123. Vì sao từ trên cao nhìn xuống, ta cảm thấy hồi hộp và tay chân yếu đi?
Khi xem người biểu diễn "tiếp xúc với điện", ta liền tránh ra. Khi trong lòng nghĩ đến những chuyện vui trước đây, ta bỗng sung sướng cười lên; khi nhìn thấy mây đen đầy trời ta biết được trời sắp mưa; khi nhìn thấy dấu chân trên mặt đất ta biết rằng có người đã đi qua... Tất cả những điều này đều được hình thành trên cơ sở phản xạ có điều kiện.
Từ trên cao nhìn xuống, tim hồi hộp, chân run cũng là do nguyên lý đó. Khi nhìn từ trên cao xuống, ta sẽ đồng thời liên tưởng đến kinh nghiệm trong quá khứ bị ngã, do đó hiểu được hậu quả nguy hiểm của việc ngã từ trên cao xuống. Vì vậy, tim sẽ đập liên hồi, chân tay mềm nhũn ra. Những phản xạ tâm lý này của con người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của môi trường và tính năng động chủ quan. Nếu ta để cho một người mù đứng trên đỉnh nhà lầu cao mười tầng mà không báo cho anh ta biết trước thì chưa chắc người đó đã có cảm giác run sợ. Khi đứng trên đỉnh núi cao, nhìn ra phương xa ta có cảm giác thoải mái, nhưng khi đứng trên một vách tường dựng đứng, nhìn xuống vực sâu thì ta sẽ trở nên sợ hãi. Người mới học nhảy dù tuy rất lo sợ nhưng khi đã khắc phục được tâm lý hoang mang đó thì sẽ bình tĩnh nhảy vào trong không trung, không sợ gì cả.
124. Vì sao phải đề phòng bệnh béo phì từ bé?
Cùng với mức sống được nâng cao, tỷ lệ bệnh béo phì có xu hướng tăng lên rõ rệt. Béo phì không những ảnh hưởng đến thể hình mà còn dễ phát sinh nhiều loại bệnh như tiểu đường, cao huyết áp, bệnh động mạch vành, máu nhiều mỡ, sỏi mật và thống phong... Do đó, việc giảm béo cho cơ thể ngày càng được nhiều người coi trọng. Vì trẻ em béo dễ bị phát triển thành người lớn béo nên các nhà khoa học kêu gọi đề phòng bệnh béo phì từ bé.
Ở trẻ em béo phì, lớp mỡ dưới da có trọng lượng vượt quá 20% so với những trẻ em cùng tuổi, có cùng chiều cao. Mỡ thừa được tích trữ dưới hai phương thức: một là số lượng tế bào mỡ tăng lên; hai là lượng mỡ trong tế bào mỡ tăng cao. Trẻ em phát phì phần nhiều là do số tế bào mỡ tăng lên, đó là dạng béo sau này rất khó giảm. Biện pháp giảm béo chỉ có thể giúp các tế bào mỡ nhỏ đi nhưng không thể giảm số tế bào mỡ. Vì vậy, đề phòng béo từ bé là điều vô cùng quan trọng.
Việc đề phòng trẻ em phát phì nên bắt đầu từ lúc sơ sinh. Trẻ em sau khi sinh ra nên bú sữa mẹ hoàn toàn trong 4-5 tháng đầu, không nuôi bằng thức ăn đặc hoặc có men amilase. Nếu trong gia đình có người bị bệnh phát phì hoặc khi trọng lượng trẻ em vượt quá phạm vi bình thường, nên cẩn thận hết sức để sớm có phương pháp thức ăn uống hợp lý. Thức ăn phải ít chất đường, ít mỡ, bảo đảm anbumin. Ăn nhiều rau xanh, hoa quả, hạn chế thức ăn ngọt. Phải tham gia rèn luyện thể dục và các hoạt động ngoài trời.
125. Vì sao giảm béo khó đến thế?
Cùng với mức sống không ngừng được nâng cao, thân thể mọi người ngày càng béo hơn. Rất nhiều người bị giày vò vì béo quá, tìm muôn phương ngàn kế để cho thân thể được thanh mảnh hơn. Do đó, giảm béo không những trở thành đầu đề câu chuyện được nhiều người quan tâm mà còn cuốn hút cả sự chú ý của các nhà khoa học. Qua đủ kiểu thực nghiệm, các nhà khoa học đã đưa ra nhiều lý luận và biện pháp nhằm giảm béo, nhưng đáng tiếc là hiệu quả đều chưa mấy khả quan. Vì sao giảm béo lại khó khăn đến thế?
Để giảm béo có hiệu quả, trước hết, phải tìm hiểu nguyên nhân khiến cho cơ thể béo. Cách giải thích thông thường nhất là nhiệt lượng đưa vào cơ thể nhiều quá, làm cho cơ thể không ngừng tích lũy mỡ, gây béo phì.
Việc ăn ít, ăn kiêng đã rất nhanh trở thành phương pháp giảm béo thịnh hành nhất. Nhiều người để đạt được mục đích giảm béo đã nhịn đói, nhịn khát, khống chế ăn uống, hằng ngày chỉ ăn không quá 3700 Jun. Nhưng hậu quả của nó khá tai hại. Một số người mắc phải chứng chán ăn, thân thể trở nên yếu đuối vô cùng.
Các nhà khoa học ở Đại học Alapama cho rằng: Tổng nhiệt lượng do thức ăn cung cấp bao nhiêu không quan trọng mà điều cốt yếu là phải ăn những thực phẩm có khối lượng lớn nhưng nhiệt năng thấp. Như vậy thì cho dù ăn nhiều cũng không hề gì. Những thức ăn dưới đây được coi là tương đối lý tưởng: rau xanh không chứa bột (đậu xanh, rau sống, cà rốt, dưa chuột, rau thơm), hoa quả tươi và những thực phẩm được nấu chín chưa qua tinh chế (khoai lang, ngô, đậu). Tuy nhiên, phương pháp này cũng có nhược điểm. Khi bạn cho rằng ăn kiêng đã thành công, đạt được mục đích giảm béo như đã định, nếu thay đổi thức ăn thì thể trọng rất nhanh trở về như cũ, thậm chí còn béo hơn trước.
Về sau, tiến sĩ Japosther Laifuli (Mỹ) đã đưa ra một cách nhìn nhận mới. Ông cho rằng cơ thể vốn có bản năng tự nhiên để đề kháng tăng trọng lượng. Vì vậy, cho dù ăn nhiều hay ít, thân thể đều duy trì trọng lượng trong một phạm vi nhất định. Phương pháp giảm béo an toàn và tin cậy nhất là hằng ngày phải vận động thích đáng. Ông nói: "Vận động có thể giúp tiêu hóa năng lượng trong thức ăn. Ví dụ, nếu mỗi ngày đi bộ hoặc chạy chậm 3 km, ta sẽ tiêu hao thêm 6000 Jun nhiệt lượng trong 1 tuần. Qua hai tuần, thể trọng sẽ giảm được 500 g. Nói một cách khác, vận động có thể tiêu hao mỡ, làm tăng cơ bắp. Khi duy trì thân thể ở trạng thái bình thường, cơ bắp đòi hỏi nhiệt lượng nhiều hơn so với mỡ, cho nên cơ bắp càng nhiều thì sự tiêu hao nhiệt lượng càng nhiều. Mấy giờ sau khi vận động, cơ thể vẫn tăng tốc độ hấp thu và đào thải, làm cho sự tiêu hao nhiệt lượng trong thức ăn tăng lên".
Nếu chỉ cần giảm béo 1-2 kg thì phương pháp trên sẽ hiệu quả. Còn để giảm từ 2,5 kg trở lên thì không thể đạt được. Vậy có phải là còn những phương pháp giảm béo tốt hơn không? Nguyên nhân cuối cùng khiến cho cơ thể béo là gì? Ông Laifuli vẫn chưa đưa ra được lời giải đáp xác thực nhất.
Mãi đến gần đây, ba nhà khoa học ở Đại học Rocfeolơ (Mỹ) là: Sưxi, Phostơ và Libec mới phát hiện: Dù là người hay động vật, sự ổn định thể trọng đều liên quan đến các tế bào mỡ trong cơ thể. Họ cho rằng, số lượng tế bào mỡ không cố định, nhưng một khi đã sản sinh ra thì không thể xóa bỏ đi được.
Sự phát hiện mới về tế bào mỡ đã dẫn đến con đường mới chân thật, triệt để để giảm béo có hiệu quả, đó là khống chế sản sinh tế bào mỡ. Nói chung, ở những người bình thường, mỡ được giữ ở một thể tích nhất định, vì những tế bào mỡ này bị bộ phận quản lý ăn uống của thần kinh đại não khống chế. Ở người béo, thể tích các tế bào này lớn gấp đôi, thậm chí gấp nhiều lần so với người bình thường. Nếu họ dùng biện pháp khống chế ăn uống, có thể thể trọng sẽ giảm, nhưng chức năng hóa học trong cơ thể sẽ bị nhiễu loạn rất nhiều. Tế bào mỡ của họ sẽ rất nhỏ, gần như ở người bị chứng kén ăn do thần kinh. Mạch và huyết áp của họ rất thấp, kinh nguyệt kém, họ luôn cảm thấy lạnh và thèm ăn.
Có một phụ nữ sau khi giảm được 9 kg thì thân hình biến thành rất quái dị, vì bắp đùi và phần mỡ ở mông hầu như không giảm sút. Sau khi nghiên cứu cẩn thận, ông Libec phát hiện thấy tế bào mỡ có hai loại thụ thể: thụ thể alfa thúc đẩy tích tụ mỡ; thụ thể bêta thúc đẩy phân giải mỡ. Ở người phụ nữ nói trên, phần lớn tế bào mỡ ở bắp đùi và mông thuộc loại thụ thể alfa; vì vậy, số tế bào mỡ được phân giải và phóng thích rất ít.
Phát hiện này khiến cho các nhà khoa học có hướng nghiên cứu mới. Họ hy vọng có thể tìm ra một loại "viên thuốc thanh mảnh", cưỡng bức những tế bào mỡ không chịu "hợp tác" kia chịu phân giải mỡ. Nhưng muốn đạt được kết quả này, ta còn phải chờ khá lâu.
Tóm lại, hiện nay, các kết quả giảm béo đều phải được trả giá bằng sự nỗ lực rất gian khổ, lâu dài, người bình thường chắc khó mà thực hiện được. Còn các loại thuốc giảm béo đang lưu hành trên thị trường đều không đạt được hiệu quả mong muốn, thậm chí có thể phát sinh những phản ứng phụ bất lợi.
126. Vì sao có bàn chân bằng?
Khi đi đường bằng chân trần, mỗi người sẽ để lại dấu chân. Ở giữa dấu chân bao giờ cũng có hình khuyết mặt trăng. Hình khuyết này là đường cong lòng bàn chân của mỗi người. Con người sở dĩ có thể đi trên đường gồ ghề được chính là nhờ tác dụng của hình cong này. Trường hợp lòng bàn chân không có hình cong được y học gọi là chứng "chân bằng". Ở người bị chứng này, khi đi đường, thần kinh mạch máu ở lòng bàn chân bị dồn ép, có thể khiến bàn chân bị tê, đau và lạnh. Vì chân bằng, khi đi, các cơ lòng bàn chân không có lực đàn hồi, nên không thể đi xa, không thể đứng lâu, càng không có sức bật và không thể mang vác nặng. Vì sao lại sản sinh ra tật chân bằng?
Các nhà khoa học giải thích rằng: hình cung của lòng bàn chân là do xương gót, xương đốt bàn chân, xương mu bàn chân, xương đốt chân, xương chêm 1-3, xương mép ngoài bàn chân 1-5, dây chằng và các cơ tổ chức nên. Khi xương chân, dây chằng và các cơ bị khác thường, chân sẽ bị bằng. Ví dụ, thanh thiếu niên đang thời kỳ phát triển nếu đứng lâu, mang vác nặng lâu ngày, hay phải đi xa, nghỉ ngơi hoặc dinh dưỡng không đầy đủ, bàn chân sẽ mệt mỏi, dẫn đến tổn thương mạn tính, cơ bắp và dây chằng co lại, hình thành tật bàn chân.
Ngoài ra, nếu khớp xương mu bàn chân phát triển quá dài, xương mép ngoài bàn chân thứ nhất quá ngắn, xương chân sẽ bị dị dạng bẩm sinh. Việc phần chân bị giập hoặc gãy, bại liệt (ở trẻ em), viêm khớp dạng phong thấp đều có thể dẫn đến chứng chân bằng. Bố mẹ chân bằng thì con cái cũng thường có chứng chân bằng.
Thanh thiếu niên nên tham gia thể thao, đi bộ và đi xe đạp nhiều để đề phòng chứng chân bằng. Người đã có chứng chân bằng thì không nên đi dép lê mà nên đi giày có gót hoặc giày hiệu chỉnh. Cũng có thể đi chân trần nhưng mũi chân chạm đất, hoặc dùng bàn chân đạp lên bàn lò xo để tăng thêm lực của cơ bắp, đỡ cho cơ của hình cung lòng bàn chân.
127. Vì sao có người chân nhiều mồ hôi?
Có một số người đi đường nhiều hoặc sau khi chạy bộ, mồ hôi chân ra nhiều, ướt đẫm tất và giày, mùi rất khó chịu. Các nguyên nhân bao gồm:
- Có nhiều tuyến mồ hôi ở phần chân, thường liên quan với nhân tố di truyền.
- Các dây thần kinh chi phối tuyến mồ hôi chân nhiều và nhạy cảm, hoặc phân bố cùng với thần kinh giao cảm trên da. Mỗi lần đi bộ, chạy hoặc bị kích động, căng thẳng, thần kinh giao cảm sẽ bị hưng phấn cao độ, tuyến mồ hôi tiết ra nhiều mồ hôi.
- Đi giày không thoáng, mồ hôi tiết ra không kịp thời bốc hơi. Nên đi tất sợi bông, giày vải hoặc giày da; loại tất và giày này hút nước mạnh nên mồ hôi chân dễ bốc hơi. Không nên đi giày cao su bít kín, khi cần thiết phải đi thì có thể đệm thêm một lớp lót xốp hút nước tốt.
Người mồ hôi chân nhiều có thể dùng biện pháp ngăn ngừa mồ hôi cục bộ. Ví dụ, dùng dung dịch có 5% phèn chua, dung dịch có 3-5% methanal, hoặc dung dịch có 0,5% dấm để bôi lên chân chỗ mồ hôi nhiều. Có thể dùng thuốc probanthil, atrpin nghiền thành bột bôi lên phần chân có nhiều mồ hôi
128. Vì sao học sinh cấp 1-2 không nên đi giày cao gót?
Chân là nền tảng của cơ thể, nó không những phải gánh chịu trọng lượng toàn thân mà còn phải đi và nhảy. Giày là vật bảo vệ cho bàn chân, nó có tác dụng làm cho bước đi ổn định và giữ ấm bàn chân.
Giày cao gót có thể tăng thêm đường nét thanh mảnh của hình thể và dáng yểu điệu của người phụ nữ. Do đó, để tăng vẻ đẹp, không ít em học sinh cũng muốn đi giày cao gót. Thực ra, đối với học sinh cấp 1-2, cơ thể đang phát triển, việc đi giày cao gót sẽ lợi ít hại nhiều, thậm chí rất có hại cho sức khỏe.
Giày cao gót là loại giày có gót cao hơn 3 cm. Vì gót giày cao và rất nhỏ nên trọng lượng toàn thân tập trung ở một điểm nhỏ. Ở học sinh cấp 1-2, hình cung bàn chân phát triển chưa hoàn thiện; các em lại rất hiếu động, dễ bị tổn thương bàn chân, mắt cá và các cơ, dây chằng của bàn chân. Nếu dùng lâu, bàn chân và thắt lưng sẽ xuất hiện chứng đau mỏi. Gót giày cao quá còn khiến cho xương gót chân có khuynh hướng chùn xuống, hình cung bị phá hoại, dễ tạo nên chứng chân bằng. Không những thế, giày cao gót còn khiến các ngón chân bị dồn vào đầu mũi giày nhọn, bị bóp nghẹt, lâu ngày sẽ dẫn đến các bệnh về ngón chân, tạo nên các mắt gà trên mu bàn chân.
Nghiêm trọng hơn, nếu đi giày cao gót lâu ngày, thân thể đổ về phía trước khiến cho cột sống vùng thắt lưng cong lại một cách không tự nhiên nhằm bảo đảm cho cơ thể được cân bằng, hậu quả là cơ thắt lưng bị mỏi mệt, đau; có khi xương chậu bị dị dạng, ảnh hưởng đến sự sinh đẻ sau này.
Qua đó, có thể thấy học sinh cấp 1-2 không nên đi giày cao gót. Các nhà khoa học cho rằng, gót giày của các em không nên cao quá 3 cm, tạo hình mặt giày nên giống với hình cung của bàn chân, làm cho lòng bàn chân chịu lực đều, khi đi không cảm thấy khó chịu. Tuy nhiên, gót giày thấp quá cũng sẽ khiến cho cơ bắp chân căng thẳng, dễ mệt mỏi, đi bộ lâu sẽ cảm thấy cơ bắp chi dưới mỏi, không có lực.
129. Vì sao chân bại liệt có loại cứng và loại mềm?
Chân bại liệt có hai loại hoàn toàn khác nhau. Một là chân bại liệt cứng; khi thân di động về phía trước, để đề phòng mũi chân đụng xuống đất, bệnh nhân buộc phải nhấc chân bại liệt cao lên và hơi khuỳnh ra phía ngoài, vẽ một vòng cung mới có thể đi được. Loại kia là chân bại liệt vừa mềm vừa ngắn so với chân bình thường. Nhìn tư thế đi, bác sĩ có kinh nghiệm sẽ biết ngay đó là loại bại liệt nào. Thông thường, họ gọi loại bại liệt thứ nhất là bại liệt cứng, loại thứ hai là bại liệt mềm.
Vì sao lại phân chia thành bại liệt cứng và bại liệt mềm? Đó là vì sự vận động các chi của người phụ thuộc vào sự chi phối của hệ thống thần kinh. Từ não, tủy sống đến tứ chi có một mạng lưới thần kinh hoàn chỉnh, giống như lưới điện phân bố khắp toàn thân. Hệ thống thần kinh lại có thể chia thành thần kinh nguyên vận động trên (chủ yếu là đại não và tủy sống) và thần kinh nguyên vận động dưới (chủ yếu là thần kinh ngoại vi).
Bệnh bại liệt phát sinh do thần kinh nguyên vận động trên sẽ khiến cho trương lực của chi dưới tăng cao, cứng đơ, biểu hiện thành bại liệt cứng. Nguyên nhân thường gặp nhất là di chứng sau khi bị trúng phong, não bị chấn thương hoặc tủy sống bị tổn thương. Còn bệnh bại liệt do thần kinh nguyên vận động dưới thường khiến cho trương lực của chi dưới giảm thấp, mềm nhũn, biến thành bại liệt mềm. Nguyên nhân thường gặp nhất là di chứng bại liệt.
130. Vì sao trong đêm tối, khi đi ở chỗ trống, ta thường hay quay vòng về chỗ cũ?
Đêm tối mịt, nếu đi bộ ở chỗ trống, người ta thường hay lạc đường. Điều thú vị là phương thức lạc đường đại thể rất giống nhau: trong phạm vi nhất định, họ thường quay vòng trở về chỗ cũ. Dân gian thường gọi hiện tượng này là "quỷ đưa đường".
Vì sao lại xuất hiện hiện tượng như thế? Từ những năm 50 của thế kỷ 20, nhà sinh vật học Nauy Jathơpoke đã quyết tâm làm sáng tỏ câu hỏi này. Trong hơn 30 năm, ông đã đi khắp các nước Ai Cập, Trung Quốc, Ấn Độ, Mianma, các nước châu Âu, châu Mỹ, phỏng vấn khắp những người đi nhiều biết rộng và tiến hành thực nghiệm nghiên cứu. Cuối cùng, Yathơpoke đã tìm thấy câu trả lời có tính khoa học.
Nguyên là khi đi bộ, ta thường chú ý đến chân của mình, để cho thân thể đi theo đường thẳng. Ở đây, vai trò quyết định không phải là đôi chân mà là đại não và con mắt. Nhưng ở đa số người, mức độ phát triển của bắp chân trái và phải có khác nhau, bắp chân phải thường phát triển dài hơn chân trái. Ví dụ, ở nam giới, một bước của chân phải dài khoảng 66 cm, còn một bước chân trái chỉ khoảng 40 - 51 cm, tức là bước đi của chân phải luôn luôn bằng 3/2 bước đi chân trái. Nếu người này đi 10 bước (tức là mỗi chân đi 5 bước) thì chân phải đã đi được 3,3 m còn chân trái chỉ đi được 2,2 m. Khi đại não và con mắt chỉ huy, người đi bộ sẽ biết tự điều chỉnh, ví dụ thân hướng về bên phải một ít thì mũi chân sẽ lệch về bên phải một ít, hoặc là cố ý ra lệnh chân phải bước dài hơn.
Nhưng trong đêm tối, đại não và con mắt không phát huy được tác dụng, cho nên mỗi lần đi một bước thì thân thể lại lệch trái một ít. Cuối cùng, đường đi của người này trở thành hai vòng tròn hoàn chỉnh. Vòng tròn ngoài là quỹ tích chân phải, vòng tròn trong là quỹ tích chân trái.
131. Vì sao ngồi lâu hay đứng lâu, chân sẽ căng to lên?Nếu bạn ngồi xem kịch hoặc đứng liên tục mấy tiếng đồng hồ, hai chân có cảm giác căng ra. So với ngồi lâu, đứng lâu không vận động càng khó chịu hơn. Ví dụ, khi bạn sắp đội hình để biểu diễn thể thao, hoặc đón khách, duyệt binh, đứng chưa đến 2 giờ, hai chân đã căng lên, đứng lâu nữa thì bắp chân có thể sẽ phù to.
Vì sao vậy? Đó là vì cơ thể ta chứa rất nhiều nước, chiếm khoảng 60% trọng lượng toàn thân. Tuổi càng bé thì tỷ lệ nước trong cơ thể càng cao.
Thành phần nước này chảy trong cơ thể, phải bảo đảm phân bố cân bằng và không ngừng lưu động mới giữ cho tuần hoàn máu và quá trình hấp thu đào thải được bình thường. Nếu vì một nguyên nhân nào đó, sự tuần hoàn của dịch nước trong cơ thể gặp trở ngại, nó sẽ đọng lại giữa các khe của các tổ chức. Lúc đó, nếu cơ thể có sự hoạt động thích hợp (thông qua sự co bóp và chùng lỏng của các cơ), dịch thể sẽ khôi phục trở lại trạng thái cân bằng. Ví dụ, khi chi dưới hoạt động, cơ bắp co bóp sẽ ép các tĩnh mạch trong cơ bắp, máu trong tĩnh mạch sẽ được đẩy về tim. Nếu ngồi lâu không hoạt động, cơ bắp không co ép thì máu trong tĩnh mạch cơ dưới không dễ chảy về tim.
Khi đứng lâu, do sức hút của quả đất, máu sẽ tích tụ lại trong tĩnh mạch chi dưới, khiến cho áp lực trong tĩnh mạch tăng lên, áp lực trong các mạch máu nhỏ cũng tăng cao, thành phần nước trong máu sẽ chuyển vào các khe giữa các tổ chức nhanh hơn. Do đó, chất lỏng giữa các khe tuần hoàn ít, ngưng lại quá nhiều làm cho ta cảm thấy bắp chân căng lên, sau đó có thể xuất hiện phù chân.
132. Khi đi đường, vì sao hai vai lại lắc?
Chỉ cần ta bước đi, hai vai sẽ lắc rất tự nhiên. Nói chung, sự chuyển động này không mất sức. Sau khi đi bộ một quãng đường dài, hai chân đã đau mỏi, bắp chân đã kiệt sức, nhưng hai vai vẫn lắc đi lắc lại một cách nhẹ nhàng. Động tác này là do kết quả của cơ hai cánh tay được co lại một cách có nhịp điệu.
Khi đi đường, vì sao hai tay đưa đi đưa lại? Ban đầu có người cho rằng điều này có thể giảm thấp tiêu hao năng lượng khi đi bộ. Nhưng kết quả đo đạc đã chứng tỏ, việc hai cánh tay đưa đi đưa lại hay không thường không ảnh hưởng đến năng lượng tiêu hao. Cũng có người cho rằng động tác trên có thể hiệu chỉnh vị trí của phần đầu. Vì khi đi bộ, đầu luôn hướng về phía trước; nhưng cùng với hai chân thay nhau bước, phần mông sẽ chuyển động, sự chuyển động này thông qua vai truyền đến đầu, khiến cho đầu khi đi bộ chuyển động sang trái sang phải. Tay và chân thay nhau lắc sẽ khiến cho chuyển động của đầu được triệt tiêu. Nhưng các nhà khoa học qua đo đạc chính xác đã phát hiện thấy, khi đi bộ, mặc dù hai cánh tay không lắc, góc độ chuyển động của cánh tay cũng chỉ khoảng 9 độ; đến phần vai, góc chuyển động còn nhỏ hơn, cuối cùng phần đầu chỉ chuyển động sang trái, sang phải không quá 2 độ, cho nên không ảnh hưởng đến mặt hướng về phía trước. Đương nhiên, lý do này cũng không đứng vững.
Có một số nhà khoa học đã liên tưởng đến việc con người là động vật tiến hóa từ loài vượn 4 chi mà ra. Động vật 4 chi khi đi bộ thì các chi trước và chi sau bước đi rất có quy luật. Con người khi bắt đầu đứng thẳng để đi thì hai chi trước của động vật 4 chi biến thành hai tay. Có người đã làm thí nghiệm: khi người đi đường bó chặt hai tay lại, kết quả cơ bắp của cánh tay vẫn co bóp có quy luật như cũ. Qua đó, có thể thấy việc hai tay lắc lư khi đi bộ là ảnh hưởng của tư thế đi của động vật tứ chi còn lưu lại. Tác dụng của nó chủ yếu là giữ cân bằng và hài hòa cho tư thế đi đường.
133. Vì sao ngón tay cái chỉ có hai đốt?
Bàn tay người có 5 ngón tay dài ngắn, to nhỏ khác nhau. Hơn nữa, mỗi ngón tay đều có tên gọi riêng, đó là: ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa, ngón đeo nhẫn và ngón út.
Điều thú vị là ngón trỏ, ngón giữa, ngón đeo nhẫn và ngón út đều có ba đốt, duy chỉ ngón cái chỉ có hai đốt. Kết cấu này có ý nghĩa gì?
Căn cứ thuyết tiến hóa luận, người ta biết được con người từ loài vượn cổ tiến hóa ra. Loài vượn cổ sống trong rừng, dựa vào tứ chi, để đi, ngón tay cái hoặc ngón chân cái tách khỏi 4 ngón khác. Khi leo cây, chỉ có các ngón 3 đốt là thích hợp nhất, còn ngón cái có hai đốt được dùng không nhiều. Về sau, loài vượn cổ xuống đất học đứng thẳng, hai chi trên được giải phóng, đặc biệt là sau khi chúng biến hóa thành con người. Vì tay thường sử dụng công cụ nên ngón cái biến thành to khỏe. Chỗ gần ngón cái còn sản sinh ra một cơ rất phát triển, khiến cho ngón cái có thể phối hợp hoạt động với 4 ngón đối diện.
Chính là nhờ kết quả tiến hóa này mà ngón cái của người hiện đại đã có một tác dụng to lớn trong bàn tay. Hàm nghĩa của câu thành ngữ "ngón cái đứng đầu" là ý nói nó nổi trội nhất. Quả đúng như thế! Theo thống kê của các nhà khoa học, hầu hết công việc cần đến sự hỗ trợ của ngón cái. Ngón cái vừa độc lập, vừa có thể phối hợp với 4 ngón kia để làm việc.
Ngón cái quan trọng như thế, vì sao lại chỉ có hai đốt? Các nhà khoa học cho rằng kết cấu này của nó là thích hợp nhất. Vì ngón cái nếu chỉ có một đốt thì sự phối hợp để nắm bắt của nó với 4 ngón kia sẽ không đủ khỏe, còn nếu ngón cái có ba đốt thì lực của nó sẽ yếu đi, không thể nào có lực mạnh. Cho nên kết cấu này của ngón cái là một trong những kết quả hợp lý nhất của quá trình tiến hóa từ loài vượn đến loài người.
134. Vì sao ở đa số người, tay phải mạnh hơn tay trái?
Trên 90% nhân loại có thói quen dùng tay phải làm việc. Tay phải của họ cả về lực, độ to nhỏ hoặc về trọng lượng đều mạnh hơn tay trái. Tay phải phát triển hơn tay trái, thậm chí chân phải cũng phát triển hơn so với chân trái.
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, việc dùng tay phải là do thói quen được hình thành dần dần trong quá trình lao động lâu dài.
Từ xa xưa, ở thời đại đồ đá cũ, con người sống thành bầy đàn, tay nắm rìu, mũi đá để săn bắt loài thú. Khi giao chiến, người ta thường dùng tay phải để cầm vũ khí xông vào dã thú. Từ những bức tranh tường cổ Hy Lạp hơn 1000 năm trước còn lưu lại chúng ta cũng có thể thấy được tình trạng này. Con người dùng tay phải nắm cung và mũi tên, còn tay trái nắm thuẫn.
Qua những năm tháng lâu dài, loài người dần dần trở thành thói quen dùng tay phải. Sau đó trong lao động và chiến đấu loài người thường dùng tay phải, mặc dù có lúc có những em bé cá biệt dùng tay trái để viết hoặc cầm đũa, nhưng thầy giáo và bố mẹ bắt em sửa. Dần dần hiện tượng "tay phải chiếm ưu thế" không còn là thói quen hậu thiên mà đã trở thành di truyền bẩm sinh.
Trong cơ thể người, mạng lưới kinh lạc của thần kinh đan xen nhau, tức là tay phải thuộc về bán cầu đại não trái "quản", tay trái thuộc về bán cầu đại não phải "quản". Có một số người vì bị trúng phong mà nửa thân bên phải bất động, đó là do bán cầu đại não trái bị trở ngại, còn những người nửa thân bên trái bất động là do bán cầu phải của đại não bị khác thường. Vì con người thường dùng tay phải, dần dần làm cho hoạt động của bán cầu đại não trái trở thành phức tạp hơn, điều đó ngược lại lại thúc đẩy cho người ta quen dùng tay phải.
135. Hai nửa trái, phải của cơ thể có đối xứng nhau không?
Nhìn bề ngoài mà xét, cơ thể người có 5 giác quan và 4 chi, có tính đối xướng trái, phải rất hoàn mỹ. Ví dụ: hai tay, hai chân, hai tai, hai mắt... hoàn toàn tuân theo quy luật đối xứng trái phải. Nhưng trong cơ thể còn có nhiều hiện tượng không đối xứng.
Nếu đi sâu vào bên trong cơ thể, ta sẽ phát hiện không ít cơ quan nội tạng trong ngực và bụng không đối xứng với nhau. Ai cũng biết tim nằm hơi lệch trái trên ngực, còn gan nằm lệch phải trong bụng.
Lại xét đến khí quản, nó từ trên đi xuống dưới rồi chia thành một nhánh trái, một nhánh phải. Điều thú vị là hai nhánh khí quản này không giống nhau. Nhánh khí quản trái nhỏ và dài, hướng đi hơi lệch ngang; còn nhánh khí quản phải thì to và ngắn, hướng đi hơi thẳng xuống. Chính vì vậy khi không cẩn thận làm rơi vật gì vào khí quản thì hầu như đều rơi vào nhánh khí quản phải.
Hai chân người khi đứng thẳng, thông thường chân trái có diện tích tiếp xúc với mặt đất to hơn chân phải, cũng tức là trọng tâm hơi rơi về chân trái, chân trái trở thành chân chống đỡ chính. Có một nhà khoa học qua khảo sát lâu dài phát hiện, khi con người phát hiện phía trước có nguy hiểm thì đa số đều núp về phía bên trái, do đó ông cho rằng điều này có liên quan với chân trái đỡ trọng tâm, khiến cho chân phải dễ đạp lên mặt đất.
Trong cơ thể còn có nhiều bộ phận trái phải không đối xứng. Ví dụ có người một mắt hai mí, còn mắt kia một mí; hai lông mày bên cao bên thấp; khi cười một bên có lúm đồng tiền, bên kia không có. Tất cả những điều này đều là những hiện tượng không đối xứng bình thường. Nhưng khi một người nếu xuất hiện một hiện tượng không đối xứng nào đó khác thường trong cơ thể thì thường thường đó là điểm dự báo bệnh tật. Ví dụ điển hình nhất là ra mồ hôi, nếu chỉ có nửa người ra mồ hôi, nửa khác không có thì đó là sự cảnh báo, nếu không chú ý thì sắp tới bạn có thể bị trúng phong hoặc bại liệt nửa người.
136. Vì sao khi ngủ phải chú ý tư thế nằm?
Ngủ là phương thức nghỉ ngơi quan trọng nhất của cơ thể. Chất lượng ngủ quan hệ đến hiệu suất học tập và làm việc ban ngày. Giấc ngủ có chất lượng cao không những được quyết định bởi thời gian ngủ, môi trường mà cũng liên quan đến tư thế ngủ.
Có người thích ngủ nằm sấp, ngực xuống dưới, lưng lên trên, hình như ngủ vậy thì yên tĩnh hơn. Nhưng khi nằm sấp, một số cơ dây chằng của chân và thân người không được chùng lỏng và nghỉ ngơi hoàn toàn. Dưới sức nặng của cơ thể, hoạt động của ngực bị hạn chế, ảnh hưởng đến sự hô hấp của phổi và công năng của tim. Bộ ngực và phần bụng bị đè, không lợi cho sự phát triển của lứa tuổi thanh, thiếu niên. Khi nằm sấp, đầu thường lệch một bên để tránh lỗ mũi bị gối bịt, sau thời gian dài, các cơ bên cổ dễ bị kéo căng. Do đó, nằm sấp là tư thế ngủ không khoa học nhất, nên thay đổi.
Không ít người có thói quen ngủ nằm ngửa, thân nằm thẳng, tứ chi mở ra thoải mái, họ cho rằng tư thế này có thể đề phòng lưng bị gù, có lợi cho cột sống và khung xương, thúc đẩy phát triển chiều cao. Nhưng cũng giống như nằm sấp, khi nằm ngửa, một bộ phận cơ bắp của thân và chân vẫn ở trạng thái không được buông lỏng, cho nên hiệu suất nghỉ ngơi không cao. Khi nằm ngửa, việc đặt hai tay lên ngực hoặc bị chăn dày đè lên ngực sẽ cản trở tim làm việc, thậm chí khiến ta hay chiêm bao và có cảm giác kinh hoàng. Nhiều người ngáy to khi ngủ nằm ngửa vì khi đó, hầu sa xuống, bị khí thở kích thích.
Tư thế ngủ nằm nghiêng, thân hơi cong về phía trước, các khớp của chi được buông lỏng, hơi cong... là trạng thái nghỉ ngơi tốt nhất. Vì vậy, người xưa thường nói "nằm như cây cung" tức chỉ nằm nghiêng là tư thế ngủ hay nhất.
Trừ thân và tứ chi, tư thế đầu và cổ cũng rất quan trọng. Các đốt sống cổ hơi nghiêng về phía trước, nếu không có gối hoặc gối quá thấp thì cơ cổ không được thư giãn, các mạch máu ở phần đầu dễ bị ứ huyết, sau khi ngủ dậy sẽ cảm thấy căng đầu hoặc đau đầu, mí mắt hơi phù. Nhưng nếu gối quá cao, cơ sau cổ bị kéo căng, động mạch cổ bị trở ngại, sau khi ngủ dậy cảm thấy mỏi cổ, choáng đầu, căng não. Kết quả nghiên cứu chứng tỏ gối dày 8-15 cm là thích hợp. Khi nằm ngửa, gối cao khoảng bằng một nắm tay và vừa, khi nằm nghiêng, gối cao khoảng 1 nắm tay rưỡi là thích hợp.
Tư thế ngủ tốt bảo đảm giấc ngủ tốt, giấc ngủ tốt khiến cho tinh thần ban ngày thoải mái hơn.