Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Y Học, Sức Khỏe >> Cơ thể người

  Cùng một tác giả


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 39720 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

Cơ thể người
nhiều tác giả

Phần 6

77. Nước tiểu được hình thành như thế nào?
Trong điều kiện bình thường, nếu ta uống nước nhiều thì đi tiểu nhiều, uống ít đi tiểu ít. Mới nghe qua, tưởng như nước vào cơ thể sẽ biến thành nước tiểu một cách rất đơn giản. Thực ra, nó phải trải qua các quá trình biến đổi trung gian rất phức tạp ở thận.
Hai quả thận nằm hai bên cột sống ở sau thắt lưng, mỗi bên một quả to bằng nắm đấm, hình dạng giống với hạt đậu tằm. Kết cấu của quả thận gồm bộ phận sinh nước tiểu (nhu mô thận) và bộ phận bài tiết nước tiểu (bể thận). Nhu mô thận gồm các tiểu cầu thận và các ống. Khi đi qua tiểu cầu thận, máu được lọc một lượt; các chất phế thải trong máu và phần nước thừa được đưa vào các ống nhỏ, đó chính là nước tiểu.
Nước tiểu được tập trung đến bể thận rồi theo niệu quản đi xuống bàng quang. Bộ phận này giống như một quả bóng đàn hồi, vai trò chủ yếu là lưu giữ nước tiểu. Khi lượng nước tiểu đạt đến mức nhất định, bàng quang phình ra. Các tín hiệu kích thích được các dây thần kinh truyền lên đại não. Đại não ra lệnh "thải nước tiểu". Khi đó, các cơ ở phần trên bàng quang co lại, cơ tròn chỗ miệng thoát nước tiểu mở ra. Nước tiểu sẽ bị ép chảy thoát ra ngoài.
78. Vì sao người ta lại đánh rắm?
Đánh rắm là kết quả của quá trình đường ruột bài tiết các chất khí qua hậu môn. Vậy các chất khí trong cơ thể từ đầu mà có?
Khi ta ăn cơm, uống nước, không khí lẫn trong thực phẩm và đồ uống sẽ đi xuống dạ dày và đường ruột. Ngoài ra, hàng trăm triệu loại vi khuẩn có trong đường ruột cũng phân giải thức ăn, sản sinh ra các chất khí. Vi khuẩn trong ruột còn phân giải các chất dịch trong đại tràng thành khí amoni. Các chất bicacbonat và axit dạ dày còn tác dụng với nhau, sản sinh ra khí CO2. Các khí trên chiếm 30-40% tổng chất khí trong đường ruột.
Một phần chất khí trong dạ dày và đường ruột thoát ra ngoài theo đường miệng, một phần qua thành ruột khuếch tán vào máu rồi đi ra theo đường hô hấp. Phần lớn nhất còn lại được đưa dần xuống phía dưới, thoát ra qua hậu môn. Lượng chất khí tích tụ trong đường ruột càng nhiều, tốc độ bài tiết xuống càng nhanh. Do các cơ chung quanh hậu môn co lại, đóng chặt hậu môn nên khí trong ruột bị dồn ép thành một khu vực cao áp. Khi khí thoát cưỡng bức qua hậu môn, nó sẽ phát ra tiếng kêu. Trong điều kiện ăn uống bình thường, mỗi người có thể đào thải 17-60ml/giờ, mỗi ngày đào thải 400-1.000 ml, sai số rất lớn.
99% chất khí đào thải qua hậu môn không phải là khí thối, chủ yếu là nitơ, CO2, ôxy, hydro và metan. Còn lại là khí amoni, amin bốc hơi, khí hydro sulfid, khí thối... Ngoài ôxy và ni tơ đến từ không khí, phần lớn các khí khác đều do vi khuẩn lên men trong hệ thống tiêu hóa phân giải ra.
Vì thói quen cuộc sống và chế độ ăn uống của mọi người không giống nhau nên số lượng và mùi vị khí thải cũng khác nhau. Người quen thở bằng miệng, nuốt nước bọt, hay ăn kẹo cao su và người già răng yếu thường nuốt vào khá nhiều không khí nên đánh rắm nhiều hơn. Một số thực phẩm chứa khá nhiều chất khí (như bánh bao, kem trứng, nước giải khát có ga) và thực phẩn giàu đường, chất xơ cũng dễ gây rắm. Trong đại tràng, chúng bị các vi khuẩn đường ruột phân giải thành khí CO2, hydro, metan. Tỏi, hành tây và hẹ chứa nhiều hợp chất của lưu huỳnh; chúng bị vi khuẩn đường ruột phân giải thành hợp chất sulfua và khí thioalcohol. Vì vậy, người ăn nhiều các loại rau này thường đánh rắm rất nhiều và thối.
Một số người trong đường ruột thiếu men tiêu hóa đường lactoza, khi uống sữa bò sẽ bị chướng bụng và sản sinh nhiều khí. Những người bị viêm đường ruột cũng hay đánh rắm do vi khuẩn sinh sôi nảy nở nhiều, tác dụng trực tiếp lên các chất dinh dưỡng, làm nhiễu loạn nhu động bình thường của ruột.
Nói chung, đánh rắm là hiện tượng bình thường của cơ thể, không nên vì thấy đánh rắm nhiều mà lo sợ.
79. Lá lách có những ích lợi gì?
Lá lách nằm ở bên phải phía trên bụng, màu đỏ thẫm. Khi thai nhi còn trong bụng mẹ, nó là "nhà máy" độc nhất vô nhị tạo ra huyết cho thai nhi. Sau khi trẻ ra đời, bộ xương dần dần lớn lên, tủy trong xương sẽ là "nhà máy tạo huyết", chức năng trên của lá lách không còn nữa. Vì vậy, trong một thời gian dài, người ta cho rằng lá lách chỉ là "kho chứa máu" trong cơ thể, có hay không có nó cũng được. Thực ra không phải như thế.
Gần đây, sau khi làm nhiều phẫu thuật để cấy hoặc thay phủ tạng, người ta mới có những nhận thức đầy đủ hơn về tác dụng của lá lách. Khi bệnh nhân được cấy hoặc thay những cơ quan lành mạnh của người khác, cơ thể thường có phản ứng thải loại do phải tiếp nhận những thứ vốn không phải của mình. Các tế bào lympho và chất kháng thể sẽ "đuổi" các cơ quan đó ra ngoài bằng trăm phương ngàn kế. Để ngăn ngừa phản ứng đó, bác sĩ dùng thuốc để khống chế hoặc dứt khoát cắt bỏ lá lách. Sau khi cắt bỏ cơ quan này, phản ứng bài trừ chấm dứt. Tại sao lại thế? Vì lá lách không những chứa một lượng lớn tế bào lympho mà còn sản sinh ra nhiều bạch cầu miễn dịch - nguyên liệu để tạo ra các kháng thể. Sau khi cắt bỏ lá lách, cơ thể mất đi một lượng khá lớn tế bào lympho, lượng kháng thể được sản sinh ra cũng giảm rõ rệt, có lợi cho việc bảo vệ cơ quan thay thế và ngăn ngừa phản ứng bài trừ.
Việc cắt bỏ lá lách cũng giống như nước cờ "thí xe giữ tướng", bất đắc dĩ mới phải làm. Vì lá lách đảm nhiệm công tác "phòng vệ" rất quan trọng. Rất nhiều nghiên cứu cho thấy, khi cắt bỏ lá lách, sức đề kháng giảm đi rất nhiều, cơ thể dễ bị nhiễm bệnh và khi đã mắc bệnh thì thường nặng, tỷ lệ tử vong cao. Vì vậy, khi lá lách bị chấn thương, dù đã giập nát, bác sĩ vẫn luôn tìm đủ mọi cách để cứu nó.
80. Trong cơ thể có "dầu bôi trơn" không?

Trong nhà máy, máy móc thường phải cho dầu bôi trơn để giảm nhẹ ma sát khi vận hành. Thực ra, cơ thể người cũng là "một bộ máy lớn". Các cơ quan không ngừng vận động. Để bảo đảm cho chúng không bị mài mòn, cơ thể cũng tiết ra một số chất "bôi trơn" đặc biệt.
Trong khoang bụng có ruột già, ruột non, dạ dày, lá lách, mật, gan và tụy..., rất chật chội. Các bộ phận đó lại phải vận động thường xuyên. Ví dụ, dạ dày mỗi phút co bóp 3 lần, ruột non và ruột già uốn nhiều khúc cũng thường phải co bóp. Như vậy, trong mỗi cơ quan và giữa các cơ quan không tránh khỏi ma sát. Tuy nhiên, chúng không đến nỗi vì ma sát mà bị tổn thương nhờ có những chất "dầu bôi trơn" đặc biệt.
Trong khoang bụng có một lớp màng không ngừng tiết ra một chất dịch tương. Loại dịch tương này có tác dụng bôi trơn, liên tục làm trơn các cơ quan trong khoang bụng.
Ngoài các cơ quan nội tạng ra, sự vận động của khớp xương cũng không thể thiếu được "dầu bôi trơn". Khớp là bộ phận quan trọng của hệ khung xương, là chỗ kết nối các đầu xương với nhau. Có khớp thì tứ chi và thân thể chúng ta mới có thể vận động, co gập lên xuống, trái phải được. Khớp có thể chuyển động dễ dàng là nhờ xương sụn đặc biệt trơn, trên bề mặt xương sụn lại rất trơn ướt do có một lớp dịch rất mỏng. Đó chính là "dầu bôi trơn" do cơ thể tiết ra. Nó có thể đi vào bề mặt các khớp, khiến cho các khớp có ma sát rất nhỏ khi chuyển động.
81. Vì sao lưỡi, môi khi bị răng cắn sẽ lành mau hơn những chỗ khác?
Tục ngữ nói: "Răng và lưỡi cũng có lúc đánh nhau"; quả đúng như thế. Có người khi ăn vì không cẩn thận mà lưỡi và môi bị răng cắn giập. Nhưng không vì thế mà người ta cảm thấy lo lắng, bởi vì vết thương này khỏi rất nhanh. Đó là vì nước bọt đã phát huy tác dụng.
Nước bọt là chất dịch hỗn hợp do các tuyến nước bọt tiết ra trong miệng (người lớn mỗi ngày tiết ra khoảng 1.000 - 1.500 ml). Khoảng 90% dung dịch này là nước, phần còn lại là bạch cầu, axit amin, một số nguyên tố vi lượng và men amylase (để tiêu hóa các hợp chất của nước và carbon). Ngoài ra, trong nước bọt còn có một loại men hòa tan và diệt chết vi khuẩn, tiêu độc cho vết thương và một chất kích thích biểu bì sinh trưởng. Rất nhiều động vật có vú sau khi bị thương thường dùng lưỡi liếm vào vết thương, giúp cho vết thương mau lành. Đó là vì trong nước bọt của chúng có chất kích thích biểu bì sinh trưởng này,
Ngoài ra, nhiệt độ trong miệng thường cao hơn so với bề mặt da; thần kinh và mạch máu ở lưỡi, môi cũng dày đặc; đó chính là điều kiện lý tưởng để chữa trị vết thương.
82. Vì sao nói nước bọt vô cùng quý báu?
Miệng của người luôn nhuận ướt, đó là nhờ nước bọt không ngừng được tiết ra. Đặc biệt khi đói, nếu nhìn thấy thức ăn thì nước bọt tiết ra càng nhanh. Vậy tác dụng của nước bọt có phải là chỉ làm trơn khoang miệng? Không phải, công năng của nó đa dạng hơn thế nhiều!
Nước bọt là "dịch tiêu hóa". Nó chứa men amylase, khiến cho chất amylase trong thức ăn sau khi vào miệng sẽ được tiêu hóa.
Nước bọt là "chất hòa tan". Nó có công năng làm ướt và hòa tan thức ăn. Khi thức ăn vào miệng, nước bọt sẽ thẩm thấu vào, hòa trộn với thức ăn trong quá trình nhai. Nó làm thức ăn không chỉ dễ nuốt mà còn dễ tiêu hơn sau khi xuống dạ dày.
Nước bọt là "chất làm nhuận ướt". Khi nói chuyện, ta phải nhờ vào thanh đới, yết hầu, đầu lưỡi, răng, môi để phát âm. Nếu không có nước bọt thì không thể nói một cách dễ dàng trơn tru. Khi phải diễn thuyết lâu, nước bọt tiết ra không kịp, bắt buộc ta phải uống mấy ngụm nước để bổ sung.
Nước bọt là "chất làm sạch". Nó giúp ta thanh lọc cặn của thức ăn ở trong miệng, bảo đảm cho miệng sạch sẽ. Trong nước bọt có men hòa tan vi khuẩn và bạch cầu miễn dịch A, giúp sát khuẩn tiêu độc.
Ngoài ra, nước bọt còn là "chất bảo vệ". Chất bicacbonat sodi và anbumin đặc trong nước bọt sau khi đi vào dạ dày có thể trung hòa axit nếu axit quá nhiều. Chúng phủ lên niêm mạc dạ dày một lớp mỏng để bảo vệ và tăng cường công năng tiêu hóa của dạ dày.
Cuối cùng, nước bọt có tác dụng giải độc đối với những chất gây khối u nằm trong thức ăn. Vì vậy, có người gọi nước bọt là "chất khống khối u thiên nhiên". Theo một số nhà y học, mỗi miếng thức ăn phải nhai tối thiểu 30 giây để cho nước bọt và thức ăn hòa trộn đầy đủ, như thế mới có ích cho tiêu hóa và còn có thể làm "tan rã" những chất gây khối u.
83. Răng có phải là một "mẫu xương" đặc không?
Bộ phận cứng nhất trong cơ thể là răng. Mới nhìn qua, răng giống như một mẩu xương đặc, nhưng thực ra kết cấu của nó không đơn giản như thế.
Nhìn bề ngoài, răng có thể phân thành ba bộ phận: phần lộ ra ngoài lợi là thân răng, phần cắm chặt trong xương hàm là chân răng, còn phần ở giữa hai bộ phận này (chỗ lợi) là cổ răng.
Mặt ngoài của răng là một lớp men rất cứng và bóng. Độ cứng của nó vượt xa thép. Bên trong lớp men là lõi răng, vào sâu nữa là khoang tủy răng. Trong khoang tủy chứa đầy mạch máu và thần kinh.
Men răng chủ yếu để bảo vệ răng. Tuy nó cứng khác thường nhưng lại dễ bị chất chua phá hoại. Nếu lười đánh răng, vi khuẩn và cặn thức ăn sẽ đọng lại ở chân và kẽ răng. Lâu ngày, vi khuẩn sẽ phân giải chúng, sản sinh ra chất chua, dần dần ăn mỏng phòng tuyến men răng, khoét chân răng thành lỗ thủng. Đây sẽ là nơi trú ngụ của vi khuẩn và cặn răng, khiến cho chất chua sinh ra ngày càng nhiều hơn, chân răng bị đục rỗng sâu hơn.
Khi lỗ thủng ăn sâu đến tủy răng, dây thần kinh trong đó lộ ra, khiến bệnh nhân đau không chịu nổi. Vì vậy, tuyệt đối không được xem răng là một mẩu xương đặc mà phải có ý thức bảo vệ nó thật cẩn thận.
84. Vì sao người lại mọc răng hai lần?
Các cơ quan trong cơ thể chỉ sinh ra một lần, sau khi sinh ra thì không thay đổi nữa. Chỉ có răng mọc hai lần. Lần mọc đầu tiên gọi là răng sữa, gồm 20 cái, xuất hiện khi trẻ còn bú mẹ nên gọi là răng sữa. Chúng nhỏ và không bền. Răng mọc lần thứ hai là răng cố định. Nó bắt đầu thay thế răng sữa từ khi 6 tuổi. Thông thường, răng cố định khá lớn, bền, có tất cả 32 chiếc, cũng có người chỉ 28 chiếc.
Răng sữa và răng cố định có công năng hoàn toàn khác nhau. Răng sữa ngoài việc nhai thức ăn còn có thể kích thích cho xương quai hàm phát triển, tạo điều kiện cho răng cố định sinh trưởng; còn răng cố định chủ yếu dùng để nhai thức ăn. Nếu răng sữa bị sâu hoặc rụng quá sớm thì xương lợi sẽ phát triển không tốt, răng cố định cũng mọc không tốt. Điều đó chẳng những ảnh hưởng đến chức năng nhai mà còn dễ dẫn đến các bệnh về răng.
Khi ta còn bé, xương hàm chưa phát triển. Nếu mọc bộ răng cố định mọc lên thì sẽ không thể đứng vững trên giá xương đó được. Đến khi ta lớn hơn, cần ăn nhiều loại thực phẩm (trong đó có nhiều thức ăn dai, cứng), các răng sữa không đảm đương được nhiệm vụ nhai nghiền. Vì vậy, trong quá trình tiến hóa lâu dài, ở con người đã phát sinh sự biến đổi mang tính thích ứng cao: thời trẻ tạm thời nhờ răng sữa để nhai và kích thích xương hàm phát triển; đến lứa tuổi nhất định răng sữa sẽ rụng đi, răng cố định thay thế vào đó.
85. Vì sao răng có hình dạng khác nhau?
Bình thường, một người trưởng thành có 32 răng, được chia đều cho hàm trên và hàm dưới. Nếu quan sát kỹ ta sẽ thấy có răng dẹt, răng nhọn, lại có răng thân hơi tròn, đó là vì các loại răng đảm nhiệm những công việc khác nhau.
Răng mọc ở chính giữa mặt trước gọi là răng cửa, chuyên cắt thức ăn (ví dụ, khi ăn bánh, trước hết ta dùng răng cửa cắn một mẩu). Nó có hình rộng và dẹt, giống như lưỡi dao.
Gần hai bên khóe miệng, mỗi bên có một đôi răng hơi nhọn gọi là "răng nanh", chuyên xé nát thức ăn. Răng nanh của người nhỏ hơn nhiều so với răng nanh của hổ và sư tử, vì động vật ăn thịt sống đòi hỏi răng nanh nhọn và dài để lực xé khỏe; còn người chủ yếu ăn thức ăn chín nên răng nanh không cần phát triển lắm.
Hàng răng ở phía trong gọi là răng hàm, chúng giống như hai thớt trên dưới của cối xay, dùng để nghiền nát và làm rữa thức ăn.
Nhiệm vụ của răng là cắt, xé và nghiền thức ăn. Nếu dùng răng để làm vỡ những vật cứng như hạt đào hoặc mở nắp chai, nó rất dễ bị mẻ, gãy. Tuy nhiên, việc chỉ ăn thức ăn mềm cũng khiến cho răng và xương hàm không thể phát triển tốt. Do đó, ta phải ăn cả những thứ hơi thô cứng một chút như cong rau, cơm cháy.. Lúc ăn phải nhai kỹ và nuốt chậm để cho răng, lợi và xương hàm nhận được sự kích thích vừa phải và sự rèn luyện cần thiết.
86. Vì sao không nên dùng tăm xỉa răng?
Xỉa răng là thói quen không tốt. Răng của ta vốn sắp hàng ngay ngắn, kẽ hở giữa các chân răng đều được lợi và chân răng điền đầy. Người có hàm răng chỉnh tế thì giữa các răng sẽ không có khe hở. Một số người thường dùng tăm, cành cây nhỏ hoặc những vật khác để xỉa răng, khiến cho kẽ răng rộng dần ra, thức ăn dễ dắt vào kẽ răng.
Vì sao việc dùng tăm xỉa răng khiến cho kẽ răng rộng thêm? Nếu đặt que tăm dưới kính hiển vi, bạn sẽ thấy nó có vô số sợi xơ. Khi bạn dùng nó để xỉa răng, những xơ này sẽ dắt vào chân răng, có thể làm chân răng bị rách. Vi khuẩn nhân cơ hội đó gây viêm nhiễm, khiến xương quai hàm và chân răng bị tổn thương, các tổ chức chung quanh chân răng co lại, kẽ răng rộng ra.
Ngoài ra, lực xỉa răng sẽ khiến cho chân răng dần dần lỏng ra, không những khiến thức ăn dễ dắt vào mà còn dễ gây sâu răng. Việc xỉa răng có hại như vậy nên các nha sĩ vẫn khuyên không nên dùng tăm.
Nếu thức ăn dắt vào chân răng mà không dùng tăm thì giải quyết bằng cách nào? Súc miệng là phương pháp đơn giản, dễ làm nhất. Chỉ cần bạn ngậm một ngụm nước, dùng hai cơ má súc liên tục, cặn sẽ bong ra. Nếu không được, dùng bàn chải để đánh răng, ép sát bàn chải vào kẽ răng rồi cọ lên xuống liên tục. Nếu vẫn không được, có thể dùng sợi chỉ luồn qua kẽ răng kéo lên xuống. Trong trường hợp những phương pháp trên đều không có hiệu quả, đành phải dùng đầu mũi kim để gỡ, nhưng phải cẩn thận để không làm tổn thương các tổ chức chân răng. Khi cần thiết, phải nhờ bác sĩ giúp đỡ.
87. Vì sao có người chỉ nhai một bên hàm?
Bình thường, hai hàm răng vận động có tính đối xứng để răng trên và răng dưới phối hợp nghiền nát thức ăn. Trong quá trình nhai, thức ăn bị cắt, nghiền nhỏ và hòa lẫn với nước bọt tạo thành hồ lỏng để dễ nuốt và dễ tiêu hóa. Đồng thời, sự nhai cũng giúp cơ hàm và răng phát triển được bình thường. Tuy nhiên, rất nhiều người có thể vì một bên hàm răng bị khuyết, bị sâu, hoặc do khe răng rộng nên chỉ nhai một phía; y học gọi là nhai lệch. Đây là thói quen có hại cho sức khỏe.
Việc nhai lệch khiến cơ quai hàm chỉ phát triển một bên. Cơ quai hàm bên kia co lại, bộ mặt bị biến lệch. Nếu nghiêm trọng, ngay cả sống mũi cũng bị lệch đi, ảnh hưởng đến mỹ quan.
Răng bên nhai sẽ phải làm việc nặng hơn. Mặt răng bị mài mòn nhiều hơn khiến men răng mau hỏng, viêm tủy răng. Hàm bên kia do vận động ít nên tổ chức chung quanh răng mỏng và yếu, dễ tích cặn răng, gây sâu hoặc viêm răng.
Ngoài ra, ở người nhai lệch, do chỉ một bên răng làm việc nên thức ăn chưa được nhai kỹ đã nuốt, tăng gánh nặng cho dạ dày, lâu ngày dễ gây ra bệnh dạ dày.
Vì vậy, người nhai lệch nên sửa chữa thói quen này. Nếu một bên hàm thiếu răng hoặc có răng sâu, cần đi bệnh viện chữa trị.
88. Vì sao có người hay nghiến răng lúc ngủ?
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra nghiến răng. Như ta đã biết, khi ngủ, vỏ đại não ở trạng thái ức chế với nhiều mức độ khác nhau. Nếu vỏ đại não ức chế sâu, bạn sẽ ngủ ngon; nếu ức chế cạn, có thể có những bộ phận còn hoạt động.
Ta chiêm bao là do khi ngủ, thần kinh vỏ đại não vẫn còn hoạt động. Lúc đó, sự hưng phấn của vỏ đại não nói chung là yếu nên ta không có được động tác cụ thể gì. Khi sức hưng phấn của vỏ đại não khá mạnh, có người sẽ nói mơ, động chân tay, khóc, cười, thậm chí dậy đi ra khỏi giường, gọi là mộng du. Nghiến răng khi ngủ cũng là một trong những hiện tượng tương tự, xảy ra do vỏ đại não còn hưng phấn.
Ngoài ra, nghiến răng khi ngủ có thể do trong ruột có giun. Chất độc do giun sản sinh ra rất dễ kích thích thần kinh của cơ hàm, khiến cho nó không bị khống chế, kết quả là đêm ngủ thường nghiến răng.
89. Vì sao lưỡi có thể biết được hương vị thức ăn?
Có người gọi đầu lưỡi là "máy nếm". Quả đúng thế, các vị chua, cay, đắng, ngọt, bùi của thức ăn trước hết đều do lưỡi thưởng thức. Đầu lưỡi vì sao lại có thể phân biệt được hương vị? Bí mật là ở chỗ, trên mặt lưỡi có các "đài".
Đài là cơ quan cảm giác hương vị, nằm ở các núm mọc trên lưỡi và phân bố dưới lưỡi, yết hầu, hàm ếch trong khoang miệng. Đài lưỡi phát triển nhất ở thời kỳ trẻ em, sau đó dần dần giảm đi, đến tuổi già thì giảm gần hết. Chính vì vậy, cho trẻ em uống thuốc rất khó. Người lớn uống thuốc cảm thấy đắng ít, nhưng trẻ em vừa bỏ vào miệng đã khóc ngay.
Đài lưỡi có kết cấu hình bầu dục. Mặt ngoài của nó có một lớp tế bào bao phủ, bên dưới là những tế bào vị giác nhỏ, đầu cuối của chúng có lông xơ, gọi là lông vị giác. Đầu dây thần kinh bao bọc chung quanh tế bào vị giác, giống như dây điện, truyền hưng phấn lên trung khu vị giác của đại não.
Thông qua vị giác mà đại cảm thụ được, có thể chia đài thành bốn loại: ngọt, chua, đắng, mặn. Những hương vị khác như chát, cay... đều do bốn loại vị trên tổng hợp mà thành. Những đài cảm nhận vị ngọt phân bố khá nhiều trên đầu lưỡi; đài cảm thụ vị chua phân bố hai bên nửa sau của lưỡi; đài cảm nhận vị đắng tập trung ở mặt trên cuống lưỡi; còn những đài cảm nhận vị mặn nằm hai bên nửa trước của mặt lưỡi và đầu lưỡi.
Ngoài các đài ra, lưỡi và khoang miệng còn có một lượng lớn các cơ quan xúc giác, cảm nhận nhiệt độ, ở thần kinh trung khu những cảm giác này được tổng hợp lại. Vị giác, xúc giác kết hợp với khứu giác sẽ sản sinh ra những cảm giác phức hợp rất đa dạng.
90. Vì sao người ta ví mắt với máy ảnh?
Có người nói, hai mắt giống như hai máy ảnh đặt trên đầu, ví von như thế rất có lý. Bên ngoài nhãn cầu là tầng giác mạc không màu, trong suốt, giống như ống kính của máy ảnh. Do luôn được nước mắt bôi trơn nên nó thường ướt, không bị bụi che.
Ở giữa nhãn cầu có một lỗ nhỏ gọi là đồng tử, ánh sáng từ bên ngoài thông qua đồng tử đi vào võng mạc ở đáy nhãn cầu. Khi máy ảnh chụp ảnh, người ta thường căn cứ vào độ sáng tối của ánh sáng mà điều chỉnh ống kính. Đồng tử cũng tương tự, khi ánh sáng mạnh quá thì đồng tử thu nhỏ lại, cản bớt lượng ánh sáng. Khi ánh sáng yếu, đồng tử lại tự động mở ra.
Khi từ ngoài sáng bước vào phòng tối, ta lập tức cảm thấy trước mắt là một đám tối đen, không trông rõ rệt vật gì, sau một thời gian ngắn mới thích nghi được. Đó là vì con người khi từ chỗ sáng đi vào chỗ tối, đồng tử phải dần dần mở ra cho đến khi thích ứng được với môi trường tối, ta mới nhìn thấy.
Trong máy chụp ảnh, phim là bộ phận cảm quang cuối cùng để thành ảnh. Võng mạch của mắt cũng có công năng tương tự. Trên võng mạc có vô số tế bào cảm quang. Khi tiếp thu được các tín hiệu kích thích của ánh sáng, chúng sẽ biến tín hiệu đó thành xung thần kinh, thông qua thần kinh thị giác truyền lên đại não. Nhờ vậy, con người có thể cảm nhận được một cách chân thực hình ảnh và màu sắc của mọi vật ở bên ngoài.

<< Phần 5 | Phần 7 >>


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 121

Return to top