – Pencroff kêu theo thói quen của một chàng thuỷ thủ.
Không một lời đáp lại! Con thuyền vẫn tiến gần, và khí nó còn cách họ chừng mười hai bước, chàng thuỷ thủ kinh ngạc thốt lên:
- Ơ, thuyền của ta đây mà! Nó bị đứt neo, nên nó mới trôi xuôi dòng. Thật đúng lúc ghê!
- Thuyền của ta ư? – kỹ sư lẩm bẩm.
Nab và chàng thuỷ thủ đã khéo léo dùng một cái sào dài móc chiếc thuyền vào bờ.
Viên kỹ sư nhảy xuống thuyền trước tiên, túm lấy sợi dây neo, sờ nắn và tin chắc là nó đã bị cứa vào vách đá đứt thật. Chàng nhà báo khẽ nói với ông:
- Tôi cho đây là một trường hợp…
- Rất lạ kì! – Cyrus Smith nói nốt ý của chàng nhà báo.
Dẫu sao thì sự ngẫu nhiên này cũng là một dịp may! Mọi người xuống thuyền. Họ không nghi ngờ rằng dây neo bị cắt đứt! Kì lạ hơn con thuyền đã xuất hiện đúng lúc và những người ngụ cư ở trên bờ có thể tóm được nó. Chứ chậm một lát nữa thôi là nó trôi hút ra biển mất rồi.
Sau mấy nhịp chèo những người khai khẩn đã trở về đến cửa sông Tạ ơn. Họ lôi thuyền lên bờ cát gần Hang ngụ cư, và tất cả đi về chỗ thang dây của Lâu đài Đá hoa cương.
Nhưng bỗng con Top bắt đầu sủa dữ dội, còn Nab thì mò mẫm tìm bậc thang thứ nhất và hét lên kinh hoàng.
Thang dây đã biến mất.
*
* *Cyrus Smith im lặng dừng lại. Các bạn của ông sờ soạng tìm trong đêm tối bức tường đá hoa cương. Thoạt đầu họ tưởng gió đã thổi bay chiếc thang đi, sau họ lại cho rằng thang bị đứt, nên tìm mãi trên mặt đất. Nhưng chiếc thang dây đã không còn ở đó nữa.
- Tôi bắt đầu nghi ngờ rằng trên đảo Lincoln đang xảy ra những việc kì quái! – Pencroff càu nhàu.
- Các bạn, – Cyrus Smith lên tiếng – chúng ta chỉ còn mỗi một cách. Đợi đến sáng và lúc đó thì tùy tình hình mà hành động. Còn tạm thời chúng ta hãy về Hang ngụ cư, nhịn đói bữa tối đi ngủ vậy.
Nói thế chứ làm sao mà chợp mắt được. Lâu đài Đá hoa cương đâu phải chỉ là chỗ ở, mà còn là kho chứa các tài sản của họ: vũ khí, dụng cụ, khí cụ, đạn dược…
Trời vừa hửng sáng, những người khai khẩn trang bị đủ lệ bộ trở lại Lâu đài Đá hoa cương. Không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là có ai đó đã lọt vào lâu đài của họ.
Đoạn thang trên bậu đá dẫn lên cửa ra vào vẫn còn nguyên tại chỗ, thế nhưng đoạn thang dưới đã bị ai đó kéo lên tận thềm cửa. Rõ ràng là những người xộc vào nhà đã tìm cách đề phòng mọi chuyện bất ngờ.
Harbert nảy ra ý tưởng buộc dây vào mũi tên bắn lên, sao cho mũi tên xuyên qua những thanh ngang phía dưới thềm cửa, rồi khẽ kéo sợi dây – thang rơi xuống đất, khi đó họ sẽ trèo lên Lâu đài Đá hoa cương.
Mũi tên bay trúng đích. Công việc đã tiến hành xong. Harbert chụp ngay lấy đầu dây, trong khoang cửa thoáng xuất hiện cánh tay của ai đó túm lấy chiếc thang và kéo nó trở lại Lâu đài Đá hoa cương.
- Ai thế nhỉ? – Nab hỏi.
- Đó là con khỉ đấy! Bầy khỉ đã chiếm nhà của chúng ta rồi. Chúng đã leo lên thang dây trong lúc chúng ta đi vắng.
Đúng lúc ấy, như thể khẳng định lời chàng thuỷ thủ là đúng, ba, bốn con vật bốn chân thò đầu ra cửa sổ, mếu môi, nhăn mặt như muốn chào các du khách theo kiểu của mình.
- Tôi đã biết mà, tất cả những chuyện này là trò giễu cợt của kẻ nào đó thôi, – Pencroff thét lên – Hãy cho một tên cợt nhả ấy trả giá cho tất cả bọn chúng.
Chàng thuỷ thủ nâng súng lên, ngắm nhanh và bóp cò. Bầy khỉ biến mất, chỉ còn một con bị thương rơi xuống bờ cát.
- Chẳng nhẽ không còn cách gì lên được trên đó hay sao? – Pencroff sốt ruột thốt lên.
- Có một cách. – viên kỹ sư nói, có lẽ ông đã nghĩ ra được điều gì. Một lát sau ông nói tiếp. – Ta thử lần theo đường thoát nước cũ để xuống Lâu đài Đá hoa cương xem.
Họ đi chưa đầy năm chục bước đã nghe tiếng con Top sủa vang gọi lại. Mọi người vội vã chạy về theo hướng bờ sông và thấy bầy khỉ hoảng hốt lao đến các cửa sổ. Năm sáu con đã trở thành mục tiêu cho họ nổ súng. Những con bị thương và chết rơi vào các phòng. Những con còn lại liều mạng nhảy xuống đất. Mấy phút qua, hình như trong Lâu đài Đá hoa cương không còn con khỉ nào nữa.
Vừa lúc ấy, họ thấy chiếc thang được tuồn từ phía sau ngưỡng cửa ló ra và rơi xuống.
- Tuyệt thật! – chàng thuỷ thủ kêu to, ngó sang Cyrus Smith.
- Đúng, tuyệt thật! Nhưng đâu phải là quá đáng? – kỹ sư lẩm bẩm và là người đầu tiên leo lên thang dây.
- Hãy cẩn thận đấy, ngài Cyrus! – Pencroff kêu – Có thể lũ khỉ còn ở trên ấy.
- Bây giờ ta sẽ thấy. – kỹ sư nói, không dừng lại.
Các bạn ông bắt đầu trèo theo và một phút sau họ đã lên đến ngưỡng cửa. Họ lục soát khắp nhà. Không thấy ai trong các phòng ở lẫn nhà kho.
- Thế việc ném cho ta chiếc thang dây thì giải thích sao nhỉ? – chàng thuỷ thủ nhận xét – Bậc quân tử nào đã thả nó xuống?
Vừa lúc ấy có tiếng kêu vang lên và một con khỉ lớn trốn ngoài hành lang lao vào phòng, Nab đuổi theo sau nó.
- À, mày là tên cướp! – Pencroff thét lên.
Anh vùng rìu định bổ vỡ sọ con vật, nhưng Cyrus Smith ngăn lại.
- Hãy thương hại con khỉ, Pencroff!
Mọi người lao đến chỗ con khỉ, nó chống cự một cách dữ tợn, nhưng nó đã bị đè xuống và người ta trói chặt nó lại.
- Ôi chao! – Pencroff thở hồng hộc – Thế chúng ta biết làm gì với nó bây giờ?
- Cho nó làm việc phục dịch! – Harbert trả lời.
Khi nói điều ấy chú bé không định đùa bỡn, chú biết một con khỉ thông minh có thể đem lại ích lợi như thế nào.
Thế là trên đảo lại xuất hiện thêm một người khai khẩn nữa, mà sau này nó đã đóng góp nhiều công lao cho mọi người. Theo đề nghị của chàng thuỷ thủ, và để kỷ niệm về một con khỉ mà đã có dịp nào đó trong đời anh đã biết đến, anh gọi nó là Jupiter, mọi người đồng ý đặt cho thành viên mới cái tên tắt là “Jup”.