- Tiến lên! – nhà báo kêu to.
Thế là bốn người – Gédéon Spilett, Harbert, Pencroff và Nab – quên cả đói và mệt, lao vào cuộc tìm kiếm người bạn đồng hành của mình.
Chú Nab tội nghiệp đã khóc vì tức giận và thất vọng, anh ta cho rằng mình đã bị mất một vị chủ nhân cao quý nhất trên đời.
Từ lúc Cyrus Smith mất tích đến giờ chưa đầy hai phút, vì vậy những người bạn đi cùng với ông ta, sau khi vào được bờ, vẫn còn có thể hy vọng kịp thời cứu kỹ sư.
- Phải tìm ông ấy! – Nab kêu toáng lên.
- Đúng thế, Nab ạ! – Gédéon Spilett đáp.
Viên kỹ sư đã mất tích ở vùng biển phía bắc, cách nơi những người bị quẳng xuống mặt đất chừng nửa hải lý. Nếu ông ta kịp vào được bãi cát gần nhất có nghĩa là ông đã phải đi được nhiều nhất là nửa hải lý.
Đã sáu giờ chiều. Sương mù dày đặc, trời tối mịt. Những người đào thoát bằng khí cầu bị tai nạn đi về phía bắc, dọc theo bờ phía đông mảnh đất mà số phận đã đẩy họ đến. Đây là vùng đất họ hoàn toàn không quen biết, càng không thể dự đoán vị trí địa lý của nó.
Lúc ấy đoàn du khách mới quanh qua đầu mũi biển và đi tiếp trên nền đất pha cát đá. Nhưng Pencroff nhận thấy bờ biển mỗi lúc một dựng đứng.
- Chúng ta đã lạc vào một hòn đảo nhỏ rồi! – Pencroff nói – Và ta đã đi hết hòn đảo, từ đầu này đến đầu kia.
Ban đêm trời trở lạnh. Những người chạy trốn rủi ro bị tê cóng, nhưng hầu như họ không để ý đến nỗi khốn khổ của mình.
Đêm đầu tiên trôi qua, sang ngày 25 tháng ba, khoảng sáu giờ rưỡi, mặt trời mọc, sương mù mỗi lúc một mỏng hơn. Chẳng bao lâu toàn bộ hòn đảo nhỏ hiện rõ dần. Sau đó, trong màn sương mù hiện ra một vùng biển hình bán nguyệt màu xanh thẫm, phía đông mênh mông, phía tây có bờ dốc đứng thẳng bằng đá hoa cương. Hy vọng bên ấy là vùng đất liền, là nơi cứu thoát, những người khách viễn du đã đợi thuỷ triều xuống, bơi qua eo biển sang đó. Nab và Spilett đi dọc theo bờ biển, tiếp tục tìm kỹ sư Smith.
Harbert định đi cùng họ, nhưng Pencroff ngăn lại:
- Đừng đi chú bé! Anh cần chú chuẩn bị chỗ trú ẩn và kiếm thức ăn. Khi các bạn của chúng ta trở về, họ cần phải được bồi dưỡng.
- Em đồng ý, anh Pencroff. – Harbert đáp.
- Thế thì tốt lắm! – chàng thuỷ thủ khen – Chúng mình mệt rồi, lại bị đói, rét hành hạ. Thành thử, mọi người cần có chỗ ở, lửa và thức ăn. Củi trong rừng chắc là vô khối, ở đó còn có tổ chim. Ta sẽ lấy trứng, vậy là chúng ta chỉ việc kiếm chỗ ở nữa thôi.
Harbert đã để ý thấy một vách đá phủ đầy rong – có lẽ lúc triều lên chúng đã bị ngập dưới biển. Trên những vách đá ấy, xen giữa những đám cỏ biển trơn trượt có rất nhiều sò bám vào. Đó là loài giáp xác ruột mềm có thể ăn được. Harbert lên tiếng gọi Pencroff, anh ta chạy lại ngay.
- Ồ, hến đây rồi! – chàng thuỷ thủ thốt lên – Trong lúc mình chưa kiếm được chim thì đã có thứ này thay cho trứng chim rồi.
- Đây không phải là hến đâu. – Harbert chăm chú quan sát những con sò và nhận xét. – Đây là những con sò.
- Thế thứ này có ăn được không? – Pencroff hỏi.
- Còn phải nói! Thử đi! Ngon cực kỳ.
- Thế thì ta nếm thử con sò xem sao.
Chàng thuỷ thủ có thể hoàn toàn trông cậy vào Harbert. Cậu bé đã tỏ ra rất am hiểm về kiến thức tự nhiên và luôn luôn say mê môn ấy. Người cha quá cố đã hướng dẫn cậu đi vào con đường này và tạo điều kiện cho cậu được học với những giáo sư nghiên cứu tự nhiên xuất sắc nhất của thành phố Boston. Cậu bé thông minh và cần mẫn ấy đã lập tức được các thầy giáo yêu mến.
Pencroff và Harbert ăn thả cửa những con sò hé mở vỏ dưới ánh sáng.
Trong khi đi về phía nam chừng hai trăm bước họ phát hiện ra một khe núi. Nơi đó, đúng như Pencroff nghĩ, có một con sông nhỏ hẹp nhưng đầy nước đang chảy. Bên cạnh một bức tường đá hoa cương dường như bị nứt ra do chấn động địa chất. Cửa khe tạo thành một cái vịnh nhỏ hình tam giác.
- Ở đây có nước, còn đằng kia có củi! – Pencroff thốt lên – Harbert này, thế là bây giờ ta chỉ còn thiếu căn nhà nữa thôi!
Con sông nhỏ nước trong vắt, Pencroff tin chắc rằng nước rút, sóng biển không dâng tới thì nước sông ngọt và có thể uống được.
Cách cửa sông không xa lắm, họ đã tìm được một đống đá tảng xếp chồng rất độc đáo. Những công trình thiên nhiên như thế hiếm khi nào bắt gặp trên những vùng đá hoa cương.
Nghiên cứu “mê cung” ấy, Pencroff và Harbert đã đi khá sâu vào bên trong vách đá theo lối nhỏ rải đầy cát, ánh sáng lọt vào đây qua những khe hở giữa các tảng đá được sắp xếp cân đối một cách kỳ diệu. Tuy nhiên lọt qua các khe không phải chỉ có ánh sáng mà cả gió nữa. Nhưng Pencroff đã quyết định, nếu chặn vài lối, lấy đá bịt các lỗ thì “căn nhà ổ chuột” – như anh ta gọi, – cũng có thể làm nơi trú ẩn được.
- Chỗ ở dễ thương ghê! – Pencroff nói.
Harbert thốt lên:
- Chúng mình lo liệu chốn này sao cho kha khá một chút. Trước tiên ta phải xây một cái lò ở hành lang bên trái và khoét rộng cái lỗ ở trên để cho khói thoát ra.
- Này, chuyện lò xây thì chả khó gì đâu, cậu bé thân mến ạ! – chàng thuỷ thủ nói – Nhưng việc đầu tiên là hãy đi kiếm củi dự trữ đã. Anh nghĩ cành hay củi cũng có ích, ta sẽ dùng nó để che các khe hở lại.
Việc kiếm củi hoá ra rất dễ, thậm chí chẳng cần phải bẻ những cành khô – củi nằm đầy trên mặt đất.
Họ tranh thủ làm một chiếc bè. Một giờ sau họ hoàn thành công việc chất toàn bộ số củi nhặt được lên đó và đẩy bè ra phía bờ sông, đợi khi nước xuống sẽ thả cho bè trôi.
Còn vài giờ nữa nước mới bắt đầu xuống. Để giết thời gian, Pencroff và Harbert đã trèo lên các vách đá và tìm thêm nguồn thức ăn. Trong các hẻm, hốc ở đây có đến hàng trăm loài chim làm tổ, nhiều nhất là loài bồ câu núi.
Pencroff và cậu bé bắt đầu xem xét thật cẩn thận tất cả các hẻm, hốc giữa các tảng đá hoa cương; trong tổ có trứng thật. Họ nhặt vài chục trứng bồ câu, đem bọc vào khăn tay của chàng thuỷ thủ. Sau đó, họ theo sườn núi đi về phía dòng sông, đến chỗ để củi, chuẩn bị thả bè.
Pencroff kiếm dây leo khô, bện thành một sợi dây dài vài sải tay, xong anh buộc nó vào phía sau bè, đầu kia chàng thuỷ thủ dùng tay nắm giữ, còn Harbert thì cầm một cây sào dài đẩy chiếc bè từ bờ ra giữa lòng sông.
Pencroff vừa đi trên bờ, vừa giữ sợi dây cho chiếc bè chở nặng trôi theo dòng nước, khoảng hai giờ sau, chiếc bè về đến cửa sông gần nơi tạm trú của họ.
*
* * Vừa bốc xong củi trên bè xuống, việc Pencroff quan tâm đầu tiên là biến hẻm đá thành nơi tạm trú hoặc có khả năng sẽ thành nơi trú ẩn lâu dài. Anh che kín các hành lang để khỏi bị những cơn gió lùa vào, Pencroff và Harbert dùng cát, đá, những tấm phên đan bằng cành cây và trét đất sét nhão để bịt chặt các hành lang thông gió, chỉ chừa lại một lối hẹp, ngoằn ngoèo nối với hành lang bên cạnh để làm ống khói, tạo sức hút cho bếp lò. Bây giờ Hang ngụ cư đã có ba, bốn “phòng”. Ở đây khô ráo, và có thể đứng thẳng người, ít nhất là trong “phòng” lớn nhất nằm ở chính giữa. Nền đất chỗ nào cũng rải cát mịn.
Công việc sửa sang nơi ở mới đã mau chóng kết thúc. Chỉ còn lại việc đắp lò và chuẩn bị bữa trưa. Họ đã xếp những viên đá thành một cái bếp bên cạnh ống thông khói khuất sâu trong hành lang đầu tiên, phía bên trái. Chàng thuỷ thủ bắt đầu chất củi và các cành khô nhỏ vào bếp lò. Anh ta chưa kịp hoàn tất công việc thì đột nhiên Harbert hỏi:
- Để nhóm bếp và đốt lò sưởi, chúng ta phải có diêm chứ?
- Dĩ nhiên! – Pencroff đáp – Không có diêm, không có đá đánh lửa thì chết mất.
- Hoàn toàn không đâu. Chúng ta vẫn có thể lấy được lửa bằng cách cọ xát những viên đá cứng như những người hoang sơ từng làm ấy! – Harbert không chịu chấp nhận lập luận của Pencroff.
- Không! Tốt hơn hết là nên nhóm lửa bằng diêm. Ủa, hộp diêm đâu rồi?
Pencroff lục tìm hộp diêm trong túi áo bludông mà theo thói thường của người nghiện thuốc lá, không khi nào anh rời xa được. Nhưng chẳng thấy nó đâu cả.
- Tai hoạ thật rồi! – Pencroff nói, bối rối nhìn Harbert – Chắc là nó đã rơi khỏi túi khi bay. Anh đã đánh mất hộp diêm. Còn em cũng không có gì ư, Harbert?
- Không, anh Pencroff. Em không có gì cả!
Chàng thuỷ thủ, và theo sau là Harbert, ra khỏi chỗ ở, Pencroff bực tức lau trán.
Hai người cần mẫn tìm kiếm trên cát và giữa các khe đá bên bờ sông, nhưng vô ích. Cái hộp con bằng đồng mà Pencroff đựng diêm trong đó có lẽ đã mất thật rồi.
Harbert im lặng. Việc mất hộp diêm tất nhiên là một sự kiện đau lòng, nhưng cậu bé hy vọng rằng bằng cách này hay cách khác, thế nào rồi cũng sẽ tìm ra cách lấy được lửa. Nhưng lúc này họ đành phải đợi Nab và nhà báo trở về. Còn đãi họ món sò sống thì chắc chắn họ sẽ không thích.
Đề phòng trường hợp không thể nhóm lửa được, chàng thuỷ thủ và Harbert đã bổ sung thêm số sò dự trữ, sau đó họ im lặng đi về chỗ của mình.
Gần sáu giờ, mặt trời đã khuất sau đỉnh núi cao phía tây. Harbert lững thững đi trên bờ biển, cậu thấy có hai bóng người đi lại, vô cùng mừng rỡ, cậu reo lên báo tin cho Pencroff là Nab và Gédéon Spilett trở về. Nhưng khi chợt nhận ra họ chỉ có hai người!... Tim cậu bé thắt lại với một nỗi buồn khôn xiết.
Sau khi nghỉ ngơi để lấy lại sức, nhà báo cho biết cuộc tìm kiếm Cyrus Smith không đem lại kết quả. Cùng với Nab, anh đã đi dọc bờ biển hơn tám dặm, như vậy là họ đã tìm trong phạm vi rất rộng xung quanh nơi mà viên kỹ sư và con chó Top của ông đã bị mất tích nhưng không mảy may thấy một dấu vết nào về sự có mặt của ông.
- Ôi, tôi kiệt sức rồi! – Nab khẽ nói.
Harbert chạy đến chỗ anh và an ủi.
- Anh Nab. – cậu bé nói – Đừng thất vọng! Thượng đế sẽ trả ông ấy về với chúng ta! Còn bây giờ anh hãy bình tĩnh lại, hãy nghỉ đi, anh bị đói rồi. Hãy bồi dưỡng một chút đi. Em mời anh ăn đấy.
Vừa nói những điều ấy, cậu bé vừa để trước mặt Nab tội nghiệp mấy vốc sò.
Đã nhiều giờ trôi qua, Nab không ăn gì, bây giờ anh lại từ chối dùng bữa. Bị mất ông chủ kính yêu, anh thấy mình không thiết sống nữa!
Còn Gédéon Spilett thì từ tốn ăn không ít những con sò biển rồi nằm trên lớp cát dưới chân một tảng đá. Anh cũng bị kiệt sức lắm rồi, tuy còn bình tĩnh. Harbert bước lại chỗ anh và nói:
- Thưa ông Spilett, cháu và anh Pencroff đã tìm được một nơi tạm trú, ông về đó nghỉ sẽ tốt hơn ở đây nhiều. Đêm đã bắt đầu xuống rồi. Ta đi nào! Ông cần nghỉ ngơi đã! Còn ngày mai chúng ta sẽ tính xem mình nên làm gì.
Nhà báo đứng dậy và Harbert dẫn anh ta về Hang ngụ cư.
Lúc ấy Pencroff đi lại chỗ Spilett và bằng một giọng rất tự nhiên anh hỏi xem anh ta có tình cờ giữ được que diêm nào không.
Nhà báo đứng dậy sờ nắn các túi, nhưng không tìm thấy gì cả. Anh đáp:
- Diêm thì tôi đã từng có đấy, nhưng chắc là tôi vứt đi mất rồi…
Khi ấy Pencroff mới hỏi đến Nab, và cũng được trả lời y như vậy.
Nab đau khổ nhắc lại:
- Giá ông chủ tôi có ở đây thì ông ấy đã biết cách lấy được lửa.
Cả bốn người lặng đi, họ lo lắng nhìn nhau. Harbert là người đầu tiên lên tiếng phá vỡ sự im lặng nặng nề.
- Thưa ông Spilett, ông là người thường hút thuốc. Lúc nào cũng mang diêm theo chứ! Xin ông hãy tìm kỹ cho! Chúng ta chỉ cần một que diêm là đủ.
Nhà báo lục tìm một lần nữa trong các túi áo gilê, túi quần, túi áo măng tô và cuối cùng, đã nắn thấy một que diêm mảnh mai ở dưới lớp áo lót gilê. Anh cảm nhận được que diêm qua lớp vải và dùng mấy ngón tay giữ chặt nó, nhưng không rút ra được.
- Ông hãy để cháu lấy ra nhé? – Harbert nói.
Cậu bé rút que diêm ra khỏi lớp vải lót áo gilê một cách nhanh chóng và nó còn nguyên vẹn. Que diêm chẳng đáng giá là bao trước đây nhưng bây giờ nó rất quý báu đối với họ. Đầu diêm không bị xây xát gì hết.
- Que diêm! – Pencroff kêu lên – Tôi mừng tưởng như có cả một xe diêm vậy!
Điều trước tiên chàng thuỷ thủ khẳng định là que diêm hoàn toàn khô.
Vài giây sau đã nghe thấy tiếng củi kêu lách tách, và trong đêm ánh lửa reo vui vẻ, chàng thuỷ thủ ra sức thổi cho nhúm lửa cháy bùng lên.
- Có thế chứ! – Pencroff kêu lên và đứng dậy – Tôi kiệt sức mất rồi! Chưa bao giờ tôi hồi hộp đến như thế.
Thật là vui sướng khi nhìn thấy ngọn lửa cháy rực trong bếp lò làm bằng mấy viên đá phẳng xếp lại. Khói thoát ra thoải mái qua một đường hẹp, chẳng bao lâu không khí ấm áp dễ chịu lan toả khắp Hang ngụ cư. Chuyện duy trì ngọn lửa tất nhiên là phải chú ý; đó là tất cả tài sản họ có được lúc này; bao giờ họ cũng vùi vài hòn than hồng dưới một lớp tro khô.
Pencroff biết đến năm mươi hai cách làm món trứng, nhưng ở đây anh không được chọn lựa, anh đành phải đem trứng vùi vào tro nóng đến lúc nào chín thì lấy ra.
Vài phút sau, chàng thuỷ thủ mời Gédéon Spilett cùng ăn bữa tối đầu tiên của những người chạy trốn bằng khinh khí cầu và gặp tai nạn. Những quả trứng hoá ra rất ngon và do trứng chứa nhiều chất bổ cần thiết cho con người, nên các vị khách viễn du không may đã được bồi dưỡng tốt và chẳng bao lâu họ cảm thấy khoẻ khoắn ra.
Thế là ngày 25 tháng ba trôi qua. Đêm xuống. Từ bên ngoài vẳng lại tiếng gió hú và tiếng sóng biển dội vào bờ không ngớt. Sóng cuốn xô vào vách đá và thét gào dữ dội.
Sau khi ghi vội vào cuốn sổ tay những sự kiện của một ngày ngụ cư trên vùng đất không quen biết, nhà báo nằm vào một góc hành lang tối và thiếp đi.
Harbert cũng ngủ ngay sau đó. Chàng thuỷ thủ thì “ngủ nửa mắt” bên bếp lò, vì anh không quên nhiệm vụ chất củi vào bếp.
Còn Nab thì suốt đêm lang thang trên bờ biển và gọi ông chủ của mình, mặc dù các bạn anh hết lời khuyên anh nằm ngủ một lát để giữ gìn sức khoẻ.
*
* * Tài sản của các nhà du hành bị nạn chẳng còn gì ngoài bộ quần áo mặc trên mình. Tuy nhiên, do một sự tình cờ Gédéon Spilett còn giữ được nguyên vẹn chiếc đồng hồ và cuốn sổ ghi chép, không ai giữ được vũ khí, dụng cụ cá nhân, thậm chí một con dao nhíp nhỏ. Các du khách đã vứt bỏ hết mọi thứ ra khỏi giỏ treo để giảm bớt lượng tải của khí cầu khi nó bị mất hơi gas.
Trước khi định cư trên bờ biển các du khách lại cần biết họ bị rơi xuống chỗ nào? Ở vùng này có người sinh sống không? Hay đây là bờ biển hoang?
Một vấn đề quan trọng như thế cần phải được làm sáng tỏ càng sớm càng tốt. Tất cả những phương sách mà các lữ khách của chúng ta có thể thực hiện đều tùy thuộc vào điều ấy.
Để sinh sống tạm thời thì chỗ này có thể cho là tương đối tốt. Lửa nhóm được, giữ lửa bằng cách ủ than hồng dưới lớp tro cũng không khó lắm. Sò trên bờ biển và trứng bồ câu rừng trên các vách núi là nguồn lương thực không bao giờ cạn. Bồ câu lượn hàng trăm con trên bầu trời, có thể dùng gậy hoặc ném đá sẽ giết được vài con. Chắc chắn ở khu rừng bên cạnh có những loại cây ăn quả được. Cuối cùng, ngay sát bên cạnh nơi họ ngụ cư có con sông nước ngọt chảy qua. Nói tóm lại, họ đã quyết định ở lại thêm ít ngày nữa và lo việc chuẩn bị các cuộc thám hiểm nghiên cứu bờ biển và các vùng lân cận.
Sáng ngày 26 tháng ba, sau khi điểm tâm cũng vẫn với trứng chim bồ câu, sò và thêm ít muối mà Harbert tìm được trong một trũng đá. Nab lại ra bờ biển tìm viên kỹ sư, nhà báo trông lửa, còn cậu bé và chàng thuỷ thủ vào rừng săn thú.
Suốt ngày rình rập trong các bụi rậm, Harbert đã ném được một vài con chim zhakamar, và Pencroff bẫy được những con chim tetras. Hai anh em hài lòng thấy mình không đến nỗi trắng tay nên đã nhanh chân trở về nơi ngụ cư làm bữa tối cho cả đoàn.
*
* * Bảy giờ tối, vẫn chưa thấy Nab trở về. Việc anh ta vắng mặt làm cho Pencroff rất lo lắng. Chàng thuỷ thủ sợ có tai hoạ gì đấy xảy ra với Nab trên vùng đất không quen biết này. Nhỡ chàng Nab tội nghiệp trong khi thất vọng đã gặp chuyện gì đó không may thì sao? Nhưng Harbert lại có những kết luận hoàn toàn khác về sự vắng mặt lâu của Nab. Cậu tin rằng nếu Nab không trở về nghĩa là có điều gì đó đã thôi thúc anh ấy tiếp tục những cuộc tìm kiếm, nghĩa là đã xuất hiện những tình huống nào đó tất nhiên thuận lợi cho Cyrus Smith. Có thể là anh đã gặp được một dấu vết nào đó. Thậm chí anh có thể đã tìm thấy ông chủ của mình.
Harbert suy nghĩ và phát biểu như vậy. Các bạn đồng hành không phản đối cậu bé. Thậm chí nhà báo còn gật đầu tán thành.
Trời tối, thời tiết lại xấu, không thể tìm được Nab, họ thấy tốt hơn hết cứ đợi anh ta ở nơi ngụ cư này. Nếu như sáng ngày hôm sau anh da đen không trở về thì Pencroff cùng Harbert sẽ đi tìm Nab.
Gédéon Spilett đồng ý với ý kiến của chàng thuỷ thủ và khuyên họ không nên tách rời nhau.
Vừa lúc ấy bão táp lại bùng lên…
Sau bữa tối, mỗi người lại vào chỗ góc tối qua họ đã ngủ. Tất nhiên cậu bé Harbert ngủ trước tiên. Cậu ngả lưng ngay cạnh chàng thuỷ thủ. Còn chàng thì nằm bên đống lửa…
Duy chỉ có Gédéon Spilett là không thể chợp mắt được. Anh trách mình tại sao đã không đi cùng với Nab. Những linh tính làm cho Harbert lo âu, giờ đây làm cho chính anh thắc thỏm. Thỉnh thoảng anh không chống đỡ nổi cơn mệt mỏi anh nhắm mắt lại trong giây lát, nhưng ngay lập tức, một ý nghĩ thoáng nảy ra trong đầu đã thức tỉnh anh.
Thời gian cứ trôi đi. Lúc ấy chắc đã hai giờ sáng, Pencroff đang ngủ say, bỗng có ai đó lắc vai anh.
- Ai đấy? – Pencroff choàng dậy…
Nhà báo cúi xuống khẽ nói với anh:
- Hãy lắng nghe, Pencroff, hãy lắng nghe!
Chàng thuỷ thủ chăm chú lắng nghe, nhưng không thấy gì cả ngoài tiếng gió ù ù.
- Anh vừa nghe thấy gì?
- Tiếng chó sủa.
- Tiếng chó sủa à? – Pencroff thốt lên và đứng phắt dậy. – Không phải!... Bão giật đó thôi…
- Nó lại sủa đấy! Anh lắng nghe đã. – nhà báo nói nhanh.
Pencroff để tai lắng nghe và quả thực trong khoảnh khắc lặng gió hình như anh đã nghe thấy tiếng chó sủa từ xa vọng lại.
- Thế nào? – nhà báo thì thào, siết chặt tay Pencroff.
- Đúng, đúng! Đó là tiếng của con Top!
- Con Top! – Harbert vừa thức dậy, nghe vậy kêu lên, và cả ba người từ trong Hang lao ra cửa.
Trong lúc cơn gió ào qua họ không thể nào nói với nhau được điều gì. Chàng thuỷ thủ chỉ biết nắm chặt lấy tay Gédéon Spilett như muốn nói với anh ta: “Hãy đợi nhé!” Rồi chàng biến mất vào trong hang đá.
Lát sau, chàng bước ra, tay cầm một bó củi đang cháy và múa lên trong đêm tối.
Con chó hình như chỉ đợi có tín hiệu ấy: tiếng sủa của nó nghe gần hơn, và chẳng bao lâu nó đã chạy xộc vào lối đi trong hang, Pencroff, Harbert và Gédéon Spilett vội vã đi theo nó…
- Top! Đúng là con Top! – Harbert kêu to.
Nhưng con Top chỉ chạy về đây một mình. Chủ nó lẫn Nab đều không thấy đâu.
Harbert gọi con Top lại, hai tay nắm chặt lấy mõm nó. Được vuốt ve, con chó mừng lắm, nó vươn cổ lên, giụi đầu vào tay cậu bé.
- Một khi đã tìm thấy con chó thì cũng sẽ tìm thấy chủ của nó thôi1 – Gédéon nói.
- Cầu trời phù hộ cho họ! – Harbert hưởng ứng – Chúng ta đi mau lên! Con Top sẽ biết cách dẫn đường.
Pencroff không phản đối cậu bé điều gì. Anh cảm thấy con Top xuất hiện sẽ bác bỏ mọi điều phỏng đoán mơ hồ của anh.
- Lên đường! – anh hô to.
Trong lúc đi đường, khi Harbert nhắc đến cái tên Cyrus Smith, con Top lại sủa gâu gâu, dường như nó muốn cho mọi người biết chủ của nó còn sống.
- Ông ấy còn sống! Đúng như vậy mà, phải không Top? Đúng hả? – Harbert khẳng định với một vẻ xúc động – Ông ấy thoát nạn rồi!
Con chó khẽ rít lên, như khẳng định những điều cậu bé nói. Họ đi tiếp qua những vách đá và dãy núi thấp tiếp tục tìm kiếm suốt đêm.
Sáu giờ, trời sáng hẳn. Mây tan dần. Pencroff và các bạn đồng hành đã đi được gần sáu dặm bờ biển. Giờ đây họ đang đứng trên bờ cát phẳng. Cách đó không xa, phía dưới biển có dãy đá ngầm thoáng nhô trên đầu sóng một chút, nước triều đã dâng đầy…
Bỗng lúc này con chó chạy rối rít, lúc phóng lên trước, lúc quay trở lại. Rồi nó chạy đến chỗ Pencroff, như muốn khẩn nài anh hãy nhanh chân. Đoạn nó rẽ ngoặt sang một bình nguyên. Và, bằng sự nhạy cảm tuyệt vời, không chút do dự nào hết, nó chạy đi giữa các đụn cát.
Tất cả cùng bám sát theo nó… Sau khi từ bờ rẽ theo con đường mà Top hướng dẫn. Đi sâu vào được chừng năm phút, nhà báo và các bạn đồng hành của anh đã đến trước một cái hang không sâu lắm. Con Top dừng lại và sủa inh lên, Spilett, Harbert và Pencroff chui vào trong hang.
Ở đó, Nab đang quỳ gối, cúi mình xuống một người sóng soài trên một vạt cỏ.
Mọi người đều nhận ra người nằm bất động ấy là Cyrus Smith.