Tristan lại bị đoạ đày lần nữa vì chuyến đi đến Great Plains với Hai và những người làm trong nông trại, đưa một tốp bò đực non mùa thu đến ga đầu mối (có quá ít điều để nói về hạnh phúc, bản thân hạnh phúc vốn là sự yên bình, xúc cảm kín đáo, là trạng thái chấp nhận một tấm lòng thư thái nhưng tâm trí luôn day dứt), chuyến đi thật thích thú, không ít niềm vui vì hầu như đều theo lối cổ. đã vào tháng Mười và thị trường cổ phiếu các loại vừa sụt giá. Nhưng Tristan xoay được ít tiền mặt mua gia súc và tất cả bọn – Hai, Tristan, Decker, một người Cree lai đen, một người Na Uy còn lại trong nhóm thợ mộc từ nhiều năm trước – lưu lại vui chơi sau một mùa hè gian khổ, nóng nực. Họ ăn một bữa tuyệt ngon trong thành phố và uống nhiều rượu, nhưng bị một tốp ở nông trại lân cận ăn mặc lộng lẫy và giàu sang kích rằng họ giàu lên nhờ buôn lậu rượu từ Canada, bất chấp luật Cấm rượu.
Ngày hôm sau One Stab lái chiếc Packard đưa Hai về nhà cùng những thứ cô mua sắm, nên Tristan nói với người cầm đầu tốp buôn lậu là sẽ nhận mười hòm whiskey để dùng và bán cho hàng xóm. Anh bảo những người làm là sẽ chia lãi và đang say, họ thích thú thấy kiếm tiền dễ dàng, lại đặt thêm Whiskey rồi chất vào sọt trên lưng lũ ngựa thồ.
Họ đi thành một hàng kỳ cục xuống hẻm núi hẹp vào thung lũng gần Choteau, đoàn ngựa đi sau chiếc Packard bi sa lầy không xa lắm và đi chậm chạp trong màn mưa tháng Mười. Lúc đến miệng hẻm núi, gần chỗ con đường rẽ hướng bắc đến Choteau, hai cảnh sát có vũ trang và một chiếc xe Ford chắn ngang đường. Họ bắn vu vơ vào không trung như cho biết đây là Cảnh sát Liên bang. Cả đoàn dừng lại, vẫn đang tâm trạng vui vẻ. Viên cảnh sát Liên bang nói họ đã được báo về chuyến hàng và Tristan phải nộp chỗ whiskey. Họ nhận ra Tristan và xin lỗi lúc nói anh sẽ phải nộp phạt vào tháng mười một ở Helena, nhưng họ phải huỷ số rượu này. Tristan quay ngoắt khỏi viên cảnh sát lúc nghe tiếng One Stab kêu thất thanh. Anh đến bên chiếc Packard nhìn vào mắt One Stab rồi nhìn Hai ngồi ở ghế sau với đống đồ đạc và quà. Cô ngồi như tạc bằng đá, một viên đạn bắn thia lia từ vách núi găm gọn vào trán như một đồng xu đỏ tươi.
Tristan nổi khùng, giật phắt lấy khẩu súng rồi quật vào từng viên cảnh sát đang hoảng hốt, làm một trong hai người gần chết trong nhiều tháng. Anh kéo xác Hai khỏi chiếc Packard và chạy xuống hẻm núi. Cả đoàn theo sau lúc Tristan bế cái xác đi nhiều dặm đường dưới trời mưa lạnh lẽo. Anh mang cái xác, thỉnh thoảng lại hú lên bằng thứ ngôn ngữ chẳng ai hiểu trên đời.
Ba ngày sau, cảnh sát trưởng đến nhà Ludlow nói Tristan bị phạt giam ba chục ngày ở Helena vì tội nghiêm trọng đã đập vỡ sọ một trong các cảnh sát liên bang. Bản án thật nhẹ, nhờ ảnh hưởng lớn lao của Alfred trên chính trường Montana. Pet nói xen vào, báo tin Isabel Ba đã đi đâu mất. Tristan phi ngựa suốt mười hai dặm, cho đến lúc tìm thấy cô bé trong rừng gần dòng suối. One Stab đang ngân nga một bài hát tang của người Cheyenne và cô bé hoà theo, giọng cao vút và ai oán đến mức trái tim Tristan muốn vỡ làm đôi. Anh nhấc tấm thân bé bỏng của con gái lên yên và mang nó về nhà.
Những người cao tuổi trong vùng vẫn tranh cãi rằng hoặc vì rượu, vì tù đày hoặc nỗi đau đớn, hay đơn giản chỉ vì tính tham làm Tristan trở thành kẻ sống ngoài vòng pháp luật, nhưng đây chỉ là chuyện phiếm làm mồi cho những lúc rượu chè của người về hưu và thích thú thấy bốn mươi năm sau, Tristan vẫn là một đề tài hấp dẫn, dẫu chỉ là kẻ sống ngoài vòng pháp luật cuối cùng chứ không phải là một kẻ cướp.
Nói tóm lại, sau khi tìm thấy cô bé Ba lên sáu bên dòng suối, đang hát cùng One Stab, Tristan trở nên lặng lẽ trong nhiều tháng, ngoại trừ đối với các con. Anh câm lặng trong nhà tù, từ chối mọi khách đến thăm kể cả Alfred, anh mang đến thư chia của Susannah. Báo chí Helena đăng lên trang nhất cuộc gặp gỡ dưới đầu đề "Thượng nghị sĩ thăm hỏi người em trai tang tóc trong tù".
Thực ra Alfred hy vọng an ủi và can thiệp cho Tristan. Anh đến nông trại ngay sau hôm đưa đám, chỉ vài giờ sau khi cảnh sát trưởng áp giải Tristan đến nhà giam. Ludlow ở lì trong phòng và không chịu gặp người con cả. Ông bảo Pet mang tấm bảng xuống hành lang, viết rằng ông sẽ không nói chuyện với Alfred chừng nào anh còn đại diện cho chính phủ Mỹ và các thủ tục của chính quyền.
Ludlow thực sự coi Hai như con gái và yêu thương cô như con ruột. Nhiều năm trước, ông đã vui lòng dạy cô đọc và viết, không ngớt cho cô quà cáp làm Pet và Decker lo ngay ngáy làm hỏng cô bé. Chính Ludlow viết thư cho Isabel và bảo bà mang về cho Hai bộ áo cưới lộng lẫy nhất, đắt tiền hết mức. giờ đây, lúc đi thăm mộ cùng One Stab trên chiếc xe cũ kỹ, ông cảm thấy đằng đẵng hơn cả bảy mươi lăm năm của ông khi nghĩ đến một ngày tháng Mười khác, ông tiễn các con ra trận, và buổi trưa tháng Mười tuyệt đẹp bảy năm sau, Tristan và Hai làm lễ thành hôn trong khu rừng nhỏ toàn cây bông. Hôm ấy mặt trời chiếu lấp lánh trên chiếc áo dài cưới trắng muốt, tương phản với sắc màu lộng lẫy của mùa thu, với cỏ đã héo và những cây dương vàng óng. Hai cái chết của những người yêu quý trong có mười bốn năm chưa phải là ngoại lệ khác thường với người khóc thuê đã mất hết mọi cảm giác về sự khác thường và thông thường, vì còn mải nghĩ đến những thứ còn lại, làm thế nào để có thể lấy được.
Alfred trở về Washington, đi một chuyến dài bằng tàu hoả, xao động không sao ngủ được. Về mặt chính trị, anh thấy Prohibition là vô nghĩa, nó chỉ càng đẩy mạnh những thích thú tội lỗi, và trong những năm suy tàn của Luật này càng thể hiện rõ hơn. Với Alfred, cha anh lúc nào cũng là một người anh hùng. Anh thích trích dẫn ông già tao nhã của vùng biên giới trong các bài diễn văn với Thượng viện, dù chắc chắn là Ludlow không nghĩ như thế về bản thân. Những quan niệm phổ biến mà ngớ ngẩn về cơ bản như "Người chăn bò" lạy Chúa "Người ở vùng biên giới" hay bản thân luật cấm rượu đều là sự kế thừa thực tế trong những giai đoạn tự khen của lịch sử, khi những hoạt động tích cực trở thành chiêu bài và trật tự xã hội.
Sự khó xử của Alfred càng trở nên sâu sắc về bản chất, hơn là những quan điểm chính trị và một người cha đang giận ghét. Thực ra Susannah rất bất hạnh, cô luôn là người không may trong cách cư xử lặng lẽ , không rõ ràng. Những đòi hỏi của xã hội Washington với vợ của một thượng nghị sĩ càng làm những khó khăn của cô trầm trọng thêm. Alfred đã mua một nhà nghỉ nông thôn có chuồng ngựa ngoài trời ở Maryland, cho nhiều ngựa đua của bố vợ anh ở tạm. Susannah ở đấy phần lớn thời gian, một bác sĩ tâm thần người Do Thái Pháp từ Johns Hopkins đến thăm mỗi tuần hai lần. Bác sĩ đã thề kín mồm kín miệng, vì có một người vợ điên là trở ngại lớn cho những hoạt động chính trị. Yêu thương đến mù quáng, Alfred không chịu thừa nhận tình hình đã đến lúc nghiêm trọng. Niều năm về trước, một buổi chiều lúc đang đi xe từ Vallauris đến Nice để đáp tàu thuỷ về nhà, Susannah nhất quyết bắt lái xe dừng lại, họ đi bộ lên triền đồi có nhiều cây và làm tình. Cô có vẻ hạnh phúc trong nhiều tuần dù thỉnh thoảng lại lên cơn khóc lóc. Bất chấp điều đó, Alfred thấy chưa bao giờ anh hạnh phúc tột cùng đến thế, nhưng Susannah lại rơi vào tình trạng dằn vặt ghê gớm, suốt hai tuần trong chuyến về New York cô không chịu rời khỏi cabin. Về ở nông thôn và giải thoát mọi sức ép của Washington có vẻ là một lối thoát.
Trong suốt chín năm chung sống, có những giai đoạn phải gọi là điên rồ ở các mức độ nghiêm trọng khác nhau. Bác sĩ tâm thần không phấn khởi dù trong mấy năm qua, Susannah là bệnh nhân được ông quý chuộng nhất. Ông ép Susannah tham gia hoạt động ở chuồng ngựa đua, vì hiểu rằng bận bịu với súc vật sẽ làm bệnh nhân dịu lại, những con ngựa có vẻ tử tế sẽ xoá nhoà những tổn thương dù chỉ là tạm thời.
Nhiều tuần sau khi từ Montana trở về, Alfred như rơi vào địa ngục. Susannah lên tới đỉnh cao của giai đoạn hưng phấn, mọi thứ trên đời đều trở nên quá sống động không thể chịu nổi, cô có thể nhìn thấy quả tim của con ngựa qua lớp da, các cơ và xươmg, mặt trăng ở sát bên ngoài cửa sổ, cô cắt những bông hoa tàn trong bình và kinh hãi đòi phải úp những bức tranh nào đó của Pháp vào tường. cô xác nhận không có con chẳng phải là việc gì to tát, sao cô cứ vất vả cố một đứa làm gì, và việc Tristan không trả lời bức thư chia buồn của cô như một cái đòn bẩy đẩy cô rơi vào trầm cảm.
Đến tháng Tư, Alfred trở lại miền Tây, bê ngoài là thăm hỏi các cử tri. Anh mua một ngôi nhà lớn ở Helena, nghĩ rằng nếu Susannah sống ở Montana suốt mùa hè thì đây có thể là lối thoát. Isabel sẽ ở đấy, cả Tristan và Pet có thể chịu được Susannah, lại có thêm Ba và Samuel đỡ đần. Lúc lái xe vào bãi rào lầy bùn gần Choteau, tấm lòng luôn lạc quan của Alfred nhẹ nhõm vì nhiều dự định và vì vẻ đẹp của nông trại.
Tristan và Decker ở ngoài nhà kho, đang đóng khung các bộ yên thồ trong lúc Ludlow và One Stab vừa hút tẩu vừa quan sát. Lúc Alfred ra khỏi xe, Ludlow lọt qua hàng rào và đi ra mãi ngoài đồng cỏ, One Stab theo sau. Tristan, Decker và Alfred nhìn Ludlow vòng quanh những dòng tuyết đang tan như thể ông định đi đến tận cùng thế giới. nước mắt chảy dài trên má Alfred và Tristan nắm lấy cánh tay anh. Alfred muốn xin cha tha thứ, nhưng Tristan là người thực tế, anh chỉ nói:
- Tha thứ cái gì, anh đâu có bắn vợ tôi.
Decker ngồi trên cái giá cưa nhìn Alfred và Tristan đi vào đồng cỏ sau hình dáng xa dần của Ludlow và One Stab. Vốn là người Bắc Âu rắn rỏi hơn, Decker đau buồn nhưng không yếu đuối (Decker đã đợi ba năm cho đến cuộc bán đấu giá gia súc ở Bozeman, anh mới có dịp bắn một trong những cảnh sát trên đường từ Bozeman đến Livingston, con đường mà cảnh sát đi lại hàng ngày. Ngồi t rên một tảng đá trên cao, giữa những cây thông um tùm, khẩu 270 trên lòng, anh bắn phát đầu tiên thủng lốp xe, và lúc viên cảnh sát ra khỏi xe, Decker bắn liền mười phát hết sức hả hê. Một cảnh sát liên bang khác phải chuyển sang miền Đông và Decker đành hài lòng đã giết được một tên).
Đến nửa đường vào đồng cỏ, Alfred đứng lại và nói một thôi một hồi, giải thích rằng Tristan phải viết thư cho Susannah, làm dịu mặc cảm tội lỗi méo mó của cô. Tristan gật đầu thông cảm với anh trai. Lúc họ đuổi kịp Ludlow, ông mệt lử dựa vào tảng đá mòn. One Stab lánh ra khỏi tầm nghe. Tristan nắm lấy cánh tay cha và xin ông tha thứ cho Alfred, anh là con trai ông chứ không phải chính phủ. Ludlow run rẩy vì rét và nhìn Alfred trừng trừng, cặp mắt nghiêm khắc nhưng giàn giụa nước, ông gật đầu với Tristan và ngoảnh đi. Vì không có tấm bảng đen, ông chỉ ôm lấy Alfred và bắt đầu quay về nhà.
Sáng hôm sau lúc Alfred ra đi, anh cảm thấy thảnh thơi và phấn chấn mặc dù trời đang mưa. Anh đã được tha thứ và họ có một buổi tối dễ chịu, các con của Tristan ngồi trong lòng Alfred lúc anh kể cho chúng nghe những chuyện sinh hoạt ở các thành phố lớn miền Đông. Anh dừng lại trên đường ra đường cái, để một đoàn ngựa thồ và la do hai người làm lùa qua, anh nhận ra một người Cree lai đen và một người thợ mộc Na Uy. Anh vẩn vơ tự hỏi sao Tristan lại muốn có nhiều đàn gia súc đến thế.
Đầu tháng Năm, khi biết chắc mùa xuân đã hết, những cơn dông bão trên núi sẽ ngắn và thất thường, Người Nhìn Tinh Như Chim từ Fort Benton xuống, dẫn Tristan, Decker, gã Na Uy và gã Cree từ Choteau ngược lên qua Valier và Cut Bank đến Cardston ở Alberta, ở đấy họ chất lên năm chục con ngựa thồ mỗi con bốn thùng whiskey, tắt đường về Shelby và Conrad đến Great Falls, Tristan đẩy hết chỗ whiskey được sáu ngàn đô la. Lợi nhuận kếch sù nhờ whiskey là rượu Canada loại nhất, không pha loại rượu mạnh uống hại dạ dày của tầng lớp lao động, và do những kẻ buôn lậu ngày càng hối lộ nhiều hơn. Một nguyên nhân nữa đem lại lãi lớn là rất it đường lên phía bắc Montana, làm nó thành một vùng cảnh sát tương đối nới tay. Người Nhìn Tinh Như Chim được One Stab bảo lãnh, lão đang buồn vì Tristan nhất quyết bắt lão ở nhà trông nom Ludlow và nông trại.
Thật không may, Tristan không thoả mãn. Anh không nhận thức được điều đó, anh hy vọng ít gặp phải sự đối kháng nhất định. Hồi đó Decker đã can gián anh nên nghĩ đến các con và đến một thực tế là số dân ít ỏi ở Montana rốt cuộc sẽ bị bắt như bỡn. Tristan đồng ý, tuy cơn giận ngấm ngầm của Decker lớn đến mức có nói ra những lời ngăn cản chẳng qua vì Pet một mực lo sợ cho các cháu. Tristan làm thêm chuyến nữa vào giữa hè và lúc họ về nhà, One Stab nói Pet đã biến mất cùng hai đứa cháu. One Stab nói lẽ ra lão phải đi theo, nhưng Ludlow bị ốm. Thế là Tristan và Decker lao tuốt lên Fort Benton trong chiếc xe Packard có một lỗ thủng ở ghế sau và đưa Pet cùng lũ trẻ về nhà.
Rồi Tristan sẽ bỏ, sau khi đánh điện cho gã Mexico ở Vera Cruz đưa chiếc thuyền buồm đến San Francisco vào mùa xuân tới. còn kiếm tiền lần nữa chứ, Isabel đã đến miền tây suốt mùa hè để giúp Susannah ổn định, trong ngôi nhà thích hợp với một thượng nghị sĩ ở Helena. Isabel cùng các cháu nội và pet xuống đấy một tháng, sức khoẻ lung lay của Susannah khá lên rất nhiều, cô chăm sóc họ, đáp lại cả Ba và Samuel rất yêu quý cô. Không at biết rằng sự khoẻ mạnh bề ngoài của Susannah phần lớn dựa vào những nhận thức sai lầm, mong manh. Khi Tristan trả lời thư cô do Alfred một mực yêu cầu, anh nhấn mạnh quá nhiều đến thực tế là số phận đã chia lìa họ, và bất chấp những gì đã xảy ra, họ phải sống mãi với nó như một ơn huệ. Bức thư thật ác nghiệt mặc dù không chủ tâm, dù sao chăng nữa nó cũng làm Susannah hy vọng, cô lại rơi vào thời kỳ thấy thế giới của cô quá sống động, méo mó, lộn ngược, để ngày tháng của cô là một chuỗi các sự kiện tinh tế. Alfred dự định tổ chức một bữa dạ tiệc lớn, mời tất cả các chính khách, bạn bè thân hữu ở Montana, có Isabel là chuyên gia trong lĩnh vực này giúp đỡ.
Tristan xuống Helena gặp đại diện của một người chưng cất rượu Canada, anh đã gặp ở Cardston. Người này thảo luận với Tristan về những rắc rối do một băng đảng gọi là băng Irish ở Seatle gây ra, rõ ràng là chúng nắm quyền kiểm soát việc buôn bán rượu ở vùng Tây Bắc và California. Những khách hàng đòi hỏi khắt khe ở San Francisco không thể có whiskey loại nhất ưa thích của họ. hai người đã ngập ngừng thoả thuận rằng Tristan sẽ dùng thuyền buồm chở hàng từ đảo Vancouver đến San Francisco và Tristan dành cả ngày đẹp trời này ở Helena bắt tay vào phi vụ quá đắt giá này. Anh mang theo năm thùng Haig&Haig làm quà biếu Alfred tuy anh đã khước từ đến dự tiệc. Anh luôn bị những người bạn bề ngoài rất quan trọng mà Alfred đưa đến nông trại trong mùa săn bắn loại ra, họ đánh bài và uống rượu thâu đêm, dậy muộn và được hưởng một số ngoại lệ. Vùng Cree cho họ săn bắn thoả thích nai sừng tấm và hươu, tuy vậy Tristan không chịu hợp tác nữa sau khi một người giàu có chuyên bán đồ lót nam giới bắn chết một con gấu xám đang ngủ trên triền đồi.
Sau cuộc gặp mặt, Tristan lái xe vòng quanh toà nhà lộng lẫy thời Victoria của Alfred cho đến lúc tìm ra lối cổng sau. Anh định vào chào mẹ, đưa số whiskey và bằng mọi cách tranh mặt Susannah rồi trở về nông trại. Helena luôn làm anh mệt mỏi, gượng gạo, tất cả những người đàn ông lang thang quanh quẩn đều có vẻ dính líu một cách đáng ngờ tuy không nói ra đến một tháng lao tù lạnh lẽo của anh, hồi đó cổ họng và lồng ngực anh không ngừng đau thắt, nghẹn ngào vì những hồi nhớ về Hai. Ngay cả sau khi sinh con, cô vẫn nhảy phắt lên ngựa không cần dùng bàn đạp, và khi phi trên con ngựa lang thiến cứng cáp, mớ tóc cô tung bay về phía sau như bờm một con thú hoang dã. Tristan có những quan niệm rõ ràng, đơn giản về sự báo thù và có lẽ nỗi đau đã thành thô ráp, đâu độc anh đến mức anh biết không có bàn thắng lúc xế chiều với đời, vì dù có trả được mối thù, anh cũng không thể tái tạo được người phụ nữ hứng mưa trút tơi bời, cho đến lúc mái tóc dài đen mướt của cô nhún nhảy đập vào chân anh.
Người đàn ông đã bị định mệnh biến thành kẻ hiếu chiến này bước vào nhà bếp của anh trai, thấy Susannah đang cười và chuyện trò với Samuel và Ba. Anh chào rồi ôm ghì lấy các con, sau đó bọn trẻ chạy tuốt đến giúp bà nội treo rèm trang trí cho bữa tiệc. Susannah và Tristan ngồi đó, bứt rứt đến nỗi dường như nhà bếp sắp nổ tung. Susannah hơi dối trá nói cô nằm mơ thấy cô thành mẹ của Samuel và Ba nhưng Tristan lắc đầu bảo "Đừng" và cô đứng dậy, hai bàn tay đan lại như thể kéo đôi vai vào với nhau. Cô rời khỏi bàn vào phòng để bát đĩa. Tristan ngồi lại toát mồ hôi trong tiết tháng Tám nóng nực, rồi cô gọi tên anh, giọng cô trong trẻo, dịu dàng. Anh úp chặt hai bàn tay lên mặt rồi bước vào phòng đó, thấy Susannah đứng trần truồng, cặp mắt lấp lánh, mái tóc buông xoã quanh vai, quần áo tụt bên chân cô. Anh đóng cửa phòng và cố làm cô bình tĩnh lại, rồi đắm đuối không hề lưỡng lự khi cô nói nếu anh không làm tình với cô, cô sẽ hét lên và kêu la cho đến lúc chết. Họ chìm vào vòng tay nhau, da dẻ họ dán chặt xuống sàn nhà lát gạch mát mẻ.
Sau khi Tristan ra về, Susannah lấy kéo cắt phăng mái tóc và ở lì trong phòng riêng suốt bữa tiệc, có bác sĩ và các y tá chăm sóc. Sớm hôm sau, Susannah được đưa đến Choteau cùng bác sĩ, Isabel, Pet và bọn trẻ. Họ đi hai chiếc xe và Alfred quẫn trí nhưng ân cần, rõ ràng là chẳng hay biết gì. Lúc họ đến nơi, Tristan đưa bọn trẻ lên lều săn trên núi vài ngày, anh đã dựng cả lêu đó cách nhà vài chục dặm.
Nhưng lúc anh trở về, Susannah lại sôi nổi và duyên dáng, ai cũng nhẹ cả người, rồi Alfred đến Helena vài ngày vì công việc chính trị. Tristan đi vắng trọn một tuần, đến San Francisco gặp gã Mexico và chiếc thuyền. Anh giữ ít thuỷ thủ, chỉ mang gã Cree và Na Uy theo vì anh tin cậy họ.
Lúc ấy là đầu tháng chín, một đợt rét ngắn kéo dài hai ngày, rắc tuyết lên các ngọn đồi thấp và đến giữa buổi sáng đã tan chảy giữa các cây dương. Tristan ngồi một mình trong nhà nghỉ, sau khi One Stab và Ludlow đưa bọn trẻ xuống ăn trưa với Isabel. Vừa đẩy thanh củi đang cháy âm ỉ vào lò, anh vừa chán chường nghĩ đến sự phản bội của anh với anh trai, đến hoàn cảnh bế tắc này. Tristan không mảy may trách cứ Susannah vì nhận thức được rằng cô chịu trách nhiệm rất ít về việc làm một cách định kỳ, chẳng khác gì đứa con bé nhất của anh. Tim anh nhói đau vì sự nhầm lẫn và đau đớn anh đã gây ra trên đời. anh rót một ly whiskey và bắt tay vào chuẩn bị hành lý đi San Francisco sớm, biết rằng ở xa Susannah là hay nhất và chỉ sợ cô lại suy sụp lần nữa.
Tristan đóng gói rất nhanh, dặn dò Decker chỗ anh giâu tiền, phòng khi anh không trở về. Nhưng lúc anh vào phòng chính đã thấy Susannah đang ngồi trên đi văng trước lò sưởi. Anh gọi tên cô nhưng cô không trả lời. anh đến bên đi văng, nhìn ngọn lửa rồi nhìn xuống mái tóc ngắn và quần áo ướt nước của cô. Susannah nói khẽ và rõ ràng, hỏi anh có tha thứ cho việc cô đã làm không. Cô không thể nén lòng được vì cô yêu anh tha thiết và biết đã có thời anh cũng yêu cô, nhưng cũng hiểu cnaa là không đúng đắn nên cô sẽ đổ vỡ tan tành nếu lại cùng anh lần nữa trong đời. cô khó ở và dày vò mọi người khổ sở, nên khi mọi việc sắp xếp xong xuôi, Susannah và Alfred sẽ trở lại miền Đông, cô sẽ chịu đựng cuộc sống của mình. Cô quả quyết với Tristan rằng chẳng có gì dính dáng đến sự thương thân, chỉ vì cô không chịu nổi những thời kỳ điên dại và sự vắng mặt của anh được nữa.
Lúc cô dừng lời Tristan cố thu thập vài khoảnh khắc, đầu óc anh quay cuồng vì hoảng hốt. Anh vội vã tuôn trào cả lời lẽ lẫn suy nghĩ, cảm thấy trái tim đờ đẫn và rụng xuống, chìm sâu mãi vì thực tại. Anh nói Susannah không thể chịu đựng cuộc sống của cô vì cuộc sống thật kinh khủng và phức tạp, rồi sẽ có ngày họ lại có thể sống cùng nhau. Ít ra là một năm nữa anh sẽ trở về, họ sè lại gặp nhau, lúc đó tâm trí và tinh thần sáng sủa, họ sẽ có thể nói chuyện một cách bình tĩnh.
Thế là anh đi, còn cô lại hy vọng, bám lấy lời dối trá của anh để cứu vãn đời cô khỏi chấm dứt. Susannah hy vọng nhiều hơn vì trước kia anh đã bỏ đi nhiều năm như thế, vì cô tưởng cô đã hiểu anh sâu sắc, anh lại muốn chung sống với cô lần nữa. Sức khoẻ của Susannah khá lên đột ngột và khi trở về Washington, Alfred và bác sĩ tâm thần rất hài lòng vì cách cư xử của cô trong hơn mươi tháng sau, họ hy vọng cũng sôi nổi và nhầm lẫn như chính cô vậy.
Ở San Francisco, Tristan, gã Cree và gã Na Uy nhanh chóng liên hệ với gã Mexico, rồi lên thuyền buồm và ra khơi trong bóng tối mịt mùng. Theo lời khuyên của đại diện người chưng cất rượu, gã Mexico đã để lại dấu vết ở bến tàu là chiếc thuyền đi Hawaii để giao hàng ở Maui. Họ lên đường trong thời tiết bão tố, lạnh giá của miền Bắc, ngược theo bờ biển và trong một tuần đi đường thuận lợi, họ đã đến một vịnh nhỏ gần Church Point ở đảo Vancouver. Họ chất hàng trong đêm tối và trở lại điểm hẹn ở vịnh Bolinas ngay phía Bắc San Francisco.
Vận may tiếp tục theo họ ở Bolinas, việc dỡ hàng và thanh toán sòng phẳng không gặp trở ngại gì. Tristan và gã Mexico được một người đưa xuống San Francisco giúp thoả thuận chuyến hàng tptheo, do một nhóm chủ khách sạn trả tiền. Sau cuộc gặp trong căn phòng bên trên hàng bán rượu lậu ở North Beach, người đó lái xe đưa họ đến thẳng Golden Gate, đỗ bừa cạnh một nhà hàng trên cầu tàu để ăn một bữa ăn nhanh. Lúc buổi trưa, gã Mexico lo lắng khi nghĩ vừa thoáng thấy một kẻ giống hệt A. trước kia. Lúc họ ra khỏi bãi đỗ, bốn tên đàn ông nhanh chóng vây quanh họ, nện Tristan và gã Mexico bất tỉnh bằng dùi cui, rồi ném trả về xe họ, cắt cổ người đàn ông kia. Trước khi đánh, tên lịch sự nhất trong những kẻ tấn công bảo tốt nhất họ nên tránh xavc buôn rượu ở bờ biển này đi. Sau nửa đêm, lúc tỉnh dậy Tristan nhớ lại bộ complê xám và cặp mắt tươi cười của hắn, cùng đôi giày đi núi của dân Irish. Tristan và gã Mexico kéo người đàn ông bị cắt cổ ra khỏi xe, lái trở lại hàng bán rượu lậu và hỏi liệu công việc có tiếp tục nữa không. Nó vẫn thế.
Khi từ Canada trở về California, lần này đến vịnh Tomales gần Point Reyes, họ đã sẵn sàng lúc rạng đông, một chiếc xuồng lớn áp sát vào chỗ thuyền họ thả neo. Những người trong xuồng không biết Tristan đã dỡ hàng trên bờ biển cách đấy vài dặm. Lúc xuồng đến gần, Tristan và gã Mexico nằm dưới tấm buồm ướt quan sát, còn gã Na Uy và gã Cree ở bên dưới sẵn sàng đợt tấn công thứ hai nếu cần. chiếc xuồng quét một tràng súng máy đanh gọn trước khi Tristan và gã Mexico khai hoả rất chính xác khẩu súng săng 375. Tristan ra hai tên đánh anh và họ lia loạt đạn đầu tiên 500 grain dành cho những động vật có vú lớn nhất trên trái đất, thổi bay bọn chúngthành từng mảnh bắn tung khỏi xuồng. Gã Mexico theo dõi mớn nước của xuồng, rồi phát hiện ra đầu của hai tên còn lại đang bơi chó trong làn nước thuỷ triều đang lên.
Họ dong buồm về hướng nam đến Ensenada, và Tristan nhận ra rằng dù anh thắng trận này nhưng không thể thắng trong cả cuộc chiến. suốt mùa đông anh im hơi lặng tiếng, còn gã Mexico trở về Vera Cruz, ví đầy ắp nhưng hiểu rằng cuộc chơi đã kết thúc. Một tháng sau, Tristan cử gã Cree và gã Na Uy mang về nhà ở nông trại một bức thư dài cho các con, nhắn Ludlow và Decker rằng anh sẽ về nhà, sau khi thăm Alfred và Susannah trong mùa đua ngựa ở Saratoga. Tristan thuê một ngư dân già người Mexico và vợ ông ta trông nom con thuyền và nấu ăn cho anh. Anh uống rượu, rồi nghĩ đến Susannah và những gì có thể nói vì hồi tháng Sáu đã chẳng kể gì với cô. Anh bắt đầu buồn nhớ các con và cho phép vợ chồng lão ngư dân đưa ba đứa cháu lên thuyền khi mẹ chúng bỏ rơi chúng. Anh dành nhiều ngày uống rượu, cùng ông già câu cá bằng dâu câu trên chiếc xà lan nhỏ có buồm. đầu tháng Năm, anh day dứt nhớ các con đến mức để chiếc thuyền buồm lại cho đôi vợ chồng già trông nom, rồi đi về hướng bắc. Anh chẳng có ý niệm mơ hồ việc anh có thể thôi thúc Susannah sống lâu hơn biết chừng nào, nhưng anh về nhà trước khi đi về hướng đông đến Saratoga.
Tristan không có mấy giờ thảnh thơi ở Montana khi anh về đến nông trại hồi tháng Sáu. Mọi người có vẻ dễ chịu sau một mùa đông khắc nghiệt, dù Ludlow có phần yếu đi và giữa tháng Năm Isabel t.at qua nhà đã thầm nghĩ thế. Đến bữa tra, Decker nhắc rằng có hai người Irish bạn cũ của Tristan từ California vừa đến hôm kia, nhưng không may anh bảo họ rằng Tristan đến Saratoga. Tristan cảm thấy lạnh buốt sống lưng và giận điên lên khi biết rằng tất cả những người anh yêu qúy đều có nguy cơ bị chết.
Tảng sáng hôm sau Decker và One Stab đưa Tristan đến ga xe lửa ở Great Falls. Decker rất e ngại và muốn đi cùng nhưng Tristan không cho, bảo anh ta phải ở lại trông nom nông trại. trước khi họ ra về lúc chiều muộn, gã Cree và gã Na Uy đã có mặt ở hành lang, kể rằng có những kẻ lạ mặt vụt qua trong tầm nhìn. Tristan lên tàu, mặc bộ complet cũ của Samuel (anh chẳng có bộ nào), một túi đầy tiền và đồ lót, khẩu súng lục Beasley của ông nội và con dao găm của One Stab.
Khi Tristan đến New York, anh vội vã mua quần áo và một chiếc xe rồi lái hết tốc lực về hướng bắc đến Saratoga Springs. Mùa đua đang sôi nổi dù kinh tế suy thoái và anh không sao tìm được phòng trọ, nên đành ở lều của khách du lịch gần Glens Falls. Anh cạo phăng bộ ria và sáng hôm sau mua quần áo của một người giữ ngựa rồi thay bên dưới khán đài, tiếng ầm ầm của đám đông ngay trên đầu. Giữa các cuộc đua, anh xách xô nước và cái bàn chải ngựa, ngắm cuộc diễu hành long trọng của những con ngựa trên lớp cỏ mới xén ở đàng sau khán đài lớn, biểu diễn cho cuộc đua tiếp theo. Anh quan sát đám đông thật kỹ và nhận ra Alfred và ông bố vợ, Susannah che dù đang đứng với một nhóm các chủ ngựa sang trọng, gồm một nhóm nhỏ người Whitneys, Vanderbilts, Guests và Widerners, sau đó anh phát hiện ra một trong những tên Irish đứng gần luống hoa trang trí lộng lẫy, ăn mặc bảnh bao nhưng rõ ràng là hắn. Tristan đến bãi giữ ngựa gần chuồng, đi qua một người đàn ông to lớn, bóng bảy đang nói chuyện với một tay dô kề. lúc đi ngang qua, Tristan nhận ra giọng nói của tên thứ ba đã đánh anh ở North Beach. Tristan không quay lại và đi thẳng vào chuồng ngựa, người ta bảo anh dọn đẹp các ngăn chuồng. Đúng lúc đó tên đàn ông vào chuồng và nhìn quanh rụt rè. Hắn vào một ngăn vắng để đi tiểu. Tristan theo sau và rập mạnh đầu hắn vào tường rồi để cái chạc cào phân hai răng nặng nề lên đầu hắn. Tristan vùi hắn dưới lớp rơm và phân trong góc chuồng rồi trở lại nhà vệ sinh trong khán đài để thay quần áo. Anh xác định vị trí của tên Irish thứ hai và theo hắn đến nhà nghỉ của du khách sau khi hắn đã nhìn quanh tìm đồng bọn, cho đến lúc sân đua gần như vắng ngắt. Tristan đi theo hắn đến tận lúc chiều muộn chờ dịp cho đến lúc hắn từ bữa nhậu nhẹt về nhà trên hè đường có bóng mát gần nhà cho du khách. Tristan bẻ gãy cổ hắn, đổ sạch một thùng rác rồi nhét hắn vào trong và nhẹ nhàng đậy nắp lại.
Sáng hôm sau, sau một giấc ngủ say sưa nhờ rượu whiskey, anh lái xe về Saratoga, mặc bộ quần áo đắt tiền mua ở New York. Anh hy vọng có thể tách Susannah ra một lát và bằng cách nào đấy quả quyết với cô về tình yêu của anh, đủ để giữ cho cô sống tiếp. Cơ hội của anh đã đến sau bữa trưa, lúc cô đứng ngắm con ngựa hồng trong cuộc đua đầu tiên. Tristan đứng cạnh cô cho đến lúc cô nhận ra anh nhưng cô không tỏ ra ngạc nhiên, chỉ nói rằng cô biết anh sẽ đến.
Họ nhanh chóng ra khỏi trường đua đến ngôi nhà cách đó mấy khối, cha cô vẫn giữ cho mù đua ngựa. Tristan hơi do dự, nhưng cô nói ít ra còn một giờ hoặc hơn, người ta mới thấy thiếu cô. Thật không may, Alfred đã phân công cho một trong những trợ lý của thượng nghị sĩ để mắt đến Susannah vì cô có vấn đề về thần kinh. Sau lúc người trợ lý thấy Susannah vào nhà với một người đàn ông lạ, anh ta chạy vội lại trường đua báo cho Alfred.
Susannah dẫn Tristan đến phòng ngủ của chủ nhân để tránh bị các cô hầu đột nhập. Thoạt đầu cô tỏ vẻ lãnh đạm và khắt khe, đòi Tristan gặp cô ở Paris vào giữa tháng Mười. Anh từ chối, nói rằng thời gian đó không thích hợp. Cô trở nên kích động và anh gợi ý mùa xuân sang năm như một sự thoả hiệp, ngoài lúc đó ra cô không thể đi đâu. Cuối cùng là một lúc im lặng dài, đau đớn không chịu nổi khi anh nhận thấy những đấu hiệu chứng tỏ cơn điên của Susannah sắp đến. Anh chặn trước bằng cách kéo cô vào người và cam đoan rằng đến tháng Năm tới anh sẽ sẵn sàng. Cô run bắn lên trong tay anh và lúc anh nhìn chằm chằm qua vai cô. Alfred đã bước vào phòng. Susannah cảm thấy bàn tay Tristan cứng lại trên lưng cô và nghe thấy tiếng đóng cửa. Cô đoán việc xảy ra và lòng cô nhẹ hẳn khi nghĩ rằng mọi sự thế là đã chấm dứt và cô có thể ra đi cùng Tristan.
Họ cứ đứng như những pho tượng đá trong vườn, nghe tiếng thở của nhau và những tiếng ồn ào xa xa vọng từ trường đua. Alfred chỉ nói với Tristan:
- Tao muốn giết mày.
Tristan dứt khỏi Susannah và đưa cho Alfred khẩu súng lục của mình. Alfred trân trối nhìn khẩu súng rồi dí miệng súng vào thái dương Tristan. Họ nhìn nhau và Susannah tiến đến chỗ họ như người mộng du. Aflred quay súng vào đầu mình và Tristan đánh bật nó ra khỏi bàn tay anh. Alfred sụp xuống sàn và khóc nức nở, còn Susannah cúi xuống bên anh, bình tĩnh và vô tư nói rằng đấy là một sự hiểu lầm khủng khiếp, rằng cô sẽ ở lại bên anh mãi mãi. Rồi Alfred đứng lên, anh và Tristan trao đổi một cái nhìn không thể nói nên lời, vượt xa ngoài tầm hiểu biết, nhưng cái nhìn của Alfred không vương chút hận thù. Susannah theo Tristan vào phòng khách, hôn anh và cười rồi nói rằng có lẽ một ngày nào đó họ sẽ gặp nhau ở thiên đường hoặc ở địa ngục, ở bất cứ nơi nào con người đến, nếu họ đến được bất cứ nơi đâu.
Trên đường về nhà, Tristan đờ đẫn vì những ý nghĩ u ám và vì rượu, anh cười phá lên lúc đổi tàu ở Chicago, anh nhìn thấy trên quầy báo lệnh huỷ bỏ Luật cấm rượu. Về đến nhà, Tristnan chăm chỉ làm lụng với lũ ngựa, vui đùa cùng các con và đi săn cùng One Stab, ông lão có vẻ nhanh nhảu giả tạo và xanh xao của người già, nhưng không chịu thừa nhận tuổi tác.
Gần đến cuối tháng chín, Tristan nhận được một bức điện của Alfred từ Asheville, Bắc Carolina "Chú đã có cô ấy. Tôi đang gửi cô ấy về nhà…" Tristan phi ngựa đến Choteau kiểm tra bằng điện thoại địa chỉ gửi, và rất lo lắng thấy đó là địa chỉ của một nhà thương điên tư nhân. Anh mượn chiếc xe tải Ford và lái đến Great Falls đón tàu, hơi bối rối nhưng dù sao cũng hình dung ra rằng anh sẽ dùng phần đời còn lại để chăm nom Susannah, mường tượng rằng cuối cùng ở nông trại, có lẽ cô sẽ khoẻ lên. Tristan đón đoàn tàu với cảm giác lạnh buốt trong bụng nhưng anh bất chấp. một chính khách bạn của Alfred đến gần Tristan, dẫn anh đến toa hành lý, đưa cho anh một danh sách những lời chỉ dẫn về việc mai táng lúc phu khuân vác dỡ chiếc quan tài bằng gỗ hồng mộc bóng loáng xuống.
Chẳng còn gì nhiều mà kể nữa, Susannah được chôn cất cạnh Samuel và Hai, và hỡi bạn đọc, nếu anh ấy và cô ấy là tín đồ ngây thơ, có thể cảnh báo Chúa trời rằng hãy để anh ta một mình hoặc những việc tầm phào như thế. Không ai hiểu được vì sao tính ngẫu nhiên lại là sự kết hợp của báng bổ và định mệnh. Chỉ có một nhà nghiên cứu thần học lâu đời mới có thể suy xét việc Tristan nguyền rủa Chúa Trời từ nhiều năm trước ở Pháp, lúc anh và Noel bọc trái tim của Samuel trong nến. Người đương đại coi những sự kiện như thế hoàn toàn là ngang trái, có đủ mọi loại như nước ở nơi sâu nhất và xa nhất của Thái Bình Dương.
Một sáng Chủ nhật ấm áp giữa tháng Mười vài tuần sau tang lễ, Samuel và Ba đang chơi bấp bênh trên hiên bằng chiếc yên ngựa nhỏ và dây buộc vào tay vịn. Isabel đã mang bữa sáng lên gác cho Ludlow. Ông thấy không được khoẻ. Bà đang đọc Pierre, hoặc Những sự mơ hồ của Melville cho ông nghe. Ludlow ưa thích Melville trong khi Isabel thấy tác giả này khá buồn chán.
Trong bếp, Pet đang gói bữa trưa cho Tristan và các con đi chơi ngoài trời. Chị chăm chú lắng nghe câu chuyện của Decker và Tristan. Họ đang cố tìm cách thoát khỏi tình thế khó xử, rõ ràng bọn Irish có thể trở lại để báo thù. Tristan vươn vai và đến chỗ Pet hỏi ý kiến chị. Chị nói điều họ cần quan tâm nhất là bọn trẻ con và điều duy nhất quan trọng với chị là chúng được an toàn. Isabel Ba bước vào và kéo mạnh tay bố. Tristan hôn cô bé và bảo đợi mười phút nữa, cô bé chạy ra hiên hét tướng lên với Samuel là mười phút nữa.
Decker gợi ý nên đến Cuba là nơi Tristan có một finca nhỏ của anh mua từ mười năm trước, hiện giờ do hai thuỷ thủ người Cuba trông nom, từ mùa xuân năm ngoái họ đã chở đến hai con ngựa cái tốt để gây giống. Tristan lo lắng đến việc học của bọn trẻ và Decker nói tính mạng của bố chúng quan trọng hơn việc học hành. Pet là người đầu tiên nghe thấy tiếng xe, chị cứng người nhưng Samuel kêu to là cảnh sát đến và chị nguôi đi. Decker theo Tristan ra hiên và đứng lại với các cháu trong lúc Tristan đến gần hai cảnh sát đang đứng cạnh chiếc xe Ford hai chỗ.
Tristan ung dung và gần như chịu đựng lúc anh gật đầu chào mấy người cảnh sát, nhưng tim anh chợt nảy lên khi nhìn thấy một đứa chính là tên Irish lịch sự ở Sang Francisco và tên kia là một kẻ đâm thuê chém mướn, vụng về trong bộ đồng phục. Họ nhìn nhau trừng trừng trong giây lát.
- Tao đã mất hai người anh. tốt nhất là chúng ta dàn xếp chuyện này – tên đàn ông nói.
Tristan liếc vào hàng hiên, nơi Decker đang đứng cạnh Samuel, Ba và One Stab. Anh biết anh sắp hết đời và tim anh nhức nhối vì các con đang đứng trong ánh mặt trời trên hiên.
- Tôi sẽ đi với các anh, tôi chỉ muốn các con tôi không nhìn thấy – Tristan nói.
Tên Irish gật đầu rồi bỗng giật mình vì Ludlow mặc áo ngủ, đi chân trần, lảo đảo qua lớp cỏ màu nâu khô héo, chiếc áo khoác bằng da bò rừng quấn quanh người. Tristan lịch thiệp nói đây là cha anh nhưng Ludlow lắc mái đầu bạc trắng, giơ chiếc bảng đen trên viết "Chuyện này nghĩa là gì vậy?"
Tên Irish khe khẽ xin lỗi, nói hắn rất tiếc nhưng Tristan phải trả món nợ với xã hội bằng một thời gian dài ở tù. Ludlow lắc đầu, thân hình ông thình lình giật nảy lên như thể ông là con chim ưng đang vồ mồi. Ông nâng khẩu súng săn cỡ 12 ly để dọc chân lên qua kẽ hở của chiếc áo choàng và thổi bay hai tên Irish vào chốn vĩnh hằng.