- Ta đi đâu bây giờ, - tôi nói khi chúng tôi ngồi vào xe.
- Cứ đi thẳng. Đến chỗ đèn đỏ quẹo trái. Tới ngã tư đầu tiên quẹo trái nữa. (Cô ta sờ tay lên má). Thằng khốn ấy tát em đau quá.
- Nhưng anh cũng nện cho hắn một trận ra trò rồi, - tôi nói và cho xe nổ máy.
- Khá lắm! Cho nó chết.
Tôi cho xe chạy tới chỗ đèn hiệu, quẹo trái, giảm tốc ở ngã tư đầu tiên, rồi quẹo trái nữa.
- Đến cái nhà ổ chuột kia quẹo phải, - Bêbê chỉ dẫn.
Thật may là tôi tìm được chỗ đậu xe trước ngôi nhà nhỏ bốn tầng.
- Đây hả?
- Vâng. Cái ổ khốn khổ của em đây rồi.
Cô gái xuống xe, bước lên bậc thang dẫn tới cửa nhà đã tróc sơn. Cô mở cửa và bước vào một hành lang tối mò. Tôi bám theo sát gót cô.
Chúng tôi bước vào một căn buồng nhỏ chỉ có một cái giường gấp, một chiếc tủ treo quần áo, một chiếc bàn nhỏ và một chiếc ghế. Ở bên trái, một cánh cửa mở vào nhà vệ sinh và buồng tắm.
Tôi khép cửa và đứng nhìn xung quanh.
- Em sống ở đây à?
- Chỉ là chỗ để ngủ thôi. (Cô ta nhún vai). Phần lớn thời gian là ở các hộp đêm. Ngồi xuống đi, cưng. (Cô ta chỉ cho tôi một chiếc ghế). Chiếc giường chắc không chịu nổi sức nặng của anh em mình đâu. Vậy chớ có mà suy nghĩ lung tung đấy nhé.
Tôi ngồi dạng chân ra hai bên và nhìn cô gái.
- Anh tìm Stella để làm gì? – cô ta hỏi.
- Thực ra không phải là tìm bà tạ Người tôi muốn tìm là Johnny Jackson mà theo tôi nghĩ là con bà ấy.
- Thế điều gì khiến anh nghĩ là Stella có con trai?
- Không đúng vậy sao?
Cô gái cười gượng.
- Thế tại sao anh muốn tìm Johnny?
- Ông nội nó có để lại cho nó một trang trại nuôi ếch. Có ai đó muốn mua lại, nhưng không thể bán nếu không có sự ủy quyền của Johnny.
- Có đắt không?
- Cũng không nhiều tiền lắm. Nếu như anh tìm được Stella, rồi lần ra Johnny, anh sẽ được nghỉ ngơi và quên câu chuyện vớ vẩn này đi. Em có biết tìm bà ta ở đâu không?
Cô gái xoa tay trên má. Một cái u nhỏ đã xuất hiện ở đó.
- Em hận Eđy lắm. Em sẽ bỏ đi thôi. Anh có thể cho em một trăm đô không? Em cần phải trả tiền hủy hợp đồng.
- Anh cho em một trăm đô vì việc gì mới được chứ?
- Em có thể kể cho anh về Stella và Johnny.
Tôi lấy ví , rút tờ hai mươi đô và đưa cho cô.
- Sao lại thế này? – cô hỏi nhưng vẫn cầm tiền.
- Nào, cưng, kể đi. Phần còn lại anh sẽ đưa nếu em cho anh biết những điều anh cần.
- Stella chết vì tiêm ma túy quá liều. Bà ta xài hêrôin từ nhiều tháng naỵ Vì thế Eđy tống bà ta ra khỏi cửa.
- Eđy nói rằng bà ta bị xe cán chết kia mà.
- Xạo. Hắn rất thận trọng đối với tất cả những gì có liên quan tới ma túy.
- Thế hắn cung cấp ma túy cho Stella à?
- Em không nói thế đâu nhé. (Cái nhìn của cô ta trở nên băng giá). Stella đã chết rồi.
- Em có quen bà ta không?
- Quen quá đi chứ. Chính bà ấy dạy cho em nghề thoát y mà. Bây giờ em thay chỗ bà ấy.
- Bà ấy có nói với em rằng Johnny là con bà ấy không?
- Có.
- Bà ấy có nói ai là cha đứa bé không?
- Hai mươi đô để trả lời câu này. (Tôi đưa tiền). Bà ấy nói rằng cha nó là một người lính ở Việt nam.
- Họ có cưới nhau không?
Cô gái nhăn mặt.
- Thời buổi này ai muốn cưới xin gì.
- Bà ta có hay nói về đứa con không?
- Không thường xuyên lắm. Khi có chuyện bực mình thì bà ấy hay kể.
- Thế bà ấy kể gì?
- Rằng nó bỏ trốn từ lúc còn bé và bà ta hài lòng về điều đó.
- Bà ấy có nói tại sao không?
- Vì nó làm phiền bà ấy. Bà ấy có những người bạn, họ không muốn lúc nào cũng có thằng bé bên cạnh. Chuyện đó cũng bình thường thôi.
- Bà ấy có biết nó đi đâu không?
- Hơi đâu bận tâm chuyện đó. Nó đi, thế là xong.
- Em đã gặp Johnny bao giờ chưa?
Bêbê cười và nhìn tôi tinh quái.
- Đừng có mất thời gian hỏi em chuyện đó. Muốn để em nói thì đây là vấn đề sáu mươi đô.
Trực giác mách bảo tôi rằng tôi sắp phát hiện ra một đầu mối quý giá. Tôi lục cái ví lép kẹp lấy ra tờ năm mươi đô và đưa cô gái.
- Anh nhắc lại câu hỏi: em đã bao giờ gặp Johnny chưa?
- Cách đây hai tháng. Một ngày trước khi Stella chết.
- Thôi nào, cưng. Kể tiếp đi, - tôi sốt ruột giục.
- Stella và em hôm đó đều ở hộp đêm. Chỉ có hai đứa em. Đúng vào giờ vắng khách. Bỗng có hai gã xuất hiện ở cửa. Loại pêđê mà em thường gặp. Nhưng hai gã này có vẻ hơi khác thường. Một thằng nhọ bẩn thỉu, nhưng thằng kia lại dễ thương: đẹp trai, tóc vàng, có cả dây chuyền và lắc taỵ Gã da đen đứng ở cửa. Cậu đẹp trai đi vào. Em rất ghét pêđê, nó làm hỏng cả cái nghề của bọn em. Thằng nhỏ tiến tới gần bàn bọn em và đứng sững trước mặt Stellạ Stella ngồi im như bức tượng. Bà ta mặt trắng nhợt như tàu lá và thở rất nặng nhọc. “– Chào mẹ.- thằng cô hồn nói bằng giọng chua loét. – Con đang cần tiền. Mẹ có thể cho con năm mươi đô chứ?”. Stella vẫn ngồi đó, bất động nhìn nó. Em bèn hét nó xéo đi. Lúc đó Stella mới lên tiếng: Trời ơi, Johnny, tại sao con lại ra nông nỗi này? Nó cười: Thôi đi, sao lại ra nông nỗi này? – nó đay lại. – Đưa cho con năm mươi đô đây. Con không còn một xu dính túi. Stella bật khóc. Thằng khốn cầm lấy sắc mẹ nó và đúng lúc nó đang mở sắc em hất ngay vào mặt nó chai côca đang uống dở. Nó lùi lại hét lên: Làm bẩn hết quần áo người ta rồi. Ngay lập tức gã đen bước vào phòng. Em nghĩ hắn sẽ giết chết em, nhưng hắn chỉ cầm tay Johnny dắt ra ngoài. Stella dàn dụa nước mắt. Đó là lần cuối cùng em nhìn thấy bà ấy còn sống. Bà ấy đã tiêm một lúc ba liều.
Các mẩu ghép hình đã bắt đầu ăn khớp với nhau. Johnny là một tên đồng tính luyến ái. Điều này giải thích vì sao ở trường hắn lại lảng tránh bọn con gái và mọi người đều nói hắn là một thằng bé ngoan nhưng hơi ẻo lả. Tôi có linh cảm là đã đạt được một điều gì đó.
- Em có biết tìm nó ở đâu không?
- Không. Em chẳng biết gì hết và cũng cóc cần biết. Nghe đây, cưng. Em phải đi đây. Anh có thể cho em vài chục đô nữa không?
- Em đi đâu?
- Em cũng không biết nữa. Em đã ngán cái câu lạc bộ Skin lắm rồi. (Cô ta chằm chằm nhìn tôi). Anh có thể tưởng tượng con gái như em mà có nguy cơ bị chết đói không?
- Chắc là em phải đi đâu đó chứ?
- Có thể là New York. Ở đó chả thiếu gì việc. Nhưng lúc này em biết là phải thoát khỏi Eđỵ Chuyện đôla thế nào?
- Này, cưng. Với một trăm đô em không thể đi xa được đâu. New York cách đây biết bao là cây số.
Cô gái chìa tay ra.
- Mười đô vậy, được không?
- Hãy cho anh biết về Eđy Raiz đi.
- Anh điên à? Em không thể nói về thằng thối tha đó. Em đã nói với anh rằng em đã gặp Johnnỵ Thế là đủ rồi.
- Eđy là tên buôn bán ma túy. Em không cần phải nói thì điều ấy cũng đã rõ như ban ngày.
Cô gái đứng dậy, đi ngang qua phòng ra mở cửa.
- Vứt mẹ nó cái mười đô của anh đi. Anh hãy đi đi.
Tôi nhìn cô gái và cảm thấy thương hại cộ Cô gái tuyệt diệu này đã phải vật lộn để kiếm sống như bao cô gái khác ở tuổi cộ Có chăng là vẻ đẹp của cơ thể họ và sự dễ dàng chấp nhận lên giường với ai đó. Không bao giờ họ nghĩ rằng rồi năm tháng sẽ qua, họ sẽ trở nên tàn tạ không còn cần cho ai nữa. Hiện thời, với sự tự tin mà sắc đẹp đem lại, cô không hề nghĩ rằng, rồi một ngày nào đó, một cô gái khác trẻ hơn, vì mưu sinh, sẽ đẩy cô xuống cuối hàng chờ dành cho những kẻ mạt hạng, những tên say khướt, những kẻ chỉ cần ôm ấp cái gọi là đàn bà.
- Khoan đã, cưng, - tôi nói. Hãy suy nghĩ một chút đi. Rồi em sẽ lại nghiện hút như Stella thôi. Em có thể làm gì ngoài nghề thoát y vũ không?
- Thôi cái trò đạo đức giả ấy đi. Nếu có một điều tôi có thể làm, đó là tổ chức cuộc sống của tôi. Anh hãy xéo đi.
Tôi bỏ đi với ý nghĩ buồn bã rằng không một lời nào của tôi có thể thuyết phục được cô.
Khi đi dọc theo hành lang tối om, tôi nghe tiếng cửa phòng cô đóng sập lại.
***
Tôi ngồi vào xe, chạy dọc theo phố. Khi quẹo phải, tôi phát hiện thấy một chiếc xe từ một chỗ kín lao ra. Tôi đạp phanh vừa lúc một chiếc xe khác lao tới. Người lái xe nhìn tôi như muốn nuốt sống, rồi phóng đi. Tôi khóa xe và nhanh chóng quay lại phố của Bêbệ Len lỏi qua dòng người chen chúc, cuối cùng tôi cũng tìm được một cái cửa khuất trong bóng tối, từ đó nhìn rõ cửa ngôi nhà của Bêbệ Tôi rất quan tâm tới cô và muốn biết cô sẽ đi đâu.
Đợi khoảng mươi phút, cửa sau lưng tôi chợt mở ra và tôi quay phắt lại.
Một gã da đen cao lớn đi ra trước mặt tôi. Xộc vào mũi tôi mùi nước hoa rẻ tiền. Đi được mấy bước, gã dừng lại chằm chằm nhìn tôi với đôi mắt đầy vẻ hăm dọa.
- Anh cần gì, anh bạn trắng? – hắn hỏi.
- Nếu cần gì, người tôi hỏi không phải là anh, anh đen ạ, - tôi đáp.
Hắn gồng mình làm bật cả cúc áo.
- Xéo ngay khỏi đây, - hắn gầm gừ.
Tôi cởi cúc giữa của áo vét và hơi hé cho hắn thấy khẩu 38 ly nằm trong bao.
Gã đen nhìn dán vào khẩu súng, rồi nhìn tôi mỉm cười.
- Sao ông không nói trước, ông chủ? – gã nhăn nhở.
Rồi hắn rảo bước rẽ đường giữa đám đông như một chiếc xe ủi gạt những khối đất lớn.
Tôi cài lại cúc áo và tiếp tục canh chừng.
Khoảng hai mươi phút sau, tôi đã hết kiên nhẫn, thì nhìn thấy Bêbê đi ra, mắt liếc ngang liếc dọc, rồi đi xuống phố. Tôi đã nghĩ cô mang theo vali, nhưng chỉ có chiếc sắc đeo vai. Tôi để cho cô đi trước rồi bám theo sau. Trông cô không có vẻ gì là người sắp rời khỏi thành phố.
Tôi len lỏi trong đám đông, khó lắm mới bám sát được cộ Đột nhiên cô rẽ phải và tôi mất dạng cô một lúc. Tôi xô cả một đám người đang mải mê tranh luận, rồi vòng qua một góc phố đúng lúc thấy cô ta ở cuối phố. Cô sắp sửa ngồi vào chiếc TR 7. Chiếc xe khiến tôi ngạc nhiên. Nó gần như còn mới, bóng loáng, màu xanh nhạt. Vì ở khá gần nên tôi nhìn rõ số đăng ký của chiếc xe trước khi nó chạy hết tốc lực vòng qua góc phố và biến mất.
Tôi ghi biển số xe vào sổ rồi quay lại ngôi nhà của Bêbệ Tôi mở cửa, bước vào hành lang tối om dẫn tới phòng cộ Tôi nghĩ rằng cửa khóa, nhưng chỉ quay nắm cửa, nó đã nhẹ nhàng mở ra.
Tôi lục soát khoảng năm phút nhưng không phát hiện thấy gì. Chiếc tủ quần áo rỗng không. Phòng tắm có ba con gián lớn đang nô giỡn, chắc hàng tháng nay không sử dụng tới. Tôi kết luận rằng Bêbê xạo tôi. Cô ta không sống trong cái phòng dơ bẩn này.
Tôi trở về văn phòng và tới gặp Charles Edward, thằng cha kế toán rất chi li trong việc tính tiền chi phí cho tất cả nhân viên của hãng. Sau một hồi tranh cãi gay gắt, tôi đã nhét đầy ví với lời hứa hẹn sẽ có báo cáo chi tiết về việc chi tiêu.
Chick Barley đi vắng. Tôi đóng cửa phòng và gọi điện cho viên sĩ quan chuyên quản lý về ôtô của Sở cảnh sát thành phố. Tôi đã từng có quan hệ với anh ta, vả lại hãng luôn sẵn lòng giúp đỡ cảnh sát nên họ cũng rất nhiệt tình đáp lại.
- Lew hả? – tôi nói. – mình cần biết chủ chiếc xe có biển đăng ký PC 400 008.
- Đợi mình một lát.
Trong khi ngồi đợi tôi lấy bút vẽ bậy bạ và nghĩ tới Bêbệ Tại sao cô ta lại đưa tôi đến căn phòng bẩn thỉu ấy nhỉ? Có đúng là cô ta định bỏ câu lạc bộ Skin không? Làm sao cô ta có thể là chủ nhân của chiếc xe thể thao đắt tiền như thế mà lại móc của tôi vài chục đôlả Có lẽ chiếc xe không phải của cô tạ Hay là nó bị đánh cắp?
- Dirk hả? – viên sĩ quan cảnh sát hỏi. – chiếc xe này thuộc bà Phyllis Stobart. Địa chỉ: 48 đại lộ Broadhurst, Paradise City.
- Cám ơn Lew. – tôi nói và gác máy.
Tôi lấy máy chữ và kê chi tiết các khoản chi tiêu để gửi cho Edward. Tôi hy vọng với bản tường trình này anh ta sẽ thỏa mãn.
Cửa phòng chợt mở và Chick bước vào.
- Cậu vẫn ở đây à? Mình có mấy thứ cho cậu đây. (Anh ta mở ngăn kéo và lấy ra một bản báo cáo ngắn). Không có gì cho thấy Mitch đã lấy vợ. Nhưng Johnny Jackson, con anh ta, thì được Stella Jackson lập giấy khai sinh ở tòa thị chính. Có thể đây là vợ anh ta, nhưng ít có khả năng.
Anh chìa cho tôi bản sao giấy khai sinh. Nhưng những điều này thì tôi cũng đã biết. Cha: Mitch Jackson. Mẹ: Stella Jackson. Nơi ở: 22 Grove Lane, Miami.
- Cám ơn Chick nhiều. Mà này, cậu có quen đại úy Harry Weatherspoon ở Phòng chống ma túy không?
- Cậu vẫn đào bới chuyện ma túy ấy à?
- Cậu có biết anh ta không?
- Mình có gặp một lần, nhưng mình không thích anh ta lắm.
- Tại sao?
- Có thể mình ghen tị. Hắn sống phong lưu lắm. Nghe đâu là con trai của một gia đình giàu có. Nhưng hắn thì chẳng nói lên điều gì với mình.
- Nghe đây, Chick. Cậu có muốn giúp mình một việc không? Mình phải trở lại Searlẹ Mình muốn biết gốc gác của bà Phyllis Stobart, 48 đại lộ Broadhurst.
Chick há hốc mồm.
- Bà ta thì quan hệ gì với Johnny Jackson?
- Mình không biết. Có thể là không, nhưng mình muốn biết vậy thôi.
- Terry hiện không làm việc gì, mình sẽ nhờ cậu ta giúp cậu. Nhưng đào sâu tới mức nào?
- Tới chừng nào có thể được.
- Tất nhiên rồi.
- Mình sẽ gọi điện cho cậu từ Searlẹ Về nhà cậu, lúc chín giờ.
- Chín giờ, không được. Lúc đó mình hy vọng còn đang giúp một cô bé nào đó cởi quần áo. Cậu cứ gọi cho Terrỵ Nó còn quá trẻ chắc chưa có bồ mà hẹn hò đâu.
- Thôi được, mình sẽ gọi cho cậu ấy.
Ra khỏi văn phòng, tôi tới đặt bản tường trình chi tiêu lên bàn Edward, lúc đó đang bận nói chuyện điện thoại. Tôi ra ôtô và trở lại Searle.
***
Khi tôi dừng xe trước khách sạn Jumping Frog thì chuông đồng hồ nhà thờ điểm bảy giờ rưỡi tối. Tôi đi qua tiền sảnh vào nhà ăn, ở đó chỉ có đám thương khách vừa ăn vừa bàn việc.
Abraham – người da đen quản lý nhà ăn – cười rất tươi đón tôi.
- Chào anh Wallace, - Ông nói khi tôi đã ngồi. – Tôi xin được giới thiệu món bitết tẩm dầu.
- Được lắm. Và cho tôi thêm một ly uytski có đá. Ông có biết Peggy đâu không?
- Peggy không được khỏe. (Ông buồn rầu nói). Cô ấy nghỉ trên lầu.
Rồi ông đi vào bếp. Tôi ngả người vào ghế, châm thuốc hút.
Mười phút sau, Abraham từ bếp nặng nhọc đi ra với khay thức ăn trên taỵ Ông đặt thức ăn và đồ uống trước mặt tôi.
- Anh thấy thế nào, Wallace?
- Trông có vẻ ngon lắm.
Bất chợt ông thay đổi nét mặt và có vẻ hoảng sợ. Tôi quay lại. Weatherspoon đang đứng ở ngưỡng cửa. Chúng tôi nhìn nhau, rồi tôi mỉm cườivà giơ tay chào. Ông ta lưỡng lự tiến lại bàn tôi.
- Chào ông Weatherspoon! – tôi nói, - Tôi mời ông bữa tối nay, được chứ?
- Cám ơn, tôi đã ăn rồi. Ông ta nói và chằm chằm nhìn Abraham, người đang đứng cúi đầu chào ông ta, rồi lê chân đi vào.
- Thế ông uống một ly cà phê nhé. Tôi muốn nói với ông mấy lời.
Ông ta vẫn có vẻ lưỡng lự, rồi kéo ghế ngồi trước mặt tôi.
Abraham quay trở lại.
- Một cà phê và một cô nhắc, - Weatherspoon nói cụt lủn.
- Nhà bếp ở đây nấu ăn khá lắm, - tôi nói. – Hình như ông định mua khách sạn này khi ông Wyatt qua đời?
- Tôi vẫn còn chưa quyết định.
Abraham mang cà phê và cô nhắc tới.
- Cứ tính tiền thanh toán cho tôi, ông Abraham ạ. – tôi nói.
Ông già gật đầu rồi lui ra.
Tôi tiếp tục ăn và Weatherspoon nhấm nháp ly cô nhắc.
- Công việc điều tra của anh phát triển tốt chứ? – đột nhiên ông ta hỏi.
- Cũng tà tà vậy thôi. Tôi đã gặp đại tá Jefferson Haverford.
Tôi đột ngột ngẩng mặt lên và nhìn ông tạ Ông ta chớp mắt, nhưng vẻ mặt không thể hiện gì.
- Đại tá có khỏe không? – ông ta hỏi.
- Ông đã nói dối tôi khéo lắm, ông Weatherspoon ạ. Ông nói rằng ông không biết Mitch Jackson.
- Thì ông có nói thật với tôi đâu. (Weatherspoon mềm hẳn). Thôi thế là hòa.
- Đúng vậy, - tôi mỉm cười.- Đại tá Haverford có nói với tôi rằng ông có đầy đủ bằng chứng về việc Mitch bán ma túy và ông cũng đã có lệnh bắt anh ta.
- Đúng thế. Tôi đang định bắt thì Jackson lại có một hành động anh hùng. Tôi báo cáo việc này với đại tá Haverford và ông quyết định cho quạ Chúng tôi đã giữ bí mật này suốt bao nhiêu năm, thế mà bây giờ anh lại bới tung ra.
- Nhiệm vụ của tôi là tìm con trai của Jackson. Nếu có thể đạt được mục đích mà không phải lần lại quá khứ của anh ta, thì tôi cũng chẳng đào bới làm gì.
Weatherspoon nhìn tôi và gật đầu.
- Có Chúa mới biết thằng bé hiện giờ ở đâu.
- Công chứng viên của ông đã cho đăng báo tìm kiếm thằng bé. Có thể điều đó có kết quả cũng nên.
- Tôi nghe nói là anh đã tới gặp ông ta.
- Tôi đã gặp cả đống người. Một cuộc điều tra như thế này đòi hỏi mất nhiều thời gian và gặp nhiều người.
Ông ta uống cạn ly cà phê và chuyển sang nhấm nháp ly cô nhắc.
- Để tìm thằng bé mà phải tốn nhiều công sức nhỉ.
- Tôi được trả tiền để làm việc đó mà. Xét cho cùng, ông quan tâm tới điều đó làm gì, phải không ôgn Weatherspoon?
- Bây giờ thì không. Tôi đã có ý định mua trang trại đó, nhưng giờ tôi thay đổi ý kiến. Tôi đã nói điều này với Benbolt. Tôi không muốn làm phức tạp thêm cuộc sống và lại tốn kém nữa.
- Thế có nghĩa là ông không quan tâm tới việc tìm Johnny nữa?
- Đúng thế. (Ông ta đứng dậy). Đã đến lúc tôi phải đi rồi.
- Hượm đã. Mitch Jackson chắc đã hốt nhiều tiền nhờ buôn bán ma túy. Ai cung cấp cho anh ta vậy?
- Làm sao tôi biết được. (Khuôn mặt ông trở nên lạnh như đá).
- Thế làm sao ông vạch mặt được anh tả Làm sao ông có được lệnh bắt anh ta?
- Tôi không thảo luận công việc của quân đội với một người dân sự, - Ông ta lạnh nhạt nói. – Chào anh.
Ông ta bước ra tiền sảnh và đi khuất.
Tôi ra hiệu cho Abraham mang cà phê tới. Tôi uống chậm rãi và suy nghĩ. Rồi tôi để lại tiền boa cho Abraham và đi ra cabin điện thoại ở tiền sảnh.
Bob Wyatt ngủ gật ở quầy tiếp tân. Ông ta chớp mắt khi nhìn thấy tôi. Tôi mỉm cười và khép cửa cabin lại. Tôi quay số của Chick đã chọ Terry ÓBrien trả lời ngay lập tức, cứ như anh ta ngồi chờ sẵn cú điện thoại của tôi.
Terry ÓBrien là một trong những tay học việc trẻ của đại tá Parnell.
- Terry hả. Wallace đây. Cậu đã tìm được gì chưa?
- Chào Dirk. Phyllis Stobart, đúng vậy không?
- Đúng, - tôi nói. – Cậu đã tìm được chưa?
- Mình bỏ ra hai giờ đào bới trong lưu trữ của tờ Herald. Fan đã giúp mình rất nhiều, nhưng không thấy được gì đáng kể.
Fanny Batley là cô nhân viên da đen chuyên trực đêm các kho lưu trữ của tờ Paradise City Herald. Cô ta lúc nào cũng sẵn lòng giúp đỡ mọi người. Khi các thám tử của Parnell cần biết ai đó trong thành phố, họ đều tự động nhờ đến cô.
- Thế cậu tìm được gì rồi?
- Phyllis Stobart là vợ của Herbert Stobart. Bà ta trạc ngoài bốn mươi, còn ông ta khoảng bốn nhăm bốn sáu. Ông ta mua một vila rất xịn ở đại lộ Broadhurst, trị giá cỡ nửa triệu độ Hình như ông ta làm xuất nhập khẩu gì đó ở Viễn Đông, đâu như Sài gòn thì phải. Ông ta đã bán toàn bộ sản nghiệp trước khi Sài gòn thất thủ và ôm về cả đống tiền. Ở đây họ chỉ giao du với những kẻ giàu có xuất thân từ tầng lớp dưới. Ngôi nhà của họ rất đẹp. Ba ôtộ Một chiếc Rolls và một chiếc Jaguar cho ông chồng và chiếc TR 7 cho bà vợ. Bốn người hầu. Tay chồng không làm gì hết, chỉ có chơi golf và đánh bài poker. Còn vợ thì đánh bridgẹ Những điều đó có nói với cậu điều gì không?
- Hiện tại thế là tuyệt rồi. Nhưng mình muốn tông tin chi tiết hơn về người đàn bà đó. Mình cũng muốn biết bà ta từ đâu tới và họ có con không?
Terry khẽ rên rỉ.
- Thôi được, mai mình sẽ lo vụ đó.
Tôi gác máy,bước ra khỏi cabin và thấy Bob Wyatt mặt đang lơ đãng nhìn đi đâu, tôi tiến lại gần.
- Peggy ốm ra sao, ông Wyatt? – tôi hỏi.
Ông nhìn tôi.
- Nó đang nằm viện.
- Rất tiếc phải nghe tin buồn này. Thế có nghiêm trọng lắm không?
- Nó có vấn đề. (Ông ta nhún vai). Chuyện làm ăn đang khấm khá, nhưng tôi không thể tiếp tục được nữa. Chỉ mong sao Peggy không chết đói. Ông Weatherspoon có ý định sẽ hiện đại hóa khách sạn này. Ông ta sẽ đuổi hết nhân viên ở đây, chỉ trừ có bà đầu bếp. Xét cho cùng, đời là thế mà.
- Xem ra ông Weatherspoon mua đủ thứ ở Searle này nhỉ, - tôi nhận xét.
Ông ta gật đầu và đưa chìa khóa cho tôi.
- Anh đi ngủ chưa, Wallace?
Tôi cầm chìa khóa, mỉm cười và đi ra thang máy.
Tôi ngồi suy nghĩ về những điều diễn ra trong ngày và những điều Terry cho biết. Rồi khi thấy công việc chưa đâu vào đâu, tôi bèn đi tắm, rồi lên giường ngủ.
***
Wally Watkins đang ngồi tỉa những bông hoa tàn trong những chậu hồng đặt dọc hai bên con đường nhỏ dẫn vào nhà. Nhìn thấy xe tôi, ông đứng dậy và ra tận cổng đón.
Vẫn rất nghiêm chỉnh trong bộ vét trắng, đầu đội chiếc mũ rộng vành.
- Tôi vẫn cứ tự hỏi khi nào tôi mới có cơ may gặp lại anh, - Ông nói. – Một chút cà phê nhé.
- Không, cám ơn bác. Cháu vừa ăn sáng xong. (Lúc đó khoảng mười giờ năm). Cái gối của bác thế nào rồi.
- Lúc đỡ lúc không. Những khi đỡ tôi tranh thủ làm vườn chốc lát.
Tôi dừng lại ngắm nghía những bông hồng.
- Chưa bao giờ cháu thấy những bông hồng đẹp như thế này.
- Anh biết đấy, đó là do tôi hay trò chuyện với chúng. (Ông cười). Hoa nó cũng hiểu người đấy.
Chúng tôi ngồi trong hai chiếc ghế phôtơi đu đưa trong bóng râm. Ông châm tẩu và tôi châm thuốc lá.
- Này, anh bạn trẻ. Anh đã tìm thấy Johnny chưa? – ông hỏi.
- Một thời gian nữa cháu nhất định sẽ tìm ra. Này, bác Watkins, cháu tới đây quấy rầy bác vì cháu rất cần nói chuyện với con trai bác.
Mặt ông già hơi sầm lại.
- Nó thì có liên quan gì tới vụ này? – ông hỏi.
- Cháu không biết. Cháu như người đi câu ấy mà. Cứ thả mồi xuống nước và hy vọng giật được con gì đó. Bác có tin gì từ anh ấy không?
- Chẳng có tin tức gì, từ khi nó nhập ngũ. Chục năm rồi còn gì và nói thực lòng, tôi cũng chẳng muốn gặp nó nữa. Nó đã gây cho vợ chồng tôi bao nhiêu phiền muộn. Không có nó và những hành vi tồi tệ của nó thì Kitty có lẽ chưa rời cõi đời này.
- Theo như cháu nghe nói thì Mitch là bạn rất thân với con của bác.
- Đúng là hai thằng khốn. Tôi nghĩ là thằng Syd nhà này đã lôi kéo Mitch. Syd là thằng thông minh. Tôi không nhầm đâu. Nó là đứa có đầu óc. Nhưng tính nết thì quá ư tồi tệ. (Ông bỏ tẩu xuống và lắc đầu). Cả Kitty lẫn tôi không bao giờ hiểu được tại sao lại như vậy. Chúng tôi đã hết lòng yêu thương nó. Nhưng nó xấu xa từ trong xương tủy. Ngay từ lúc bốn tuổi, nó đã ăn cắp ở cửa hiệu của tôi. Mà nó có thiếu thứ gì đâu, nhưng nó cứ thích ăn cắp hơn. Sau này, nó ăn cắp cả từ két của tôi. Tôi bắt tại chỗ và đánh một trận ra trò, nhưng tật đâu vẫn hoàn đấy. Sau đó nó và Mitch phóng môtô của Mitch tới Paradise Citỵ Và chúng đi ăn cắp ở đó. Tôi biết được là nhờ theo dõi nó và biết được tiền mua thuốc lá và quần áo của nó là từ một nguồn khác. Và mọi chuyện cứ thế tiếp diễn. Kitty buồn vì nó mà qua đời.
- Thật là tồi tệ, - tôi nói. Hồi ở Việt nam Syd có viết thư cho bác không?
- Nó chỉ gửi cho Kitty một cái bưu ảnh báo rằng nó đã tới nơi. Sau đó thì bặt vô âm tín.
- Bác có giữ chiếc ảnh nào của Syd không?
- Ảnh ấy à? Có. Bây giờ tôi mới nhớ ra. Nó có gửi cho tôi một bức ảnh trước khi xuống tàu. Anh có muốn xem không?
- Nếu không quá làm phiền bác, tôi mỉm cười đáp.
Ông già ngẫm nghĩ một lát rồi khó nhọc đứng dậy.
- Ta vào nhà đi, tôi sẽ lấy cho anh xem.
Chúng tôi đi vào căn phòng ngủ hết sức ngăn nắp của ông già. Rồi ông tới lục tìm trong một chiếc ngăn kéo trong khi tôi đứng nhìn ngôi vườn qua cửa sổ. Có một bãi cỏ được cắt tỉa công phu và những bụi hồng. Nhưng đây là những bông hồng có sắc đỏ như máu, bán rất đắt ở các cửa hàng hoa.
Tôi liếc nhìn căn phòng. Có một cái máy đánh chữ xách tay đặt trên cái bàn nhỏ.
- Bác còn đánh máy nữa kia à, bác Watkins?
- Chữ tôi xấu lắm. Đôi khi vẫn phải liên lạc. (Ông đứng thẳng dậy và đưa tôi một phong bì). Đây là ảnh của Syd.
Tôi lấy ra bức ảnh được in trên giấy bóng. Trong ảnh là một thanh niên mặc bộ quần áo nhiệt đới.
Thì ra đây là Syd Watkins: vai hẹp, tóc đen, hai mắt sát nhau, cái miệng gần như không có môi, mũi ngắn tẹt và một vết sẹo chạy từ mắt phải tới hàm. Đúng là chân dung của một gã du đãng.
- Tôi không bao giờ xem bức ảnh này, - Ông nói và lùi ra xạ – Trông diện mạo nó chẳng khác gì ngoài đời. Thật không thể chịu nổi.
- Sao lại có vết sẹo trên mặt Syd hả bác?
- Từ năm nó mười lăm tuổi kia. Chắc nó đánh nhau bằng dao. Tôi cũng chẳng buồn hỏi. Chúng tôi vừa đau lòng vừa sợ tới mức chẳng hỏi tại sao nữa. Chúng tôi biết có hỏi cũng vô ích, tốn thời gian.
- Gần đây bác có gặp Johnny không? – tôi đột ngột hỏi.
Wally co dúm người lại và nhìn tôi.
- Anh nói sao?
- Cháu hỏi bác từ hôm ông Jackson mất đến giờ bác có gặp Johnny không?
Ông già quay mặt đi.
- Tại sao anh lại hỏi thế?
- Có ai đó đặt những bông hoa hồng đỏ ở vườn bác trên mộ Jackson và đánh máy dòng chữ “Cầu cho ông nội từ nay yên giấc ngàn thụ Johnny”. Dòng chữ đó có thể đanh từ máy đánh chữ của bác cũng nên. Johnny gọi điện nhờ bác hay anh ta đến đây?
Ông quờ tay tìm cái tẩu và lảng không nhìn tôi.
- Giả thuyết của anh ranh ma lắm, Wallace ạ, nhưng anh lầm rồi. Chính tôi làm việc đó. Ông già Fred và tôi vốn là bạn thân mà. Tôi hoàn toàn không hài lòng để người ta mai táng ông mà không có hoa. Tôi cắt hoa trong vườn và gõ dòng chữ đó. Đó là điều Johnny sẽ làm nếu nó có ở đây. (Ông gượng cười).
Tôi nhìn Wallỵ Ông già tốt bụng đâu có biết nói dối. Ông đã cố che giấu nhưng tôi thừa biết là ông nói dối.
- Ý nghĩ của bác thật cảm động, - tôi nói. – Thế bác không gặp Johnny và cũng không có tin tức từ khi nó bỏ đi ạ?
Ông lưỡng lự.
- Không.
Tôi biết chắc ông già nói dối.
- Cám ơn bác Watkins. Có thể cháu còn quay lại phiền bác.
Tôi chia tay ông già. Rồi tôi lên xe quay về Searlẹ Tôi châm thuốc và suy nghĩ về bản báo cáo gửi cho đại tá Parnell khi ông trở về từ Washington. Không còn nhiều thời gian nữa. Tôi gần như chắc chắn rằng khi đọc báo cáo của tôi, ông sẽ cho dừng vụ này.
Trước hết, về mặt tiền bạc, sẽ chẳng kiếm thêm được gì ở vụ này. Hai nữa, báo cáo của toi phanh phui chuyện người ta che đậy cái chết của Mitch bằng chiếc lá nhọ Và chắc chắn Parnell không cho người ta buộc tội người anh hùng là kẻ buôn bán ma túy.
Nhưng tôi nhất định phải biết.
Rất nhiều câu hỏi vẫn còn chưa được trả lời, và tôi chưa tiến được bước nào trong việc tìm kiếm Johnny.
Tôi nhớ đến lời khuyên của cha tôi: “Nếu con thấy bế tắc, kệ nó, hãy quay trở về những dữ liệu ban đầu và suy nghĩ cho thật kỹ, có thể con sẽ tìm ra một đầu mối quan trọng mà trước đó con đã bỏ qua”.
Bế tắc đúng là tình trạng của tôi hiện nay, đành quay trở về dữ liệu ban đầu vậy.
Fred Jackson là người chuyên nuôi ếch, đề nghị đại tá Parnell tìm đứa cháu đích tôn là Johnnỵ Ông trả một trăm đô và nhắn đại ta rằng Mitch Jackson là cha của Johnnỵ Parnell nhận nhiệm vụ này và giao cho tôi.
Tôi đã phát hiện ra các sự kiện sau: người ta giết Fred Jackson. Để bảo vệ viên cảnh sát trưởng sâu rượu và không để cảnh sát bang điều tra, bác sĩ Steed đã kết luận Fred tự sát. Dưới giường Fred , tôi thấy một cái hố trống và nhiều khả năng ông già giấu tiền để dành ở đó. Có ai đó đã lấy sạch mọi thứ trong nhà, kể cả tấm huân chương Danh dự của Mitch và tiền để dành của Fred. Theo lời đồn thi Mitch và Syd Watkins đã gây ra nhiều chuyện tai tiếng trong làng. Rồi cả hai đều nhập ngũ.
Ít lâu sau khi Mitch đi lính, một thằng bé tám chín tuổi tới Searle tìm ông nội nó là Fred Jackson. Thằng bé có tên Johnny nhờ người bưu tá gửi hộ bức thư cho bà Stella Costạ Thằng bé ở lại với ông nó và đi học tới lúc nó mười bốn tuổi. Những người tới nhà Fred không ai thấy thằng bé cả. Trong suốt sáu năm sau khi Mitch chết, tháng nào Fred cũng nhận được một bức thư từ Miami.
Nếu mọi sĩ quan đều đánh giá cao Mitch, thì một người lính da đen tên Hank Smith lại nói rằng Mitch bán ma túy và đã chết khi cứu những tên lính trẻ, nguồn thu nhập béo bở của anh tạ Smith đã bị giết. Tôi cũng bị một gã nhọ và hai thằng du đãng tấn công. Và Harry Weatherspoon nguyên là nhân viên cơ quan phòng chống ma túy của quân đội, muốn mua lại cơ ngơi của Fred. Ông yêu cầu luật sư của mình là Edward Benbolt cho đăng thông báo tìm Johnny trên báo chí. Bây giờ ông ta không quan tâm nữa.
Stella rõ ràng là mẹ của Johnny, bà ta làm việc trong một hộp đêm mờ ám do gã Mêhicô tên Edmundo Raiz cai quản. Một cô vũ nữ thoát y tên Bêbê Mansel cho biết Stella chết vì tiêm ma túy quá liều và Johnny là một gã đồng tính sống cùng một gã da đen. Bêbê dùng chiếc xe mang biển đăng ký theo tên bà Phyllis Stobart, vợ một thương nhân từ Sài gòn trở về có tên Herbert Stobart.
Wally Watkins, cha của Syd nói đã đặt hoa ở mộ Jackson và khẳng định đó là điều mà Johnny muốn làm. Nhưng ông già rõ ràng là nói dối. Tôi biết chắc chắn Wally vẫn đang liên lạc với Johnny.
Tôi suy ngẫm tất cả các yếu tố đó, nhưng chưa có kết luận rõ ràng. Lúc này tôi cách trang trại nuôi ếch của Fred chỉ hơn một cây số. Tôi quyết định tới đó xem xét lần nữa. Biết đâu có chi tiết nào mà tôi bỏ sót. Một sự lục soát không có sự mất tập trung do có mặt Anderson, có thể sẽ có yếu tố mới mẻ.
Tôi lên đường tới trại nuôi ếch. Tôi cho xe chạy theo con đường hẹp, tới chỗ ngoặt rộng, tôi dừng xe và đi bộ. Tôi quan sát ngôi nhà. Cửa vẫn hé mở. Bầu không khí vẫn như trước kia: hơi nóng ẩm, tiếng ộp oạp của lũ ếch và vẻ tiêu điều của ngôi nhà.
Theo bản năng, tôi mở cúc áo vét để có thể rút nhanh khẩu 38 lỵ Tôi đến ngôi nhà và đẩy cửa.
Tôi đứng khá lâu để quan sát căn phòng mờ tối. Người ta có cảm giác như có kẻ nào đó đã đến đây đập phá. Một chiếc bàn gãy hết chân, những chiếc ghế mất lưng, những chiếc thảm bụi bặm lật lên hết. Các bức vách bị rìu chém nham nhở tạo thành những lỗ hổng to tướng. Hai chiếc ghế phôtơi cũ bị rạch lung tung, lòi ra những thứ nhồi bẩn thỉu.
Tôi đi ngang qua đống hỗn độn đó và bước vào phòng Fred. Ở đây cũng thế, mọi thứ đều bị đập phá. Chiếc giường cũng như chăn đệm đều bị phá nát. Cửa tủ quần áo cũng mở toang và bị giật sắp rời khỏi bản lề. Quần áo bẩn của Fred rắc đầy sàn nhà. Căn phòng còn lại cũng ở tình trạng như vậy. Tất cả đều bị rìu bằm nát. Có kẻ đã tới đây tìm gì đó, và đã quyết tâm phải tìm bằng được.
Tình trạng thê thảm của ngôi nhà và cảnh hỗn độn ở đây mách bảo tôi rằng lục soát tiếp ở đây chỉ mất thời gian vô ích.
Tôi bước ra khỏi nhà trong cái nắng chói chang. Tiếng ộp oạp của lũ ếch khiến tôi không sao tập trung suy nghĩ được. Tôi quyết định nói với cảnh sát trưởng Mason về những điều diễn ra ở đây. Một kẻ nào đó đã tới đây tìm kiếm tiền của Jackson.
Tôi quay lại con đường nhỏ dẫn tới chỗ đỗ xe, nhưng rồi chợt dừng lại. Không hiểu sao tôi lại nảy ra ý muốn ngó lại cái đầm nuôi ếch một lần nữa. Đôi khi tôi hay có những trực giác rất lạ, mà lần này lại rất mạnh.
Tôi đi xuống theo con đường hẹp và càng tới gần khu đầm thì tiếng ộp oạp của lũ ếch càng làm tôi ù tai. Tôi cảm thấy đơn độc và hơi rờn rợn, bèn đặt tay lên bao súng, nhưng cũng chẳng ăn nhằm gì.
Tôi rón rén đi tới mép đầm. Chắc có tới hàng trăm con ếch trên bờ đang giáp mặt với tôi. Chúng tạo thành một đội quân, giương những đôi mắt xanh nhìn tôi. Tôi vẫn lặng lẽ tiến lên.
Đầm lõng bõng bùn và mọc đầy cỏ lác, phản chiếu hơi nóng mặt trời đến ngột ngạt. Giữa đầm, tôi nhìn thấy hình như có một cái bè có hàng chục con ếch ngồi trên đó. Tôi tiến tới gần hơn và nín thở khi nhận thấy một cánh tay người. Thì ra đó không phải là bè! Mà là một xác người!
Tôi vỗ taỵ Ngay lập tức lũ ếch biến hết. Tôi đi xuống mép đầm và nhìn cái xác nổi lềnh bềnh.
Một con ếch lớn vẫn ngự trên đầu cái xác. Nó nhìn tôi không mấy thiện cảm, kêu mấy tiếng rồi nhảy đại xuống nước.
Cái xác đó là thi thể của Harry Weatherspoon.