Kể từ đầu thế kỷ thứ 20, khi các đảng phái chính trị xuất hiện và hoạt động trên toàn cõi đất nước thì năm 1954 phải được coi là cái mốc quan trọng đánh dấu một sự thay đổi lớn trong bản chất cũng như trong sinh hoạt của các đảng phái. Thật vậy, từ những tổ chức cách mạng bí mật chống Tây giành độc lập đồng thời chống nội thù Cộng Sản, thì kể từ năm 1954, khi chính trị miền Nam được san định rõ ràng, các đảng phái đó đã biến thành các tổ chức thuần chính trị, chuẩn bị đấu tranh công khai dưới những hình thức dân chủ hợp pháp và hợp hiến để tiến đến việc nắm chính quyền.
Trong cơn trở mình và biến hình quan trọng đó, các đảng phái đã gặp phải hai trở lực lớn: Trở lực thứ nhất kể từ đầu thập niên 60 trở đi, khi đảng Cộng Sản cho ra đời Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để tranh giành ảnh hưởng với họ trên địa bàn quần chúng và thu chiếm đi một số thành phần cán bộ quan trọng; và Trở lực thứ hai kể từ khi ông Diệm nắm chính quyền vào năm 1955, tiến hành chính sách độc đảng chuyên chính và dẫm nát mọi sinh hoạt dân chủ mà mọi đảng phái đang bắt đầu xây dựng.
Chính chính quyền Ngô Đình Diệm đã tinh vi tiêu diệt cái tinh lõi còn sót lại của một đảng cách mạng và làm tê liệt mọi chức năng cần thiết mới thành hình của một đảng chính trị, đẩy họ vào thế thụ động chờ thời hoặc thỏa hiệp với quyền lực và quyền lợi. Bằng đàn áp, kềm kẹp, mua chuộc, hăm dọa, chia rẽ, ly gián, thủ tiêu,... đảng Cần Lao và anh em ông Diệm đã phá nát cái truyền thống cách mạng của đảng phái vốn được khai sinh từ những ngày chống Tây cứu nước. Một số hiếm hoi các cá nhân hoặc tổ chức kiên trì với lý tưởng của mình thì đành phải rút vào bóng tối, âm thầm và giới hạn mọi sinh hoạt và dần dần mất hết sinh lực và bề thế cần thiết của một đảng Cách mạng.
Không những chỉ tiêu diệt các đảng phái là những tổ chức đấu tranh chính trị, chính quyền Ngô Đình Diệm còn thực hiện chính sách tiêu diệt các tôn giáo khác, vốn là sức mạnh và nền tảng xã hội của quần chúng miền Nam. Nhân những biến động quân sự của các giáo phái võ trang vào những năm đầu mà chủ yếu do Bình Xuyên và một vài lực lượng võ trang chủ xướng, ông Ngô Đình Nhu đã cố tình đồng hóa các lực lượng võ trang phiến loạn này với toàn bộ các tôn giáo của miền Nam (địa dư) mà biểu tượng là Cao Đài và Hòa Hảo. Không phát xuất từ quan niệm Yêu Nước là Yêu Dân, không chủ xướng chính sách Dân Có Mạnh Nước Mới Giàu, nên chính quyền Ngô Đình Diệm đã xem dân như một phương tiện để phục vụ chế độ, đã phải xem dân như kẻ thù, chỉ sợ quần chúng mạnh thì sẽ cướp mất cái chính quyền đang đem lại đặc quyền đặc lợi cho gia đình và phe đảng. Vì vậy chính quyền Diệm mới phải tiêu diệt Hòa Hảo, đánh phá Cao Đài và cuối cùng khai chiến với Phật giáo. Mục đích tối hậu của chủ trương này là để Công giáo hóa nhân dân miền Nam, dành cho Công giáo ngôi vị độc tôn.
Hai lực lượng có tính quần chúng và có khả năng đề kháng những độc tố hủy hoại sinh lực quốc gia là Đảng phái và Tôn giáo, sau 9 năm bạo trị của chế độ Ngô Đình Diệm, chỉ như đóm lửa bùng lên lần chót vào cao điểm ngày Cách mạng 1-11-1963, rồi sau đó không còn tiềm lực để duy trì thành quả của một cao trào đang lên. Ba năm xáo trộn mà tôi trình bày trong chương 18 chỉ là hậu quả tất nhiên của cái thời kỳ chín năm khốc hại trước mà thôi.
Các nhà làm chính sách của Hoa Kỳ không nhìn thấy được nguyên ủy đó, lại càng không phát hiện được vai trò và nhiệm vụ lịch sử của các tôn giáo trong dòng sinh mệnh của dân tộc Việt Nam, nên đã đánh giá sai lạc vị trí và sức mạnh của các tôn giáo Cao Đài, Hòa Hảo và Phật giáo Việt Nam mà họ cho là không chống Cộng như giáo hội Công giáo, cho nên sau ba năm xáo trộn, người Mỹ lại can thiệp mạnh mẽ vào chính trường Việt Nam (như cách đó 10 năm trước họ đã áp lực để đưa ông Diệm về và đẩy ông lên làm Thủ tướng) để khai sinh ra một nền Đệ Nhị Cộng Hòa với hai đặc tính rõ rệt: quân phiệt, để sử dụng võ lực chống Cộng, và Công giáo, để bảo vệ tinh thần chống Cộng. Nghĩa là chống Cộng bằng vũ khí và quyết tâm của tông đồ “diệt ma quỷ”. Khai sinh ra nền Đệ Nhị Cộng Hòa với hai đặc tính đó sau ba năm xáo trộn, quả thật phù hợp với ý đồ của lực lượng chính trị của giáo hội Công giáo đang thỏa mãn vì thấy “không có Cụ thì loạn như thế”, và đang lợi dụng tình trạng hỗn loạn (mà họ cũng đã là một thành tố đóng góp) để tìm cách trở lại chính quyền.
Vì chỉ chiếm một phần mười dân số và vì đa số người Công giáo chỉ sống tập hợp đông đảo tại Thủ đô Sài Gòn và vùng phụ cận nên đã làm cho những ai thiếu nghiên cứu, hoặc chỉ phân tích một cách phiến diện theo nhãn quan chính trị Tây phương, tưởng rằng trong vấn đề tương quan quyền lực tại Việt Nam, khối Công giáo không phải là một thế lực chính trị vững mạnh và có tầm vóc quyết định cục diện chính trường miền Nam.
Trước năm 1954, tại miền Nam Việt Nam, Giáo hội Công giáo chỉ có các giáo phận Huế, Quy Nhơn, Sài Gòn, Vĩnh Long, Cần Thơ. Nhưng từ khi ông Diệm lên cầm quyền và với cuộc di cư của gần 700.000 giáo dân miền Bắc, ông Diệm và giáo hội La Mã đã cấp tốc mở thêm các giáo phận Đà Lạt, Mỹ Tho, Long Xuyên (1960), Đà Nẵng (1963), Xuân Lộc và Phú Cường (1964) trong ý đồ mở rộng nước Chúa. Việc mở thêm hai giáo phận cuối cùng đã được sắp đặt từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa, đến năm 1964 mới thực hiện.
Đồng thời, để bảo vệ cho dinh Độc Lập và cho “căn cứ địa” của chế độ là thủ đô Sài Gòn, cũng như để phô trương sức mạnh của Công giáo, ông Diệm đã cho xây dựng một cái giáp sắt Công giáo (danh từ của Jean Lacouture trong Le Vietnam Entre Deux Paix) bao quanh Sài Gòn và cho phép giáo dân “xâm chiếm” đất đai Sài Gòn và vùng phụ cận. Ai đã từng sống tại Sài Gòn từ trước 1954 cũng phải nhận thấy rằng đến năm 1963, Sài Gòn không còn mang tính chất “Nam kỳ” nữa mà đã “Bắc kỳ hóa” theo kiểu Công Giáo, Sài Gòn không có được sự tổng hợp phải có của hai miền sau cuộc di cư với sự hòa đồng văn hóa mà đã biến thành một đô thị đặc biệt Thiên Chúa giáo. Trước năm 1954, Sài Gòn và Chợ Lớn chỉ có nhà thờ Đức Bà, nhà thờ Huyện Sĩ, nhà thờ Tân Định, nhà thờ Ngã Sáu, nhà thờ Kỳ Đồng, nhà thờ Chợ Lớn (sau này quen gọi là nhà thờ Cha Tam) mà tín đồ phần đông là người Pháp, người Pháp gốc Việt, và người Tàu. Nhưng từ ngày ông Diệm lên cầm quyền thì nhà thờ và tu viện mọc ra khắp nơi (chưa kể số nhà thờ trong các đơn vị quân đội cũng chỉ mới được thiết lập sau khi ông Diệm lên cầm quyền). Giáo dân sống tràn ngập vùng Phú Thọ, Ngã Tư Bảy Hiền, Ngã Ba Ông Tạ, vùng Lăng Cha Cả, vùng Hạnh Thông Tây, vùng Tân Châu Sa, Ngã Ba Chú Ía, vùng Tân Định, Gò Vấp... Cứ nhìn khu Phạm Ngũ Lão náo nhiệt gần chợ Sài Gòn thì đủ thấy các cơ sở thương mại, kinh tế, báo chí đa số đều do người Công giáo làm chủ. Cứ nhìn vào con số các trường tư thục ta sẽ có ý niệm về sức bành trướng ảnh hưởng của người Công giáo tại miền Nam Việt Nam dù dân số họ thua kém cả hai tôn giáo Hòa Hảo và Cao Đài. Cho đến năm 1969 (trên toàn quốc) Công giáo có 1256 trường Trung, Tiểu học và Mẫu giáo [1]. Trong lúc đó thì mãi cho đến năm 1970, Phật giáo mới chỉ có 160 trường Trung, Tiểu học Bồ Đề [2]. Còn cơ sở giáo dục của hai tôn giáo Cao Đài và Hòa Hảo thì thật vô cùng khiêm tốn, nếu không muốn nói là con số không. Cao hơn nữa, cho đến cuối năm 1963, toàn miền Nam chỉ có thêm 2 trường Đại Học đều do hai Linh mục Công giáo làm Viện trưởng là Huế và Đà Lạt. Và Viện trưởng Đại Học Huế là Linh Mục Cao Văn Luận chỉ có bằng Cử nhân.
Chỉ một lãnh vực trên, khi phóng rộng ra mà không sợ sai nhiều, ta cũng thấy được sự hoạt động xông xáo của người Công giáo di cư về mọi mặt, đặc biệt là về mặt chính trị, thứ chính trị tranh giành địa vị, danh lợi. Đã thế người Công giáo Việt Nam còn được Hoa Kỳ, cả chính quyền, giáo hội lẫn tư nhân tin cậy, yểm trợ hết lòng về phương tiện và thế lực nên Công giáo Việt Nam càng bành trướng quyền lực mau lẹ và dữ dội.
Người Công giáo “Bắc kỳ”, như Jean Lacouture đã nói trong tác phẩm của ông, là hạng người hiếu động, “to mồm”, mang nặng hận thù với người Việt dân tộc từ thế kỷ thứ 17, 18. Họ lại cuồng tín, giáo điều, và hẹp hòi đến độ bất nhân cho nên sau cái chết của ông Diệm họ vẫn không chịu công nhận tội lỗi và trách nhiệm để trở về hòa đồng với đại khối dân tộc. Họ tìm cách vùng lên, tìm cách tái tạo thế lực hầu tiếp tục quá khứ vàng son của họ để vừa có thể nắm được chính quyền vừa để trả thù những lực lượng dân tộc vốn chỉ là nạn nhân của họ. Sau cái chết của ông Diệm, người Công giáo trở nên đoàn kết hơn. Cả những người đã từng chống đối anh em ông Diệm cũng quay về đứng chung một giới tuyến, làm hậu thuẫn cho ông Nguyễn Văn Thiệu mà trường hợp linh mục Hoàng Quỳnh và Cao Văn Luận là điển hình. Hiện tượng đó, bên trong là do mặc cảm tội lỗi và bên ngoài là vì sau cái chết của ông Diệm, những sự thật về mối liên hệ giữa giáo hội Công giáo và chính quyền Diệm, đặc biệt là với thành phần Cần Lao Công Giáo, càng lúc càng bị tiết lộ ra rõ ràng. Ngay cả luật sư Nguyễn Văn Huyền, một nhân sĩ Công giáo miền Nam từng có thái độ bất hợp tác với chế độ Diệm, từng đả kích Cần Lao trong một cuộc phỏng vấn của báo chí khi Cách mạng 1-11-63 vừa hoàn thành, thế mà rồi bất đắc dĩ cũng phải hợp tác với Nguyễn Văn Thiệu.
Thật ra thì sự phục hồi quyền lực của khối Công giáo đã bắt đầu từ khi xảy ra cái chết của Thiếu tá Nhung, viên sĩ quan thân tín của tướng Dương Văn Minh, người đã hạ sát hai ông Diệm-Nhu [3]. Kể từ cái chết đó, khối Công giáo tích cực hoạt động chống đối Phật giáo, chống đối sinh viên và chống đối các đảng phái để tiến lên cho đến khi họ lật được chính quyền dân sự của hai ông Phan Khắc Sửu và Phan Huy Quát, tạo lý do và cơ hội đưa dần ông Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng thống như tôi đã trình bày trong chương “Ba Năm Xáo Trộn”.
Về phần ông Nguyễn Văn Thiệu, tuy đã nắm được chính quyền nhưng tự biết mình vừa không đủ uy tín vừa không có hậu thuẫn, đã thế còn bị ông Nguyễn Cao Kỳ thù nghịch và chống phá, nên phải thỏa hiệp và “đầu quân” khối Công giáo để có hậu thuẫn chính trị hầu đương đầu với các khối đối lập.
Sự cấu kết giữa “Kẻ cắp” Nguyễn Văn Thiệu và “Bà già” Công giáo đã biến chế độ Đệ Nhị Cộng Hòa thành ra chế độ Diệm không Diệm. Việc ra đời cuốn sách Làm thế nào để giết một Tổng thống của Cao Thế Dung vào năm 1970, và việc ra đời cái tổ chức gọi là “Phong Trào Phục Hồi Tinh Thần Ngô Đình Diệm” của khối Công giáo mà Thiệu đã âm thầm chủ xướng, càng tô đậm thêm cái căn cước thật sự của chế độ Thiệu là một chế độ Diệm không Diệm.
Lợi dụng cơ hội “đầu quân” đó của ông Thiệu, và nhìn thấy viễn tượng quyền lực ông Thiệu sắp nắm được, người Công giáo bèn quên cái tội của ông Thiệu trong quá khứ vốn là một con chiên ngoan đạo và là một sĩ quan trung thành với ông Diệm nhưng lại cầm quân tấn công dinh Gia Long để lật đổ ông Diệm. Có quên cái ‘tội” đó mới thỏa hiệp được với nhau trong vấn đề san sẻ quyền lực và tiến hành được ý đồ phục hồi những quyền lợi đã mất. Những người Công giáo tự xưng là trung thành với ông Diệm cũng đã không ngần ngại ngửa tay nhận của Thiệu 500.000 đồng bạc để tổ chức lễ cúng kỵ ông Diệm lần đầu tiên tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, và còn mời cả vợ Thiệu đến tham dự. Buổi lễ đầu tiên ấy chính do âm mưu sắp đặt của ông Thiệu (như Robert Shaplen đã nói trong loạt bài The Cult of Diệm) nên Ngô Khắc Tỉnh, Bộ trưởng Thông Tin của Thiệu tổ chức và chủ tọa, đã nói lên sự cấu kết giữa chính quyền Thiệu và khối Công giáo chặt chẽ và tương đắc như thế nào. Trung úy Nguyễn Minh Bảo, trong tập Đời một Tổng thống, nhân nói về lễ cúng kỵ ông Diệm tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, đã tỏ lòng biết ơn và tôn vinh chính quyền Thiệu, càng làm nổi bật cái bản chất chế độ Thiệu chỉ là một chế độ Diệm nối dài:
... Hàng năm, ngày 2 tháng 11 tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi Sài Gòn, lễ truy điệu (cố Tổng thống Diệm) được tổ chức trọng thể...
Ngay giữa Thủ đô, buổi lễ được tổ chức trang trọng với sự hiện diện của hàng vạn người (LTG: thật ra chỉ vài ngàn người mà hầu hết là người Công giáo) còn nói lên thái độ sáng suốt, vô tư và đắc nhân tâm của chính quyền vì nó đã gây được niềm hân hoan cho một tập thể quần chúng đông đảo có tinh thần quốc gia chân chính và lòng quyết tâm chống Cộng không lay chuyển [4].
Nguyễn Minh Bảo là một sĩ quan thuộc Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống Phủ thời Đệ Nhất Cộng Hòa, một cán bộ Cần Lao Công Giáo cuồng tín, chỉ biết nhất Chúa nhì ông Diệm còn tất cả chỉ là thứ yếu. Rõ ràng là trong lúc toàn quân toàn nước, toàn thế giới ai cũng biết và lên án chính quyền Thiệu quân phiệt, tham nhũng, hại nước hại dân thì Bảo lại ca tụng cái chính quyền đó là “sáng suốt, vô tư và đắc nhân tâm...” như Bảo đã từng mù quáng ca tụng “người ta chỉ thấy rằng dưới thời T.T. Ngô Đình Diệm, các tôn giáo đã đạt được một thời kỳ hưng thịnh nhất” trong cuốn sách của anh ta. Điều đó chỉ nói lên hai điểm đặc trưng của những thành phần Cần Lao Công Giáo Việt Nam: Thứ nhất là khối Công giáo sẵn sàng ca tụng và hậu thuẫn cho bất cứ ai, bất cứ thế lực nào, miền là có lợi cho nước Chúa, dân Chúa; và thứ hai, mà đây mới là điểm thê thảm, là những điều họ nghĩ, họ nói và họ làm phản ảnh cái phong cách hành xử của một giáo hội đang chà đạp lên nội dung tốt đẹp của những lời rao giảng trong Phúc Âm.
-o0o-
Năm 1966, nền Đệ Nhị Cộng Hòa ra đời với tấm giấy khai sinh chính trị đề tên “chế độ Nguyễn Văn Thiệu”. Để nhận diện chế độ này, ta không thể theo phương pháp thông thường đặt nặng vấn đề cứu xét các chánh sách, thẩm định các cơ cấu chính quyền hay phân tích các văn kiện căn bản về hành chánh và tư pháp, mà trong trường hợp chế độ Thiệu của miền Nam kể từ 1966, ta phải nhìn thành phần nhân sự lãnh đạo ở thượng tầng cai trị, và cái thế lực hậu thuẫn chế độ đó ở hạ tầng quần chúng.
Thật vậy, kể từ năm 1954, chính trị miền Nam là một loại chính trị mà lực vận động chính là nhân sự. Chánh sách, đường lối, sách lược, phương tiện... đều đã bị Hoa Kỳ âm thầm hay công khai nắm lấy để điều động, cho nên trong mỗi giai đoạn, với mỗi chế độ, đều có một khuôn mặt Việt Nam tiêu biểu, đều có một lực lượng Việt Nam nổi bật lên, và chỉ cần xét khuôn mặt đó, lực lượng đó là ta có thể thấy được chân tướng chính trị và văn hóa của chế độ này.
Đó là quy luật đặc thù của chính trị miền Nam từ sau 1954.
Chế độ Thiệu cũng không nằm ngoài quy luật đó, cho nên chỉ cần điểm mặt thành phần lãnh đạo làm việc cho Thiệu và vì Thiệu, chỉ cần lôi ra ánh sáng thế lực hậu thuẫn cho chính quyền quân phiệt đó là ta có thể xác định được chế độ Thiệu có phải là một chế độ “Diệm không Diệm” không?
Vậy thì những ai làm việc cho ông Thiệu?
Trong dinh Độc Lập có Cố vấn An ninh Tình báo kiêm Cố vấn Quân sự là ông Đặng Văn Quang, người con nuôi tinh thần của Bà Ấm, chị ruột Tổng thống Diệm và là thân mẫu của Giám mục Nguyễn Văn Thuận. Ngoài những chức vụ chính thức ông Quang còn có những nhiệm vụ bí mật là thiết lập kế hoạch và phối hợp công tác của các cơ quan chính quyền để triệt phá các thành phần đối lập với chế độ mà đối tượng số một là Phật giáo. Ông Quang cũng là người điều động một hệ thống tổ chức buôn thuốc phiện lậu để chia lời với ông Thiệu như ông Nhu trước kia buôn thuốc phiện lậu để làm giàu mà Mac Coy đã nói rõ trong The Politics of Heroine in Southeast Asia.
Cố vấn phụ trách Kinh tài là dược sĩ Nguyễn Cao Thăng, Giám đốc hàng thuốc O.P.V., người Công giáo Phú Cam, từng làm Dân biểu gia nô và Kinh tài cho anh em ông Diệm. Nhiệm vụ chính trị của Thăng là xây dựng cho ông Thiệu một Quốc hội bù nhìn mà đa số phải là người Công giáo. Chính ông Thăng thay ông Thiệu để giao thiệp, mua chuộc, hướng dẫn và kiểm soát Quốc hội để điều hướng định chế gọi là “dân cử” này ủng hộ đường lối của ông Thiệu. Khi ông Thăng bất thình lình chết vì bệnh ung thư thì phụ tá của ông Thăng trong dinh Độc Lập là ông Nguyễn Văn Ngân lên thay thế. Ông Ngân là người Công giáo Nghệ Tĩnh, bà con của Linh mục Cao Văn Luận. Đúng như giáo sư Nguyễn Khắc Ngữ đã nói trong tác phẩm Những Ngày Cuối Cùng của VNCH, hết Thăng rồi đến Ngân, họ chính là những người nắm giữ tay hòm chìa khóa của quỹ chi tiền cho các Dân biểu, Nghị sĩ và các lực lượng thân chính.
Cố vấn Chính trị và là Quân sự Tối cao của ông Thiệu một cách không chính thức trong dinh Độc Lập là Linh mục Cao Văn Luận, nguyên là một công thần của nhà Ngô. Linh mục Luận được anh em ông Diệm cho làm Viện trưởng Viện Đại học Huế nhưng đến năm 1963, trước cao trào đấu tranh dũng mãnh của Phật giáo, sinh viên và trí thức miền Nam, ông Luận phải miễn cưỡng gia nhập theo nên bị nhà Ngô cất chức Viện trưởng. Cần nhắc lại rằng khi thế lực Công giáo được phục hồi, ông Cao Văn Luận bị khối Công giáo chỉ trích thái độ chống chính quyền Diệm trước kia nên bèn tìm cách liên hệ để tiến thân với Thiệu và cuối cùng được ông Thiệu tín nhiệm. Nhờ cái “mác” Viện trưởng Viện Đại học cũ, lại nhờ đi ngoại quốc nhiều nên ông Luận được Thiệu giao cho nhiệm vụ đặc biệt là giao thiệp, liên lạc với các chính khách Hoa Kỳ, và đặc biệt với Tòa Thánh La Mã.
Cố vấn tình báo chiến lược là ông Huỳnh Văn Trọng, tốt nghiệp đại học Luật và là một tín đồ Công giáo xuất thân từ một dòng tu ở Hồng Kông. Dưới thời chính phủ Nguyễn Phan Long (1950), Trọng giữ chức Tổng thư ký chính phủ và vẫn tiếp tục là nhân viên cao cấp dưới thời chính phủ Ngô Đình Diệm. Khi chính phủ Diệm tiến hành chính sách tiêu diệt đảng phái, Trọng trở thành đối tượng của chính sách nầy nên phải lánh nạn trong dòng Chúa Cứu Thế. Sau đó, khi tình hình bớt nguy hiểm, ông Trọng tái xuất hiện nhưng chỉ âm thầm dạy Việt ngữ và Pháp ngữ cho nhân viên Sứ quán Mỹ tại Sài Gòn. Chính trong thời gian nầy, nhân viên cao cấp của Hà Nội là ông Vũ Ngọc Nhạ đã phát hiện ra ông Trọng và kết nạp vào Cụm tình báo A-22. Sau cuộc bầu cử Tổng thống năm 1967, ông Vũ Ngọc Nhạ định vận động với ông Nguyễn Văn Thiệu cho ông Trọng giữ chức Thủ tướng, nhưng vì điều kiện chính trị phức tạp lúc đó nên ông Trọng chỉ đóng vai Cố vấn tình báo chiến lược về những vấn đề chính trị và ngoại giao trong Phủ Tổng thống. Nhưng rồi A-22 bị phát giác, cả hai ông Nhạ lẫn Trọng đều bị bắt và bị Tòa án Quân sự Đặc biệt kết án đày ra Côn đảo.
Như vậy, trong một chế độ mà các quyết định sinh tử liên hệ đến vận mệnh quốc gia đều tập trung vào một người chứ không phải vào những Hội Đồng An Ninh, Hội Đồng Nội Các hay Quốc hội như chế độ Thiệu, thì vai trò Cố vấn trong những buổi họp kín giới hạn mới là vai trò mấu chốt. Mà bốn người cố vấn Quân sự, Chính trị, Kinh tài và Tình báo, tuy xuất thân từ những môi trường khác nhau, sinh hoạt trong những lãnh vực khác nhau, tiến thân từ những trình độ khác nhau, nhưng lại có một yếu tố chung rất nổi bật, đó là tôn giáo của họ, đó là cái liên hệ ruột thịt và sắt đá vào Giáo hội Công giáo Việt Nam, mà nhờ đó họ đã bước lên được vị trí gần nhất chung quanh ông Tổng thống Công giáo thứ nhì của nền Việt Nam Cộng Hòa.
Họ cần Thiệu cũng như Thiệu cần họ trong cái thế thỏa hiệp để san sẻ quyền lực và củng cố quyền lực. Con chiên ngoan đạo Nguyễn Văn Thiệu đã không cần thắp đuốc tìm nhân tài mà chỉ cần mở cửa quyền lực đón người đồng đạo là có đủ quyền lực để cai trị miền Nam. Vì khi đã có “tứ trụ triều đình” người Công giáo rồi, thì cũng như ông Diệm ngày xưa trong chính sách nhân lực, cả cái hệ thống vận hành trung cấp ở dưới phải là các linh mục và các tín đồ Công giáo khác.
Trước hết là Linh mục Nhuận và nhóm Nguyễn Đức Xích phụ trách việc theo dõi, dò xét các đảng phái, tôn giáo và những thành phần đối lập rồi báo cáo thẳng cho ông Đặng Văn Quang. Linh mục Nhuận là Cha sở thuộc họ đạo Phú Nhuận, sau đó được hai ông Thiệu và Quang đền bù công lao bằng cách giúp tiền bạc để xây cất một giáo đường đồ sộ tân kỳ tại Phú Nhuận, đối diện với ngôi chùa Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ của Cao Đài gần cổng số 4 Bộ Tổng Tham Mưu, đường lên Quân Y Viện Cộng Hòa. Còn Thiếu tá Nguyễn Đức Xích (có người em là linh mục hiện sống ở Úc Châu, hiện nay ông này đã lập gia đình) được Thiệu và Quang cho giữ chức “giám sát” trong cơ quan Giám Sát Viện, phụ tá bí mật cho ông Ngô Xuân Tích là bà con của ông Thiệu giữ chức Chủ tịch Viện giám sát. Người phụ tá miền Trung cho linh mục Nhuận có tên là Huỳnh Bút (biệt hiệu là Hoàng Ái Việt) quê ở tỉnh Quảng Ngãi, vốn là một cán bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng từng được ông Ngô Đình Cẩn mua chuộc trước kia. Những hoạt động phản đảng của ông Huỳnh Bút được anh em Việt Quốc biết rõ từ thời Ngô Đình Diệm.
Một linh mục khác mà bà con Nguyễn Phước tộc hầu như ai cũng biết là Linh mục Bửu Dưỡng, vị cố vấn bí mật đặc trách Văn hóa Giáo dục cho chính quyền Thiệu. Bửu Dưỡng là người đã từng cùng với Ngô Đình Nhu khai sinh ra cái quái thai “Chủ Nghĩa Nhân Vị Duy Linh” và yểm trợ cho chế độ Diệm tiến hành sách lược “Công giáo hóa miền Nam” mà tôi đã đề cập trong những chương trước.
Cuộc Cách mạng 1-11-1963 đã bị vị linh mục này bóp méo nội dung như một cuộc chiến tranh tôn giáo mà Phật giáo là kẻ thù đã lật đổ chế độ. Nên khi ông Thiệu cầm quyền, linh mục Bửu Dưỡng đã tự nguyện đến hợp tác với chỉ một ý đồ là phục hồi lại các nhân sự của chế độ cũ để nắm lấy guồng máy chính quyền mà trả thù Phật giáo. Linh mục Bửu Dưỡng đã được Thiệu và Hoa Kỳ giúp đỡ thiết lập Viện Đại Học Minh Đức để cùng với trường Đại học Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt của ông Ngô Đình Thục trước kia làm công việc “trồng người” cho chế độ Công giáo trị mới. Vì căm thù Phật giáo quá độ, linh mục Bửu Dưỡng đã không ngại ngùng xúi dục khuyến khích sinh viên Công giáo trường Minh Đức viết bài đả kích công khai Phật giáo trên tờ nguyệt san Đại Học Minh Đức, cơ quan ngôn luận chính thức của nhà trường. Nhiều cựu sinh viên Minh Đức và Vạn Hạnh hẳn không thể nào quên được những báo ký tên Thích Quang đã có những luận điệu hạ nhục cả Đức Phật Thích Ca. Mở Viện Đại Học Minh Đức, Bửu Dưỡng và khối Công giáo còn muốn ganh đua với trường Đại học Vạn Hạnh của Phật giáo đang thu hút đông đảo sinh viên thanh niên hướng về tình tự và truyền thống dân tộc.
Một vị Giám mục nổi tiếng khác là ông Nguyễn Văn Thuận (gọi Tổng thống Diệm bằng cậu ruột và cai quản giáo phận Nha Trang). Ông là một người thông minh, khôn ngoan và thâm thúy, ông cũng là vị giám mục trẻ tuổi nhất trong hàng giáo phẩm cao cấp của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Tôi gặp ông lần đầu tiên tại Paris năm 1956 do linh mục Giảng (hiện ở Pháp) giới thiệu. Lúc bấy giờ ông bí mật hoạt động lôi kéo kiều bào ở Pháp về với chế độ Diệm, đồng thời vận động giới tu sĩ và trí thức trẻ Công giáo Pháp ủng hộ cho chế độ của người cậu ruột của ông ta.
Sự sụp đổ của chế độ và cái chết của ba người cậu ruột đã làm cho ông trở nên cứng rắn, quyết liệt hơn trong tham vọng xây dựng khối Công giáo trở thành một lực lượng sắt thép để nắm lấy chính quyền tại miền Nam và biến miền Nam thành một người con hiếu thảo của Giáo hội La Mã hầu một mặt trả mối thù gia tộc, và mặt khác thì hoàn tất sách lược của các ông cậu trước kia. Những tổ chức Công giáo quốc tế còn tiếc thương gia đình họ Ngô đã ngầm giúp Giám mục Thuận sớm trở thành nhân vật quan trọng của Giáo hội Việt Nam để ông có uy thế và phương tiện hoạt động chính trị. Vì thế cho nên dù là một Giám mục còn trẻ tuổi, ông vẫn được giao phó trọng trách phụ tá Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình. Ông còn được Công giáo quốc tế giao chức Tổng thủ quỹ Caritas, một tổ chức từ thiện của Công giáo Hoa Kỳ đặt trụ sở tại Phi Luật Tân. (Thật ra từ thời Diệm đến thời Thiệu, Công giáo quốc tế, đặc biệt là giáo hội Hoa Kỳ, đã đặt tại miền Nam rất nhiều cơ quan bề ngoài thì để làm việc từ thiện cho dân Việt Nam nhưng mục đích chính yếu là để mua chuộc dụ dỗ người Việt Nam theo Công giáo).
Để tránh dư luận, giám mục Thuận ít công khai liên hệ với ông Thiệu tại dinh Độc Lập mà chỉ bí mật giao thiệp với ông Đặng Văn Quang, vốn là người em tinh thần của ông. Tuy nhiên, hành động bí mật của ông cũng không che mắt được Võ Văn Hải, một người rất khinh bỉ và thù ghét nhóm Công Giáo Cần Lao, thù ghét Nguyễn Văn Thiệu và Đặng Văn Quang. Cũng như dưới thời Tổng thống Diệm mà Hải đã để tâm theo dõi những hành động ám muội của anh em Tổng thống Diệm, ngày nay Hải lại theo dõi cha Thuận và biết được ông ta cùng với Đặng Văn Quang cầm đầu tổ chức buôn vỏ đạn trọng pháo mà theo Hải thì thương vụ lên đến 800 triệu bạc Việt Nam.
Như vậy, bảy nhân vật Công giáo mà tôi vừa kể trên (mà đến bốn đã là giám mục và linh mục) đã thực sự là những người quần tụ chung quanh vị Tổng thống cũng Công giáo để tạo ra cái đầu não nắm lấy vận mệnh miền Nam. Họ bám lấy Thiệu mà sống và phát triển cũng như Thiệu bám lấy họ mà tồn tại và thi thố quyền lực.
Khi đã có cái đầu não vừa đồng đạo vừa đồng lợi như vậy thì các bộ phận thừa hành cũng phản ánh và nối dài cái tính chất đạo và lợi như thế để phù hợp khít khao với khuôn thước mà chế độ Diệm để lại.
Thật vậy, ở Thượng Viện, Nguyễn Văn Thiệu luôn luôn có 3 hay 4 liên danh Công giáo làm tay sai: Liên danh Nguyễn Văn Huyền, liên danh Huỳnh Văn Cao, liên danh Nguyễn Gia Hiến và liên danh Trần Văn Lắm gồm hầu hết là người Công giáo hay là người của chế độ cũ nổi tiếng trung thành với ông Diệm. Chức Chủ tịch Thượng viện suốt thời gian Thiệu cầm quyền nằm trong tay hai nhân vật Công giáo là các ông Nguyễn Văn Huyền và Trần Văn Lắm (ông Lắm hiện sống ở Úc Châu). Đệ Nhất Phó Chủ tịch là ông Phạm Như Phiên, một vị cựu quan lại tay chân cũ của Tổng thống Diệm. Cũng có thời ông Hoàng Xuân Tửu (một người Công giáo Quảng Trị thuộc đảng Đại Việt Hà Thúc Ký) được bầu vào chức Đệ Nhị Phó Chủ tịch, nhưng đến năm 1973-74, ông Tửu theo đường lối của Đảng quay ra chống đối Thiệu trong Phong Trào Chống Tham Nhũng của Cha Trần Hữu Thanh.
Còn ở Hạ Viện, người Công giáo (nhất là người Công giáo di cư và nhân sự cũ của chế độ Diệm) chiếm đa số, đặc biệt là khối Độc Lập 19 người gồm toàn thành phần Cần Lao Công Giáo do nhóm các ông Nguyễn Quang Luyện, Vũ Văn Mầu, Phạm Hữu Giáo cầm đầu. Khối này đã giành lấy những chức chủ tịch của các Uỷ Ban quan trọng để chi phối Hạ Viện. Theo giáo sư Nguyễn Khắc Ngữ trong Những Ngày Cuối Cùng của VNCH thì sau khi thành lập xong khối Độc Lập, ông Nguyễn Quang Luyện vào dinh Độc Lập gặp ông Thiệu và hứa sẽ ủng hộ để đổi lại những ưu đãi đặc biệt. Cũng vì thỏa hiệp đó mà tuy nhóm Dân biểu Luyện, Mầu, Giáo xuất ngoại buôn vàng lậu, đô la lậu, đồ lót đàn bà làm náo động dư luận quốc tế và làm mất quốc thể Việt Nam, Thiệu và Quốc hội Công giáo vẫn che chở bỏ qua, những kẻ vi phạm luật lệ không bị một hình phạt nào, kể cả biện pháp chế tài hành chánh.
Phê bình về sự thao túng và nguồn gốc của khối Độc Lập này, một hôm nhân đàm đạo với chúng tôi, Dân biểu Trần Văn Tuyên chủ tịch khối Dân Tộc, đã mỉa mai rằng: “Không phải vô tình mà khối Dân biểu Công giáo lấy tên “Độc Lập”, mà phải biết rằng “khối Độc Lập” và “dinh Độc Lập” đều có chung một ý đồ, nhằm chung một mục đích, sống chung một lối sống chỉ phá nát quốc gia mà thôi”. Người ta không quên trong những buổi thảo luận tại Hạ Viện, khối Dân Tộc của ông Trần Văn Tuyên và khối Độc Lập Công giáo gia nô của Thiệu thường nhiều lần tranh cãi giận dữ gần như muốn đi đến xô xát. Nhưng khi có biểu quyết một dự luật nào thì thắng lợi vẫn về khối Độc Lập của Thiệu.
Trong Hạ Viện còn có dân biểu Đinh Xuân Minh (có em gái lấy Nghị sĩ Nguyễn Văn Chức). Ông Đinh Xuân Minh vốn là dân biểu của chế độ Diệm và là bác sĩ riêng của cố Tổng thống Diệm, nhờ thân phụ là Lục Kinh, đội lính giản, nguyên tài xế của Thượng Thư Bùi Bằng Đoàn (thân phụ của Đại tá Việt Cộng Bùi Tín) quay về phục vụ cho nhà Ngô.
Chủ tịch Hạ viện trong nhiệm kỳ đầu là ông Nguyễn Bá Lương. Ông không phải là người Công giáo nhưng được hai ông Thiệu và Thăng mua chuộc các Dân biểu khác để sắp đặt bầu vào chức Chủ tịch Hạ viện vì ông là người “ba phải”, dễ thuần phục mà lại thích danh vị. Vả lại, lúc mới cầm quyền, ông Thiệu thấy rằng Tổng thống đã là Công giáo, Chủ tịch Thượng viện đã là Công giáo nên Thiệu đặt Nguyễn Bá Lương đứng đầu Hạ viện để có thể làm bớt lộ liễu màu sắc Công giáo của chính quyền. Đây cũng chỉ là một thủ đoạn nối dài của thời Đệ Nhất Cộng Hòa với một ông Nguyễn Ngọc Thơ (không Công giáo) được anh em ông Diệm cố tình cho giữ chức vụ Phó Tổng thống để làm nhẹ cái thực tế rõ ràng là Tổng thống Công giáo, các ông Chủ tịch Quốc hội thay phiên nhau như Trần Văn Lắm, Phạm Văn Nhu, Trương Vĩnh Lễ đều là Công giáo, cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu và cả gia đình cầm quyền cũng là Công giáo.
Nhưng ông Nguyễn Bá Lương chỉ giữ chức Chủ tịch Hạ viện nhiệm kỳ đầu mà thôi. Qua đến nhiệm kỳ hai, khi tình hình chiến tranh và chính trị trở nên trầm trọng có thể đe dọa vị trí lãnh đạo, thì Thiệu phải lấy những biện pháp độc tài để kiểm soát Lưỡng viện chặt chẽ hơn. Và vì cần sự ủng hộ công khai của định chế này nên ông Thiệu vận động để chức Chủ tịch Hạ viện vào tay ông Nguyễn Bá Cẩn, nguyên là Phó Tỉnh trưởng Định Tường, và cũng là một thuộc hạ của Huỳnh Văn Cao thời Cao còn là Tư lệnh vùng IV.
Với một Quốc hội nằm trong tay đa số người Công giáo và người của chế độ Diệm đang cấu kết với Thiệu như thế, tất cả các dư luật thất nhân tâm như Luật Báo Chí, Luật Uỷ Quyền, việc hợp hiến hóa cuộc bầu cử Tổng thống độc diễn... đều đã được dễ dàng và mau chóng thông qua. Đó là không nói đến những hồ sơ tố cáo tham nhũng, lộng quyền bị Quốc hội dẹp bỏ trước sự công phẫn của nhân dân và chỉ trích gay gắt của báo chí như các nhật báo Bút Thép, Điện Tín, Dân Tộc...
Thành phần nhân sự Công giáo và thuộc-chế-độ-Diệm cũ không chỉ nắm chức vụ lãnh đạo để khuynh loát ngành Lập pháp, mà quan trọng hơn, còn cả trong ngành Hành pháp: Bộ trưởng Đặc Trách Liên Lạc Quốc Hội nằm trong tay ông Cao Văn Tường, một người trung thành với nhà Ngô đã từng được ông Ngô Đình Nhu cho làm Đệ Nhất Phó Chủ tịch Quốc Hội thời Đệ Nhất Cộng Hòa.
Bộ Ngoại Giao thì do các ông Trần Chánh Thành, Trần Văn Lắm hay Vương Văn Bắc thay phiên nhau cầm đầu mà ông Thành và ông Lắm ai cũng biết là thuộc hạ nhà Ngô cũ. Bộ Ngoại giao là một bộ phụ trách việc vận động quốc tế, tranh thủ dư luận thế giới yểm trợ Việt Nam Cọng Hòa, nhất là trong giai đoạn phải thương thuyết với Hà Nội và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Nhưng nhìn lại dĩ vãng ta thấy các nhà ngoại giao của chúng ta chỉ coi sinh mạng quốc gia là trò đùa. Ông Trần Văn Lắm đi phó hội tại Paris thì chỉ vênh vang lập lại lời tuyên bố “Hòa bình đã trông thấy ở cuối đường hầm” của Kissinger mà thôi, mặc dầu những điều kiện hòa bình đó chỉ giúp mở cửa cho Cộng Sản dễ dàng tấn chiếm miền Nam. Còn ông Vương Văn Bắc mới lên giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao được ít tháng đã vội vã cho vợ con xuất ngoại an cư ở nước ngoài và thỉnh thoảng mượn cớ công du để đi thăm. Hậu ý của ông là khi có biến, ông có thể trốn thoát dễ dàng không bận bịu thê nhi. Cái hậu ý đó nói lên rõ ràng việc ông biết lo cho gia đình trước khi lo cho một quê hương mà ông biết như lá vàng sắp rụng.
Bộ Thông Tin dĩ nhiên phải để cho ông Ngô Khắc Tỉnh, học trò cũ của Giám mục Ngô Đình Thục và là cựu Dân biểu gia nô thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Nhưng khi số trường đại học, trung học, số trường kỹ thuật được Hoa Kỳ và các nước đồng minh gia tăng viện trợ thì ông Thiệu bèn hoán chuyển ông Ngô Khắc Tỉnh qua nắm Bộ Giáo Dục để có thể kiểm soát lực lượng giáo chức và thanh niên sinh viên, vốn là lực lượng tiền phong luôn luôn dễ dàng nổi loạn. Để ông Tỉnh có đủ uy tín đối phó với lớp trí thức khoa bảng, ông Thiệu cử một phụ tá cũng khoa bảng giúp Tỉnh và dĩ nhiên vị phụ tá này phải là một tín đồ Công giáo gốc Huế, thân tín với chế độ cũ: ông Bùi Xuân Bào.
Cố vấn đặc biệt của Tổng thống Diệm, rồi Tổng trưởng Kế hoạch và Phát triển Kinh tế trong mấy năm cuối của Việt Nam Cọng Hòa là con chiên mộ đạo Nguyễn Tiến Hưng, người trước khi quyết định hợp tác với ông Thiệu đã phải đi thỉnh ý một Linh mục (xem “Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập”), một nhân tài “hiếm có” vì đã có lần nói với Tổng thống Thiệu rằng một trong những lý do chính làm cho Hà Nội quyết tâm chinh phục miền Nam là vì miền Bắc bị cắt mất nguồn cung cấp lúa gạo từ miền Nam năm 1954.
Tuy nhiên, ông Thiệu biết rằng Lập pháp, Hành pháp hay Tư pháp trong một miền Nam chiến tranh và trong một chế độ do Mỹ điều động vẫn chưa đủ để củng cố quyền lực mà chính Quân đội mới là thành tố chính quyết định sức mạnh của kẻ cầm quyền. Hơn ai hết, ông Thiệu biết rõ vai trò của quân đội trong những biến cố chính trị, cũng hơn ai hết ông Thiệu biết rõ sự cần thiết phải Công giáo hóa quân đội mới hoàn tất được cái khế ước với lực lượng Công giáo đang hung hăng sống dậy tại miền Nam. Mà trong một chế độ độc tài của một quốc gia đang có chiến tranh như Việt Nam, thì sức mạnh của quân đội hầu như nằm trong tay một số Tướng, Tá cao cấp, cho nên chính thành phần nhân sự lãnh đạo quân lực VNCH là thành phần mà Thiệu và khối Công giáo thỏa hiệp chặt chẽ và lâu bền nhất.
Trước hết, Thiệu dàn xếp cho ông Cao Văn Viên giữ chức Tổng Tham mưu trưởng và người thân tín của Viên là ông Đồng Văn Khuyên thì vừa là Tổng Tham mưu phó vừa là Tổng Cục trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Viên là thành phần trung thành tuyệt đối với Tổng thống Diệm, vợ Viên là tay chân đắc lực của bà Nhu trong Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới cũ. Viên đã được Tổng thống Diệm cử giữ chức Tư lệnh Nhảy Dù thay thế Đại tá Nguyễn Chánh Thi sau cuộc đảo chánh thất bại năm 1960 mặc dù Viên chưa một ngày ở trong binh chủng này và chỉ mới mang cấp bậc Trung tá. Trong đêm Cách mạng 1-11-1963, ông Viên đã trả lời tướng Dương Văn Minh là không theo Cách mạng mà chỉ tuân lệnh Tổng thống Diệm mà thôi. Viên đã nắm giữ phần trọng yếu trong cuộc chỉnh lý hạ bệ tướng Dương Văn Minh vào cuối tháng Giêng năm 1964, và gián tiếp chịu trách nhiệm trong việc hạ sát Thiếu tá Nhung tại trại Nhảy Dù do sĩ quan Công giáo chủ xướng. Hồ sơ quân vụ của Viên ghi đầy những công lao to lớn trung thành với nhà Ngô nên càng được khối Công giáo trong quân đội tín nhiệm và ủng hộ. Khốn nỗi vợ Viên quá lộng hành và gây nhiều tai tiếng nên vị trí của Viên bị đe dọa, Viên thu mình ngậm miệng lại và chỉ biết tìm nguồn vui qua việc tập luyện Yoga tại nhà hay trau giồi học vấn mà không để tâm nhiều vào việc chỉ huy quân đội. Đã có lần Thiệu định để Đỗ Cao Trí thay Viên, nhưng áp lực của khối Công giáo, của người anh ruột là Đại sứ Nguyễn Văn Kiểu và của Mỹ quá mạnh nên Viên vẫn làm một thứ Tổng Tham mưu trưởng nhàn hạ cho đến ngày trốn quân lực bỏ nước ra đi.
Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị với các Cục trực thuộc như Cục Tuyên úy, Cục Chiến Tranh Tâm Lý, Cục An Ninh Quân Đội, Đài phát thanh và báo chí quân đội thì do tướng Trần Văn Trung, một người Công giáo Phú Cam điều khiển. Cơ quan này đáng lẽ phải bảo vệ tinh thần quân đội thì lại trở thành một khí cụ cho các tuyên úy Công giáo trong quân đội. Hiện tượng này không lộ liễu như dưới thời Diệm nên người ngoài ít ai để ý, nhưng các thành phần thuộc các tôn giáo khác thì thấy rất rõ và tuy bất bình mà không dám công khai nói ra.
Cầm đầu Nha Động Viên là ông Bùi Đình Đạm, một sĩ quan Công giáo di cư và từng là kẻ dưới quyền Huỳnh Văn Cao. Đạm liên hệ mật thiết với Linh mục Trần Du, chủ nhiệm báo Hòa Bình, vị Linh mục cùng với người cháu gọi ông là cậu ruột (mà tôi quên tên) làm quản lý báo Hòa Bình, và nằm trong hệ thống tình báo đặc trách việc theo dõi sinh hoạt báo chí cho nhóm Thiệu-Quang. Đạm là một sĩ quan hoàn toàn thiếu khả năng nhưng nhờ ngoan đạo mà được ông Thiệu giao cho chức vụ Giám đốc Nha Động Viên, một cơ quan vô cùng quan trọng và dễ dàng làm tiền dân chúng trong một quốc gia đang có chiến tranh. Phụ tá cho Đạm là Đại tá Huỳnh Văn Lang, lại cũng là một sĩ quan Công giáo khác.
Xuống thấp một chút ở các đơn vị địa phương và thực sự nắm quân là các chức vụ Tư lệnh Quân đoàn, Sư đoàn thì những tướng tá Cần Lao Công Giáo hoặc tay chân của chế độ cũ cũng nắm phần đa số mà tiêu biểu là Ngô Du, Phạm Quốc Thuần, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Văn Minh (cựu Tỉnh trưởng Long Xuyên thời Đệ Nhất Cộng Hòa, tay chân của Đặng Văn Quang), Phạm Văn Phú (nguyên Tư lệnh Phó Lực lượng Đặc biệt của Lê Quang Tung), Nguyễn Văn Toàn (từng chỉ huy Thiết giáp tấn công Phật giáo trong biến cố 1966), Lữ Lan (một tay chân thân tín của Tổng thống Diệm nên được Cao Thế Dung đề cao trong cuốn Làm thế nào để giết một Tổng thống).
Sau quân đội là Cảnh sát Công an. Ban đầu vì còn có ông Nguyễn Cao Kỳ làm Phó Tổng thống nên Thiệu đồng ý để cho Đại tá Trần Văn Hai (sau khi tướng Loan bị thương trong biến cố Tết Mậu Thân) làm Tổng Giám đốc. Nhưng vì ông Hai thân với đảng Đại Việt và lại là một sĩ quan liêm chính nên muốn nắm vững Công an, Thiệu đặt Trung tá Nguyễn Mâu (một người Cần Lao Công Giáo từng thay ông Nguyễn Văn Đẵng trong chức vụ Tỉnh trưởng Thừa Thiên để đàn áp Phật giáo năm 1963) nắm giữ chức vụ Phụ tá ngành Công an Đặc biệt, một chức vụ sinh sát do Dương Văn Hiếu nắm giữ thời chế độ Diệm. Sau đó, khi Phó Tổng thống không phải là ông Kỳ nữa, Thiệu bèn giao chức Tổng giám đốc Cảnh sát Công an cho Nguyễn Khắc Bình, vừa là bà con với vợ Thiệu vừa lại có công với nhóm Cần Lao Công Giáo (Bình đã có công tố cáo với ông Ngô Đình Nhu hành động “phản loạn” của tướng Nguyễn Hữu Có khi Có xuống Mỹ Tho tổ chức đảo chánh chế độ Diệm năm 1963).
Như vậy, với một quân đội có những Cao Văn Viên, Đồng Văn Khuyên, Trần Văn Trung, Bùi Đình Đạm, Huỳnh Văn Lang, Ngô Du, Phạm Quốc Thuần, Đỗ Cao Trí, Trần Văn Minh, Phạm Văn Phú, Nguyễn Văn Toàn, Lữ Lan v.v... nắm những chức vụ then chốt; và với một lực lượng Công an Cảnh sát có những Nguyễn Mâu, Nguyễn Khắc Bình... Thiệu đã vá lại được mạng lưới Cần Lao Công Giáo bị rách vào năm 1963 để phủ xuống một quân lực mà các thành phần ưu tú và trong sạch nhất thì nằm ở tuyến đầu khói lửa chứ không phải tại các phủ bộ ở thủ đô Sài Gòn.
Với tình hình an ninh càng lúc càng suy thoái và tiếp nối chính sách quân sự hóa các tỉnh trưởng của chế độ Diệm, Thiệu mở rộng mạng lưới Công giáo ra khắp nơi. Thiệu còn trắng trợn và khiêu khích bổ nhiệm các sĩ quan Cần Lao cũ tại các địa phương đông Phật tử như Đại tá Thân, Đại tá Nguyễn Hữu Duệ tại Thừa Thiên và Đại tá Nguyễn Ngọc Khôi tại Đà Nẵng, hai sĩ quan sau là hai sĩ quan Công giáo cao cấp thuộc Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống Phủ của ông Diệm trước 1963, còn Đại tá Thân là tay chân của Linh mục Cao Văn Luận.
Ngoài các cơ quan công quyền được “Công giáo hóa” dần dần, ông Thiệu còn vói tay nắm lấy Tổng Liên Đoàn Lao Công, một sản phẩm của ông Nhu để lại hầu làm hậu thuẫn cho Thiệu. Tổng Liên Đoàn Lao Công vẫn do ông Trần Quốc Bửu (nguyên ủy viên Trung ương Cần lao) giữ chức chủ tịch với một vị phụ tá là Nguyễn Bửu, người Công giáo Quảng Bình. Dưới thời Thiệu, chính Nguyễn Bửu mới là người thật sự điều hành Tổng Liên Đoàn vì ông đã được Thiệu giao phó cho nhiệm vụ giao thiệp với các nghiệp đoàn Hoa Kỳ và bí mật liên hệ với cơ quan CIA Mỹ, việc mà ông Bửu đã thi hành từ thời ông Nhu. Lợi dụng các vụ xuất ngoại, ông Trần Quốc Bửu chuyển tiền ra nước ngoài một số lượng đáng kể, đã mua cho vợ bé một ngôi biệt thự sang trọng tại Thụy Sĩ.
Nhìn lại toàn bộ lực lượng nhân sự nắm các địa vị quan trọng tại miền Nam dưới chế độ Thiệu, từ chức Tổng thống Cộng Hòa đến Tỉnh trưởng Thừa Thiên, từ Cục Tiếp Vận đến Bộ Giáo dục, từ Tổng Liên đoàn đến Nha Động Viên, từ Tư lệnh Sư đoàn đến Chủ tịch Quốc hội, từ Ban Cố vấn Tối cao đến các liên danh trong Thượng viện, từ Cảnh sát Công an đến Ngoại giao, từ Nguyễn Cao Thăng đến Đặng Văn Quang, từ Cao Văn Luận đến Trần Du, từ Nguyễn Bá Cẩn đến Bửu Dưỡng,... ta thấy rõ ràng đám con mồ côi chính trị của chế độ cũ đang nỗ lực làm sống lại cái tinh thần độc tài Công giáo trị của chế độ cũ của những Thục, Diệm, Nhu, Cẩn. Chính sách tuyển chọn nhân sự của dinh Độc Lập vẫn lấy Công giáo làm tiêu chuẩn ưu tiên mà Công giáo Cần Lao của chế độ cũ thì càng tốt.
Bóng ma của chế độ Diệm vẫn đè nặng trên sinh hoạt chính trị của miền Nam để điều động những chiếc áo dòng màu đen lăng xăng ở các trung tâm quyền lực. Truyền thống độc tài và bạo trị của gia đình họ Ngô vẫn khống chế dư đảng Cần Lao trong quân đội và ngoài dân sự để thúc giục họ duy trì một chánh sách bạo trị hại dân hại nước. Nói cách khác, ông Diệm chết rồi nhưng những kẻ thừa kế của ông, mà đứng đầu là con chiên Nguyễn Văn Thiệu và các linh mục đầy quyền lực, đã thành công trong việc phục hồi lại cái xác chết đó để làm biểu tượng cho chế độ, một chế độ Diệm không Diệm, không thèm đếm xỉa đến các bộ phận dân tộc khác, không thèm đếm xỉa đến những biến thiên mới của tình hình.
Đối với nhiều người Nam Việt Nam, số lượng người Công giáo Bắc nắm giữ những chức vụ quyền hành trong quân lực và trong chính quyền đã là nguồn gốc của một sự bất mãn đáng kể [5].
Lời nhận định soi mói nhưng chính xác của tướng Westmoreland, một quân dân Mỹ không quen thuộc lắm với chính trường miền Nam, đã nói lên sự trắng trợn lộ liễu của chính sách Công giáo hóa miền Nam mới của Thiệu và dư đảng Cần Lao. Và dĩ nhiên, chính sách thất nhân tâm quá rõ ràng đó cũng đã được Cộng Sản Hà Nội lưu ý để khai thác:
Chọn Nguyễn Văn Thiệu đứng đầu bộ máy tay sai, Thực dân mới ở miền Nam, Đế quốc Mỹ nhắm vào tính chất hung hăng quân phiệt của y, đồng thời cũng là chọn một nhân vật Công giáo để thiết lập “Một Chính Phủ Diệm Mà Không Có Diệm” với lực lượng hậu thuẫn đáng tin cậy của chế độ là tổ chức Giáo hội Công Giáo...
Với Nguyễn Văn Thiệu, thời gian đã đủ chín mùi để Thực dân mới đi vào bề sâu tổ chức và thiết lập một chính quyền Công giáo thực sự...[6]
Chính vì chế độ “Diệm không Diệm” mang nặng màu sắc Công giáo đó mà những tướng lãnh thân Phật giáo như Dương Văn Minh, Nguyễn Chánh Thi phải bị kỳ thị lưu vong biệt xứ. Ông Nguyễn Văn Thiệu đã từ chối quyết liệt không chịu cho tướng Minh về nước cho mãi đến năm 1970, nhờ dư luận báo chí và áp lực của một số người gốc Nam kỳ cũ, cũng như nhờ chính uy tín của chính mình, tướng Minh mới được ông Thiệu cho rời Bangkok để hồi hương. Còn đối với tướng Nguyễn Chánh Thi thì ông Thiệu lẫn khối Cần Lao Công Giáo và cả người Mỹ đều xem ông như một kẻ có tội với đất nước, một đối thủ chính trị nguy hiểm, nên nhất định cấm ông hồi hương mặc dầu một số Dân biểu, Nghị sĩ và báo chí đã vận động can thiệp. Ngay cả với cựu hoàng Bảo Đại, người không còn tham vọng và không có thế lực mạnh, nhưng vì trong quá khứ đã bị ông Diệm xem như kẻ thù nên dù có dư luận đề nghị mời ông về thăm quê hương để tỏ tình đoàn kết, ông Thiệu và nhóm cố vấn Công giáo trong dinh Độc Lập nhất định không chịu chấp thuận.
Kỳ thị tôn giáo và kỳ thị địa phương là hai sản phẩm đặc thù của chế độ Diệm. Hai tệ hại đó tưởng đã được quét sạch sau ngày 1-11-1963 nhưng nay nhờ chế độ Thiệu sẵn sàng tiếp tục con đường của chế độ cũ, nên lại được hồi sinh và phát triển mạnh mẽ mà những cái chết của các ông Trần Văn Văn, Nguyễn Chữ, và vụ mưu sát Thượng Tọa Thích Thiện Minh là những minh chứng không chối cãi được. Cũng không chối cãi được là chính vì chính sách kỳ thị đó mà người miền Nam đã phải từ bỏ cái truyền thống độ lượng chất phác của họ để phản ứng lại với những tổ chức riêng biệt như Hội Liên Trường, Hội Chủ Báo Nam Việt, Nghiệp Đoàn Ký Giả Nam Việt... và nhiều hội ái hữu tương tế khác.
Nhân dịp này, tôi xin mở một dấu ngoặc ở đây để xét lại quan diểm phiến diện và vô trách nhiệm của ông Phạm Kim Vinh khi ông nặng lời lên án tướng Dương Văn Minh và ông Trần Văn Văn là những người nặng đầu óc kỳ thị Bắc-Nam trong tác phẩm Những Bí ẩn Về Cái Chết Của Việt Nam Cọng Hòa. Ông Dương Văn Minh, từ những ngày đầu, đâu có kỳ thị Bắc-Nam khi chính ông đã cầm quân triệt hạ các giáo phái miền Nam và hết lòng phò tá Tổng thống Ngô Đình Diệm, một người miền Trung. Ông Trần Văn Văn đâu có kỳ thị Bắc-Nam khi ông đã từng là Đổng lý Văn phòng cho Bác sĩ Hồ Tá Khanh, một nhân vật người miền Trung, Bộ trưởng Bộ Kinh tế trong chính phủ Trần Trọng Kim. Người Nam kỳ tự bản chất cũng như trong truyền thống không có đầu óc kỳ thị, ngay cả dưới thời Pháp thuộc khi Việt Nam bị chia làm ba kỳ. Trái lại, người Nam kỳ phóng khoáng và hào hiệp, cởi mở và chính trực, nhưng vì ông Diệm và người Bắc kỳ đã dồn người Nam kỳ vào cái thế phải phản ứng để tự vệ trước cái “khôn ngoan” của người Bắc mà thôi. Tiếc rằng ông Phạm Kim Vinh vì mù quáng bênh vực ông Diệm mà quên đi rằng nếu người lãnh đạo quốc gia không chịu thực hiện đoàn kết, lại dùng chính sách kỳ thị để cai trị quốc gia, thì ai có thể xây dựng nổi chủ trương đoàn kết dân tộc (như các ông Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Ngọc Huy, Phan Quang Đán, v.v... đã oán trách ông Diệm). Nhóm “Caravelle”, trong đó có ông Trần Văn Văn, là một tập họp thành phần nhân sĩ Bắc-Nam-Trung tiêu biểu cho một lực lượng đoàn kết dân tộc, vì muốn trình bày nguyện vọng tha thiết của quốc dân với chính quyền để xây dựng đất nước mà bị nhà Ngô giam cầm đày đọa là một dẫn chứng cụ thể.
Về luận điểm này, xin xem thêm tác phẩm “Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt Trận Giải Phóng” của tác giả Hồ Sĩ Khuê, một người có đầy đủ thẩm quyền để phân tích và phê phán chính sách kỳ thị người Nam của chế độ Diệm.
-o0o-
Để cho lực lượng Cần Lao Công giáo làm nòng cốt và tiến hành chính sách kỳ thị tôn giáo lẫn kỳ thị địa phương vẫn chưa đủ, chế độ Thiệu còn muốn nối dài tệ trạng tham nhũng và bất công của giai đoạn trước 63, vào những năm cuối của chế độ trong thập niên 1970.
Thật vậy, sau khi nắm vững được chính quyền với lực lượng hậu thuẫn sắt thép là khối Công giáo và Tướng Tá trong Quân đội, nhóm Thiệu, Khiêm, Viên, Quang và một số tướng lãnh tay chân của Thiệu bèn bước lên vết xe cũ của anh em nhà Ngô để thực hiện một nền tham nhũng kinh khủng nhất trong lịch sử Việt Nam. Nền tham nhũng của chế độ Thiệu tàn bạo đến độ Đại úy Bác sĩ Hà Thúc Nhơn tại Nha Trang quá căm phẫn phải nổi loạn để mua lấy cái chết ám muội. Sau cái chết của người anh hùng chống tham nhũng Hà Thúc Nhơn, nhóm Sóng Thần của các nhà văn Uyên Thao, Lý Đại Nguyên, Hà Thế Ruyệt, Vũ Thế Ngọc,... bèn lập hội thờ Hà Thúc Nhơn, mong duy trì và phát triển cao trào chống tham nhũng tại miền Nam, mà hành động quyết liệt đầu tiên là lúc người cháu rể của tôi là bác sĩ quân y Phạm Văn Lương từ Đà Nẵng vào Sài Gòn để mở chốt hai quả lựu đạn đứng trước tiền đình Quốc hội công khai tố tham nhũng trong chế độ.
Nền tham nhũng của chế độ Thiệu đã được nhà viết sử Nguyễn Khắc Ngữ trình bày và phê phán tương đối đầy đủ trong tác phẩm Những Ngày Cuối Cùng Của Việt Nam Cọng Hòa khi ông gọi Nguyễn Văn Thiệu và tập đoàn là “tham quyền cố vị”, là “chịu đấm ăn xôi”, là “Hạm lớn, Hạm nhỏ”, là “Phản quốc”,... Tiếc rằng ông Nguyễn Khắc Ngữ đã không còn cơ hội để đi sâu hơn vào các địa phương, nơi dân chúng thấp cổ bé miệng phải cơ cực điêu linh vì các ông linh mục tham nhũng, vốn là cánh tay sắt nối dài của chế độ Nguyễn Văn Thiệu.
Sáu trường hợp điển hình trong cả ngàn trường hợp khác mà tôi ghi nhận sau đây xin dành để bổ túc cho hồ sơ các nhà viết sử lương thiện và can đảm trong tương lai.
- Chuyện thứ nhất: Năm 1962, ông Nguyễn Văn Tất, một Cần Lao cuồng tín hống hách (thời Pháp thuộc làm Hương bộ) được ông Ngô Đình Cẩn cho làm Tỉnh trưởng Quảng Ngãi. Y thường cầm ba toong đánh công chức, đánh xã trưởng. Y âm mưu lấy sở đất hai mẫu vừa tư vừa công của dân chúng tọa lạc tại một địa thế rất đẹp giữa tỉnh lỵ cho mưu đồ phe đảng riêng. Y thông cáo là sở đất đó sẽ được tòa Hành chánh trưng dụng để làm công viên thành phố, hễ ai có mồ mả nhà cửa trên đất đó thì phải dời đi, còn tư nhân nào có đất riêng thì phải bán cho chính phủ với giá tượng trưng. Rồi y lươn lẹo công quỹ để giúp linh mục Ngoan, cha sở tại, dựng một ngôi nhà thờ to lớn trên sở đất đó.
Năm 1963, nhà Ngô bị lật đổ, tại Quảng Ngãi có phong trào tố Cần Lao, tỉnh trưởng Nguyễn Văn Tất bị bắt, cha Ngoan phải bỏ trốn, việc xây cất nhà thờ phải đình chỉ. Năm 1964, dân chúng nhờ ông Lê Nguyên Long, một nhân sĩ tên tuổi tại tỉnh nhà can thiệp để được đền bù thiệt hại. Nhưng khi Cần Lao được phục hồi dưới chế độ Thiệu, giám mục Phạm Ngọc Chi can thiệp tới tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh Quân đoàn II, áp lực với Tỉnh trưởng Lê Trung Tường xếp bỏ nội vụ. Cha Ngoan lại vẫn tiếp tục xây nhà thờ trước sự công phẫn của dân chúng, còn Nguyễn Văn Tất thì được trả tự do.
- Câu chuyện thứ hai do ký giả William Jean Lederer kể lại, mà tôi lược dịch như sau:
Làng Phú Hòa thuộc quận Hiền Đức tỉnh Quảng Nam là một làng Phật giáo nằm cạnh một làng Công giáo. Mà quận Hiền Đức thì ở sát quận Hòa Vang do Thiếu tá Hào, cháu ruột của Giám mục Phạm Ngọc Chi làm Quận trưởng.
Làng Phú Hòa có 1.600 mẫu đất rất tốt có thể sản xuất lúa hai mùa nhờ nước từ một cái đập ở cách đó một cây số cung cấp. Đập này nguyên thuộc một vị cố đạo người Pháp từng cho dân Phú Hòa thuê, mà mỗi năm nông dân Phú Hòa phải trả cho ông 1/3 số lúa thu hoạch được. (LTG: Đất đai của dân Việt Nam mà đập nước thì lại của riêng của một ông cố đạo Pháp đã là một cái nhục, thế mà sau khi ông cố đạo Pháp không còn ở đó nữa, dân Phú Hòa vẫn phải trả lúa cho một ông linh mục Việt Nam). Dân Phú Hòa còn phải đút lót cho Quận Hào, bởi vì nếu không thì y không cho dân chở lúa đi ngang qua quận của y để đem bán tại Đà Nẵng. Tuy bị thiệt thòi nhưng dân Phú Hòa vẫn cắn răng chịu đựng để đợi ngày mãn hạn giao kèo và được làm sở hữu chủ cái đập. Nguyên lai giao kèo ký giữa ông cố đạo Pháp và dân Phú Hòa là 12 năm, hết hạn, cái đập sẽ thuộc về dân Phú Hòa. Nhưng đã quá 12 năm rồi mà ông linh mục Việt Nam vẫn bắt dân Phú Hòa nộp lúa, nếu không thì ông ta khóa đập không cho nước chảy.
Tại làng Phú Hòa có một đội “Công tác Dân vận” Mỹ được dân chúng hết lòng cộng tác nên Việt Cộng không thể bén mảng về được. Đội Công tác Dân vận này bèn giúp đỡ cho dân Phú Hòa bằng cách mua cho họ một cái máy bơm nước và điều đình với ông linh mục để mua lại cái đập. Thấy dân Phú Hòa có máy bơm và trước sự can thiệp cương quyết của người Mỹ, ông linh mục bằng lòng bán cái đập lại cho dân. Nếu có máy bơm và cái đập riêng, nông dân sẽ có lợi tức cao, có khả năng gia nhập hợp tác xã nông nghiệp để dễ dàng bán lúa và vay tiền của chính phủ không sợ ông Quận Hào làm khó dễ nữa. Thế mà dân làng vẫn không qua mặt nổi tên Quận Hào tham nhũng: lúc đầu quận Hào nhờ giám mục Phạm Ngọc Chi ra lệnh cho vị linh mục Việt Nam không được bán đập, nhưng vì người Mỹ can thiệp mạnh mẽ nên Phạm Ngọc Chi phải chịu nhượng bộ [7].
Tuy vậy, những khó khăn oan ức của dân chúng Phú Hòa không phải đã chấm dứt. William J. Lederer đã kết thúc câu chuyện bằng một lời than đầy tuyệt vọng:
Nhưng mà việc phải kéo dài vì những bàn tay tham nhũng khủng khiếp. Khi dân làng Phú Hòa đến ngân hàng Nông Nghiệp để xin gia nhập hợp tác xã và mượn tiền thì họ bị thất vọng não nề vì Quận Hào, cháu của Giám mục Phạm Ngọc Chi, đã có mặt trước đó rồi. Với hàng tá lý do mà không ai biết là lý do gì, ngân hàng từ chối nguyện vọng của dân làng Phú Hòa [8].
- Chuyện thứ ba là chuyện che dấu đào binh và thanh niên trốn quân dịch tại các họ đạo ở Biên Hòa.
Nạn đào binh và thanh niên trốn quân dịch đã trở thành một hiểm họa cho quân đội Việt Nam Cọng Hòa. Có rất nhiều đơn vị mà quân số tác chiến cấp tiểu đoàn chỉ còn lại độ một đại đội. Dưới cả hai thời Đệ Nhị cũng như Đệ Nhất Cộng Hòa, nơi trú ẩn an toàn nhất cho thành phần đào binh và trốn quân dịch là các họ đạo. Thành phần bất hợp pháp đến trốn tránh ở đây vừa được bảo vệ chắc chắn vừa được làm ăn sinh sống mà mỗi tháng chỉ cần nạp cho các ông cha sở một số tiền.
Một hôm, một vị Quận trưởng thuộc châu thành Biên Hòa mở cuộc hành quân để lùng bắt các thành phần bất hợp pháp, nhưng khi Bảo an vừa đến nơi thì gặp ngay phản ứng của các vị linh mục. Dân vệ Công giáo dàn thành thế trận, chuông nhà thờ báo động đổ liên hồi và các vị linh mục đích thân chỉ huy cuộc bố phòng để kháng cự không cho Bảo An xâm nhập vào khuôn viên họ đạo. Tất nhiên, sau lời thách thức hăm dọa của các ông “lãnh chúa Bùi Chu”, ông Quận trưởng chỉ còn biết kéo quân về. Những sự kiện trên đây đã được báo chí Sài Gòn đăng tải rộng rãi.
Không cần nói thì ai cũng biết dưới hai chế độ Diệm và Thiệu, linh mục và giám mục tại nhiều địa phương còn quyền thế hơn các viên chức chính quyền. Chẳng những thế, nhiều chức quyền địa phương như Tỉnh trưởng, Quận trưởng, Trưởng ty chỉ là kẻ thừa hành ngoan ngoãn của các vị linh mục oai quyền có liên hệ tôn giáo và quyền lợi với vị nguyên thủ quốc gia mà thôi (những sự kiện này rất nhiều sách báo Mỹ đã nói rõ).
- Chuyện thứ tư dưới đây càng làm nổi bật quyền uy bất khả xâm phạm của một lãnh chúa áo đen khác bởi vì ông lãnh chúa này làm mưa làm gió ngay kế cận thủ đô Sài Gòn, kế cận Tòa Tổng giám mục của giáo hội Công giáo, kế cận quyền hành trung ương của dinh Độc Lập.
Tại ngã tư Bảy Hiền, quận Tân Bình tỉnh Gia Định, linh mục Đinh Xuân Hải cai quản một họ đạo người Bắc di cư và được Quận trưởng Tân Bình người Công giáo di cư là ông Phan Gia Quýnh phục vụ đắc lực. Nhờ vậy, linh mục Hải tha hồ làm mưa làm gió trong lãnh địa của ông.
Trước hết, ông Đinh Xuân Hải tìm cách nới rộng “giang sơn” bằng cách đuổi một số dân chúng không Công giáo vốn cư ngụ lâu đời chung quanh họ đạo đi nơi khác. Dân chúng phẫn uất khiếu nại với chính quyền nhưng tiếng dân kêu nào có thấu tới Trời. Người dân nào không dời nhà đi thì ông cho dân vệ của họ đạo đến nhổ hàng rào, xô sập nhà cửa, ném đồ vất ra đường. Cho đến ngày giang sơn của Đinh Xuân Hải mở rộng đến một ngôi chùa và cơ sở xã hội Quách Thị Trang do Đại đức Thích Nhật Thiện điều khiển, khi Đinh Xuân Hải ra lệnh cho nhà sư phải nhường đất đai và chùa chiền lại cho ông thì tất nhiên nhà sư không chịu, và vị linh mục bèn cho dân vệ phá phách vườn tược của cơ sở Quách Thị Trang rồi cuối cùng cho ném lựu đạn vào cơ sở xã hội này. Tuy ông chỉ mới hăm dọa nhưng hành động bạo ngược của ông từ trước tới nay cũng đã đủ làm cho Đại đức Thích Nhật Thiện hoảng sợ phải bỏ chùa, bỏ cơ sở Quách Thị Trang trốn về Sài Gòn cầu cứu với Viện Hóa Đạo. Viện Hóa Đạo cũng biết không có cách gì hơn là chỉ gởi đơn kiện với Tòa Hành chánh tỉnh Gia Định, với quận Tân Bình. Thế nhưng linh mục Đinh Xuân Hải vẫn vô can, vẫn bình chân như vại, vẫn vênh váo làm một lãnh chúa bạo ngược. Suốt 6, 7 tháng trời báo chí Sài Gòn đã sôi nổi theo dõi và đăng tin, bình luận về vụ này và gọi linh mục Đinh Xuân Hải là một “hung thần”, “ác quỷ”, nhưng Đinh Xuân Hải vẫn tiếp tục lộng hành nào có sợ chi ai khi mà chính quyền, quân đội, công an, cảnh sát,... đều nằm trong tay nhóm Cần Lao Công Giáo, nhóm người chỉ muốn trả thù Phật giáo và lương dân. Hiện tượng Đinh Xuân Hải làm sôi nổi dư luận dân chúng Thủ đô Sài Gòn-Gia Định một thời, được báo chí Sài Gòn triệt để khai thác nhưng sau này lại không được một “sử gia Công giáo” nào ghi vào các tác phẩm của họ.
- Chỉ một ông linh mục mà dám trắng trợn coi rẻ chính quyền huống gì cả một lực lượng hùng hậu do hàng chục họ đạo gộp lại. Tôi muốn nói đến vụ thứ năm là âm mưu cướp ngôi chùa Sư nữ trên mỏm núi Mõ Quắn, Vũng Tàu.
Nguyên trên mỏm núi này, vùng cảnh trí thiên nhiên nhuộm màu thiêng liêng linh khí, có một ngôi chùa Sư nữ do một sư cô trụ trì gần hai chục năm trời. Nơi đó, trước kia có những ụ bố phòng do quân đội Nhật Bản xây cất, khi họ về nước và quân đội Pháp trở lại, sư cô bèn mua vùng mỏm núi đó để xây một ngôi chùa.
Đến thời Đệ Nhị Cộng Hòa, khi đại tá Vũ Duy Tạo (hiện ở San Jose, California) làm Thị trưởng, giáo dân bèn xây tượng bà Maria ngay trước mặt tiền của chùa gần cổng ra vào. Vì chùa bị án ngữ, việc ra vào chùa gặp khó khăn, sư cô bèn đâm đơn kiện với tòa Thị trưởng việc làm ngang ngược của người Công giáo. Ông Thị trưởng xử cho sư cô thắng kiện vì sư cô có đủ giấy tờ tạo mãi vùng đất và giấy phép xây cất chùa từ trước để lại. Nhưng khối giáo dân vẫn ngoan cố, vẫn tiếp tục xây tượng bà Maria, họ còn tập họp biểu tình để phản đối Thị trưởng. Không những chỉ giáo dân Vũng Tàu biểu tình mà cả giáo dân Phước Tuy cũng được huy động đến để yểm trợ cho hành động bạo ngược của giáo dân Vũng Tàu. Biến cố này kéo dài đã 6 tháng, Thị trưởng Vũ Duy Tạo nghĩ mình là người không theo đạo Công giáo có thể bị xuyên tạc là bênh vực sư cô, ông bèn một mặt phái bảo an tới bảo vệ bức tượng bà Maria đang xây dở, mặt khác giao nội vụ cho Hội đồng Thị xã xét xử. Hội đồng này cương quyết thực thi công lý, nhờ đó khối giáo dân mới chịu rút lui.
Sự việc vừa kể nói lên tính hung hãn, ngoan cố, lộng hành của khối người Công giáo.
- Chuyện thứ sáu là trường hợp bờ biển Hòn Chồng Nha Trang. Hàng trăm năm người Pháp đô hộ vẫn giữ cho bờ biển Hòn Chồng cái vẻ thiên nhiên mỹ miều của vùng đất Thùy Dương cát trắng. Nhưng đến thời Đệ Nhị Cộng Hòa, khi Giám mục Nguyễn Văn Thuận quản nhiệm Giáo phận Nha Trang, vì vốn có thế lực trong dinh Độc Lập như đã nói trước kia nên ông xây cất tại bờ biển Hòn Chồng hai dãy lầu kiến trúc đồ sộ để làm Giáo Hoàng Chủng Viện. Từ đó, du khách bốn phương và nam thanh nữ tú Nha Trang bị giới hạn không còn lui tới, vui đùa đông đảo nơi bãi bể Hòn Chồng nữa.
Sự việc nói trên chứng tỏ người Công giáo luôn luôn đặt quyền lợi tôn giáo họ trên quyền lợi quốc gia mỗi khi họ thỏa hiệp hay nắm được quyền hành.
Những câu chuyện lạm quyền hống hách của các vị linh mục và các con chiên của họ, từ làng Phú Hòa xa xăm đến ngay tại Sài Gòn-Gia Định, từ chiếm đất chiếm chùa đến che dấu đào binh quân dịch, từ võ trang chống lại luật lệ của nhà nước đến coi thường báo chí... chỉ làm ta liên tưởng thêm đến cái tình trạng cũng như vậy mà còn phổ quát hơn dưới chế độ Diệm, hoặc xa hơn cả thế kỷ, về cái thời mà các cố đạo và lính Lê Dương thỏa hiệp với nhau làm nhục làm khổ dân tộc ta.
Không phải chỉ những nhà cách mạng như Phan Bội Châu, Lý Đông A lên án Gia Tô giáo mà các nhà viết sử như Đào Trinh Nhất, Phan Khoang, Tạ Chí Đại Trường,... cũng đã kể lại trong những tác phẩm của họ nhiều hành động áp bức tàn ác của các ông cố đạo Pháp và các con chiên Việt Nam thời Pháp thuộc. Nhưng hành động của các ông cố đạo Pháp vẫn chưa thấm vào đâu so với hành động mở mang nước Chúa một cách hung hãn của các ông linh mục dưới hai chế độ được gọi là “Việt Nam Cộng Hòa” do hai ông Tổng thống Thiên Chúa giáo lãnh đạo. Hai mươi năm dưới hai chế độ Cộng Hòa, lương dân Việt Nam, nhất là người miền Trung và Cao Nguyên, đã phải chịu một cổ hai ba tròng: tròng Cộng Sản, tròng Công giáo, và tròng của các ông tướng tá quân phiệt cầm đầu bởi Nguyễn Văn Thiệu và nhóm Khiêm, Quang, Viên. Thật là bất hạnh cho quê hương vì ba cái đại nạn Bạch họa, Hồng họa và Hắc họa đã liên tiếp giáng xuống đầu dân tộc suốt trên 100 năm trời và còn kéo dài chưa biết đến bao giờ!
-o0o-
Từ đầu chương này, tôi đã mô tả và phân tích cái bản chất Diệm không Diệm của chế độ Thiệu bằng quy luật thực nhất của chính trị miền Nam là chính cái lõi nhân lực lãnh đạo Cần Lao Công Giáo là yếu tố chính đã tạo nên hướng đi và sức mạnh có tính “Diệm không Diệm” cho chế độ. Bám theo hướng đi đó và lạm dụng sức mạnh đó dĩ nhiên phải có một đoàn quân những vị linh mục và giáo dân có chức quyền, luôn luôn hối mại quyền thế để làm nổi bật thêm tính kỳ thị tôn giáo và kỳ thị địa phương mà họ thừa kế đầy đủ từ chế độ Diệm.
Nhưng như thế vẫn chưa toàn diện nếu ta không bổ túc tình trạng này bằng một hiện tượng chính trị xã hội học khác: là khi chế độ đó rõ ràng xấu xa và rõ ràng bị toàn dân và toàn quân lên án trước lịch sử thì bộ phận nào vẫn ngoan cố muối mặt đứng ra bênh vực không những khi chế độ đang còn mà ngay cả khi đã mất.
Thật vậy, chế độ Thiệu ngày càng tham nhũng và thối nát. Xã hội Việt Nam ngày càng băng hoại suy đồi, cho đến năm 1971, khi ông Thiệu bày trò bầu cử độc diễn thì uy tín và vận mệnh miền Nam không còn gì nữa. Trước hoàn cảnh đó và trước sự khinh bỉ của các lực lượng dân tộc, một số trí thức Công giáo vốn ủng hộ Thiệu từ trước bèn thay đổi lập trường. Bắt nguồn từ mặc cảm tội lỗi có thật, họ quyết định chấm dứt ủng hộ chế độ và tỏ thái độ chống đối Nguyễn Văn Thiệu cùng những tướng tá tay sai của Thiệu.
Trong số trí thức Công giáo hiếm hoi đó tôi ghi nhận được bà Nguyễn Phước Đại (Nghị sĩ trong liên danh Mặt Trời của Huỳnh Văn Cao), bà giáo sư Bùi Tuyết Hồng (sau này trở thành phu nhân của ông Đại sứ Hòa Lan tại Thái Lan), các ông Nguyễn Văn Huyền, Nguyễn Văn Chức và ký giả Đinh Từ Thức biệt hiệu là Sức Mấy, Cự Môn,... Các linh mục Thanh Lãng, Nguyễn Quang Lãm, Trần Hữu Thanh, Đinh Bình Định, Nguyễn Ngọc Hiệu, và các ông Nguyễn Trân, Nghị sĩ Hoàng Xuân Tửu, Dân biểu Nguyễn Văn Kim,... (không kể các nhân sĩ Công giáo như Mai Ngọc Liệu, Trần Văn Lý, Lê Quang Luật, Trần Trọng Sanh,... vẫn chống Nguyễn Văn Thiệu như đã từng chống Ngô Đình Diệm, và cũng không kể các ông linh mục phản chiến trong nhóm Đối Diện hay nhóm Thanh Lao Công).
Tôi biết bà Nghị sĩ Đại có thái độ chống ông Thiệu, vì chính bà đã trực tiếp nói với tôi trong một buổi xem triển lãm hội hoa tại đường Tự Do. Bà nặng lời đả kích cuộc bầu cử độc diễn của Thiệu và không ngại ngùng nói với tôi: “Là người Công giáo, tôi càng xấu hổ khi thấy trong ngày bầu cử tại Sài Gòn chỉ có quân đội, công an và cảnh sát, và các ông Cha, bà Sơ đi bầu cho Thiệu, còn nhân dân thì tẩy chay. Từ đây tôi chấm dứt lập trường ủng hộ Thiệu”.
Tôi biết bà giáo sư Hồng (hiện ở Hòa Lan) có lập trường chống Thiệu vì chính bà đã mấy lần đến thăm tôi tại nhà riêng và tâm sự với tôi: “Lúc đầu vì chống Cộng mà tôi ủng hộ ông Thiệu, nhưng bây giờ thì tôi quá chán chường tuyệt vọng”.
Trong số những người Công giáo chống Thiệu trên đây, các ông Huyền, Chức và Đinh Từ Thức chỉ chống với thái độ tiêu cực mà vẫn bị Thiệu trả thù. Ông Nguyễn Văn Huyền công khai tuyên bố chống lại cuộc bầu cử độc diễn của ông Thiệu nên ông Thiệu lợi dụng hồ sơ cá nhân mà ông Đinh Từ Thức đã man khai văn bằng (để khỏi bị động viên) để bác bỏ liên danh Nguyễn Văn Huyền trong cuộc bầu cử Thượng viện kỳ ba [9]. Còn Nghị sĩ Nguyễn Văn Chức thì đã từng lớn tiếng tố cáo Đỗ Cao Trí tham nhũng trước diễn đàn Quốc hội (trong lúc Nghị sĩ Phạm Nam Sách lên án tướng Cao Văn Viên), tiếc rằng sau đó, trong cuộc đấu tranh quan trọng và nguy hiểm hơn để chống lại Luật Uỷ Quyền thì ông lại vắng mặt làm cho Chủ tịch Nguyễn Văn Huyền và các bạn đồng viện bất mãn nghi ngờ. Có dư luận cho rằng ông bị vợ và anh vợ là Dân biểu Đinh Xuân Minh làm áp lực, nhưng dù sao ông vẫn giữ thái độ chống Thiệu nên đã bị công an bắt giữ vào tháng cuối cùng của nền Đệ Nhị Cộng Hòa.
Hai linh mục Thanh Lãng và Nguyễn Quang Lãm thì quyết liệt hơn. Hai ông đứng vào hàng ngũ báo giới để chống Nguyễn Văn Thiệu bằng cách viết bài, xuống đường biểu tình công kích luật báo chí của Nguyễn Văn Thiệu, và cũng đã từng nếm mùi lựu đạn cay và dùi cui của Cảnh sát Dã chiến của Nguyễn Khắc Bình.
Linh mục Thanh Lãng và tôi quen biết nhau lâu ngày nhưng không phải là bằng hữu. Riêng linh mục Nguyễn Quang Lãm thì lại có cái duyên kỳ ngộ, từ hai kẻ đối nghịch chúng tôi trở thành đôi bạn thâm giao. Nguyên sau ngày Cách mạng 1-11-63, để duy trì hòa khí dân tộc và nhất là để xây dựng tinh thần đoàn kết trong quân đội vốn đã bị suy sụp nhiều trong chế độ trước, Hội Đồng Tướng Lãnh đã bổ nhiệm tướng Trần Tử Oai vào chức vụ Tổng trưởng Thông tin dù Oai trong quá khứ đã là một phần tử trung thành với ông Diệm. Tuy nhiên, lợi dụng chức vụ này, tướng Oai đã cho phép quá nhiều báo xuất bản, đặc biệt các báo Cần Lao Công Giáo ngụy trang cũng được tục bản làm cho các đoàn thể chính trị và các đảng phái bất mãn phản đối. Do đó, vào cuối tháng 12 năm 1963, Hội Đồng Tướng Lãnh quyết định cất chức tướng Oai và bổ nhiệm tôi thay thế để đối phó với một tình trạng chính trị gọi là “lạm phát tự do” sau mỗi cuộc cách mạng chống độc tài.
Trong cuộc họp báo đầu tiên để tiếp xúc với báo giới tại Bộ Thông Tin, tôi đã xác quyết lại chính sách tự do ngôn luận và tự do báo chí của tân chế độ với những giới hạn tạm thời và tối thiểu của giai đoạn chuyển đổi hậu cách mạng. Trong khi chờ đợi một quy chế báo chí mới, Bộ Thông Tin sẽ đối phó quyết liệt với các tài liệu và báo chí có thái độ thân Cộng, gây xáo trộn chính trị xã hội hoặc chống phá cách mạng. Riêng đối với các báo từng ủng hộ chế độ cũ thì phải bị đóng cửa vĩnh viễn, các chủ nhiệm muốn ra báo lại phải thành thật chứng tỏ thiện chí muốn sinh hoạt báo chí một cách dân chủ có trách nhiệm và phải đổi tên báo.
Tôi ra thông tư đóng cửa 15 tờ báo theo tiêu chuẩn trên, tuy nhiên tờ Xây Dựng của linh mục Nguyễn Quang Lãm và tờ Hành Động của Thượng tọa Thích Tâm Châu (do ông Bùi Anh Tuấn làm chủ nhiệm) chỉ bị đóng cửa 15 ngày vì tờ Xây Dựng có luận điệu mỉa mai cuộc Cách mạng 1-11-1963 và cuộc đấu tranh của Phật giáo, còn tờ Hành Động thì lại chuyên đả kích Cần Lao.
Tất cả các chủ báo đều thi hành quyết định của Bộ Thông Tin kể cả báo Hành Động, trừ linh mục Nguyễn Quang Lãm xin đến gặp tôi tại Bộ để đưa ra lời phản kháng. Ông cho tôi biết khi nào có Tối Cao Pháp Viện thì ông sẽ kiện Bộ Thông Tin, đòi bồi thường danh dự và vật chất. Tôi trả lời ông: “Đỗ Mậu chưa hề biết sợ ai, nếu báo Xây Dựng còn tiếp tục những luận điệu gây chia rẽ tôn giáo nữa thì tôi sẽ đóng cửa vĩnh viễn và sẽ đưa ông ra tòa...”.
Vốn đã có ác cảm vì tôi tham gia cuộc cách mạng lật đổ chế độ Diệm, nay báo lại bị tôi đóng cửa, nên từ đó linh mục Lãm coi tôi như kẻ thù. Từ đó, khi báo Xây Dựng tái phát hành và kéo dài tới ngày tôi đã về hưu, thỉnh thoảng linh mục Lãm lại cho đăng những bài xuyên tạc và bôi nhọ một cách không trực tiếp nhưng đều ám chỉ cá nhân tôi.
Cho đến vào thời kỳ sắp diễn ra cuộc bầu cử Tổng thống nhiệm kỳ 2 (1971), một hôm linh mục Lãm bất chợt đến nhà tôi. Sau khi chủ khách đã an tọa, linh mục Lãm mở lời:
“Từ khi ông Diệm bị lật đổ, tôi oán hận Thiếu tướng vì nghĩ rằng Thiếu tướng đã liên hệ đến cái chết của ông Tổng thống. Thật ra, thời anh em ông Diệm còn cầm quyền, họ coi tôi là thành phần linh mục trẻ học ở Pháp về, có xu hướng cấp tiến thiên tả nên họ không có cảm tình với tôi mà tôi cũng không có liên hệ với họ. Tôi đồng ý với Thiếu tướng là chế độ có rất nhiều tội lỗi nhưng việc sát hại ông Diệm là một điều không nên làm.
“Từ trước tôi cứ đinh ninh rằng Thiếu tướng ở trong thành phần chủ xướng vụ sát hại này, nhưng dần dần tôi điều tra biết Thiếu tướng đã muốn cứu mạng sống cho ông Diệm nhưng không thành trước đa số những kẻ hiếu sát mà trong đó có cả hai tướng Phạm Xuân Chiểu và Nguyễn Ngọc Lễ, hai kẻ từng là công thần của chế độ. Tôi thật lấy làm ân hận nên hôm nay tôi đến thăm và xin lỗi Thiếu tướng đã hiểu lầm Thiếu tướng suốt mấy năm trời”.
Thấy quan điểm của ông đủ tiến bộ để đồng ý về việc lật đổ chế độ Diệm nhưng cũng đủ nhân ái để chống đối việc sát hại ông Diệm, tôi chợt thấy linh mục Lãm có tư thế khá giống mình. Từ thông cảm đến thâm giao chỉ là một bước nên từ đó Nguyễn Quang Lãm và Đỗ Mậu mỗi ngày mỗi tương đắc hơn để trở thành hai người bạn tri kỷ.
Cũng từ đó thỉnh thoảng ông lại đến thăm tôi để luận bàn thế sự và cho phổ biến bằng tít lớn trên trang nhất báo Xây Dựng những lời tuyên bố mà tôi đã phát biểu trong các cuộc thảo luận chính trị tại nhà thờ Tân Định vào những năm 1972, 1973.
Hơn mười năm qua, từ ngày làm kẻ lưu vong, tôi cố theo dõi tin tức về linh mục Lãm để xem ông đã thoát khỏi nước chưa, nhưng than ôi, người bạn cố tri của tôi vẫn biệt vô âm tín. Cầu xin Trời Phật cho ông được thoát cũi sổ lồng để ông có thể đọc tập hồi ký này hầu biết rõ tâm sự tôi hơn, biết rõ những động cơ nào đã thúc đẩy tôi tham dự cuộc Cách mạng lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, và nhất là biết rõ nguyên nhân nào khiến miền Nam rơi vào tay Cộng Sản.
Trong số những nhân vật Công giáo chống đối tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu thì nhóm các linh mục Trần Hữu Thanh, Đinh Bình Định, Nguyễn Học Hiệu là can trường quyết liệt hơn cả, mặc dù hai linh mục Thanh và Định đã từng ủng hộ chế độ lúc ông Thiệu mới lên cầm quyền.
Linh mục Đinh Bình Định đã từng là đại diện cho liên danh Thiệu-Hương tại khu vực Tân Sa Châu trong cuộc bầu cử độc diễn năm 1971, còn linh mục Trần Hữu Thanh đã từng là giảng sư tại trường Chiến Tranh Chính Trị của quân đội. Nhưng rồi vận mệnh miền Nam mỗi ngày một nguy hiểm, tình hình mỗi lúc mỗi khẩn cấp mà theo linh mục Thanh thì nguyên nhân chính là do tập đoàn tham nhũng thối nát của Nguyễn Văn Thiệu gây ra. Vì ưu tư với thời cuộc, ông đã cùng với các ông Nguyễn Trân, Hoàng Xuân Tửu, Nguyễn Văn Kim... thành lập Phong Trào Nhân Dân Chống Tham Nhũng. Ban lãnh đạo phong trào tuyệt đại đa số là người Công giáo và đảng viên cao cấp của đảng Đại Việt mà ông Hà Thúc Ký là “chất xám” của phong trào.
Cha Thanh với tôi quen nhau từ năm 1949, 1950, thời còn ở Huế, khi ông tu tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Được linh mục Nguyễn Văn Thính giới thiệu và thấy tôi hăng say hoạt động cho giải pháp Ngô Đình Diệm, linh mục Thanh tỏ lòng cảm phục để từ đó ông và tôi trở nên bằng hữu. Bẵng đi một thời gian khá lâu, vì những biến cố thời cuộc dồn dập và vì tình hình đất nước qua phân, chúng tôi không có dịp gặp nhau cho đến khi tôi nghe tin ông lãnh đạo Phong Trào Chống Tham Nhũng.
Linh mục Trần Hữu Thanh quê ở Quảng Trị, giáp giới phía Nam tỉnh Quảng Bình để hai tỉnh cùng mang chung một số phận điêu linh vì tai trời ách nước, vì ngọn gió Lào mùa hè thiêu đốt những sinh lực kinh tế của một vùng đất nghèo nàn. Quảng Bình, Quảng Trị lại là những tỉnh đứng đầu ngọn sóng đối nghịch trong cuộc chiến tranh Nam-Bắc nên đã hứng chịu những thảm họa vô cùng tàn khốc, những chết chóc và tang thương không tưởng tượng được. Những trận ác chiến kinh hồn tại Cồn Tiên, Khe Sanh, Cổ Thành Quảng Trị và tại đoạn đường Quốc lộ số 1 (còn được gọi là “Đại lộ kinh hoàng”) đã được ghi vào quân sử. Dòng sông Bến Hải chia đôi Quốc Cộng cũng như dòng sông Gianh phân chia ranh giới hai nhà Trịnh-Nguyễn xưa kia đều đã đi vào lịch sử dân tộc, cũng như sau này chiến khu Ba Lòng của đảng Đại Việt chống nhà Ngô, cũng như ngôi nhà thờ La Vang được nhà Ngô tôn vinh là “Pháo Đài Tinh Thần Quốc Gia” đều là những địa danh bi đát khắc sâu vào tâm trí người dân Quảng Trị.
Quảng Trị không có những danh lam thắng cảnh đặc biệt như Quảng Bình nhưng sông núi Quảng Trị thì lại để cho đời những vần thi ca diễm tình làm rơi nước mắt những người đa lụy: hai châu Ô, Lý với mối tình bẽ bàng của nàng công chúa Huyền Trân, truông nhà Hồ với tâm sự ngổn ngang của một nho sinh xứ Nghệ, cầu Ái Tử với tầm lòng son sắt chung thủy của người sương phụ ngày đêm bồng con đứng đợi chồng về lúc bóng xế trăng lu.
Lại có ai ngờ một mối tình thôn dã ngang trái nơi “Cây Đa bến Cộ” ở bờ sông Ô Lâu của Quảng Trị quê mùa lại có thể làm rung động tâm hồn nhà thơ Nguyễn Bính để thi sĩ lưu lại cho đời những vần điệu lâm ly: “Cô lái đò đưa người khách tình sang sông. Xuân đến Xuân đi đã ba lần mà chàng không trở lại. Cô đành bỏ thuyền, bỏ lái, bỏ dòng sông, bỏ lời thề xưa ước cũ ra đi lấy chồng”. (Thơ của thi sĩ Nguyễn Bính đã được phổ thành nhạc).
Sở dĩ tôi nhắc đến Quảng Trị với xúc động vì vùng đất quê hương này trong thời cận đại đã sinh ra những nhân vật chính trị từng làm chao nghiêng đất nước hay những nhà tu hành mà tên tuổi được ghi lại nghìn thu. Quảng Trị có ông Nguyễn Hữu Bài làm Thượng Thư đầu triều, một thứ Phó vương từng làm tay sai cho Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp và Thực dân đô hộ. Quảng Trị lại có Lê Duẩn, Tổng bí thư đảng Cộng Sản nước Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam làm công cụ cho Đệ Tam Quốc Tê. Nhưng ngược lại Quảng Trị cũng có những bậc tu hành đạo cao đức trọng như Hòa Thượng Thích Trí Thủ và Giám mục Lê Hữu Từ. Tên tuổi và sự nghiệp của các bậc chân tu đó là những tấm gương chói lọi để lại cho đời sau.
Trong buổi hoàng hôn của Việt Nam Cọng Hòa, từ 1963 trở về sau, Quảng Trị lại có hai nhà tu hành với tâm Bồ Tát đã vì sự khổ đau của dân tộc mà xả thân tranh đấu, đã vì sự sống còn của quê hương mà nhập thế hành hoạt để phải mang họa vào người. Đó là Thượng tọa Thích Thiện Minh và linh mục Trần Hữu Thanh. Tôi nói đến hai ông với rất nhiều cảm phục, vì dưới chế độ quân phiệt tham nhũng Nguyễn Văn Thiệu, những tướng tá lãnh đạo hầu hết đều cuốn theo chiều gió, uốn mình theo luật rừng mà hưởng thụ giàu sang; những trí thức nếu không trùm chăn thì cũng chỉ múa may quay cuồng, mà lại có những nhà tu hành dám xông pha dấn thân tranh đấu. Và tôi lại càng phải đề cập đến hai vị chân tu này chính vì lúc đó cũng như sau này, họ đã bị những kẻ từng làm tay sai cho Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu xuyên tạc, bôi nhọ và hạ nhục.
Thật vậy, Thượng tọa Thích Thiện Minh vì đấu tranh cho tự do dân chủ, cho công bằng xã hội, cho bình đẳng tôn giáo mà bị hai chế độ độc tài Ngô Đình Diệm và quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu bắt bớ, tù đày. Khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản, ông nhất định không bỏ nước ra đi, ở lại lãnh đạo Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc tiếp tục chống lại chính quyền Cộng Sản nên bị bắt và bị tra tấn cho đến chết chứ không chịu khuất phục. Ông chết rồi mà Cộng Sản còn thù hận đến độ không cho người thân và giáo hội Phật giáo thăm viếng chôn cất. Thế mà tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong của Cần Lao Công Giáo tại hải ngoại lại hả hê reo mừng: “Thích Thiện Minh đã đền tội”. Thái độ hận thù, phản quốc của tờ Văn Nghệ Tiền Phong gây một làn sóng công phẫn tại hải ngoại và làm bất bình một nhân chứng lịch sử là ông Vương Vũ Văn, vốn sau 1975 vẫn còn ở trong nước, đã theo dõi và chứng kiến những hoạt động chống chính quyền Cọng sản của Thượng tọa Thích Thiện Minh, nên trong một bài ký sự đăng trên tạp chí Hành Trình, ông Văn đã lên tiếng ca ngợi Thượng tọa và lên án thái độ hận thù đầy ác ý của tờ Văn Nghệ Tiền Phong. [10]
Nhưng điểm đáng nói hơn hết trong hành động của tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong (tờ báo Cần Lao Công Giáo xuyên tạc hung hãn nhất tại hải ngoại với hình “Ngô Tổng thống Anh Minh” ở trang bìa, với trên một trăm số báo liên tục đánh phá Phật giáo và rất nhiều người quốc gia chống Cộng tên tuổi) là sự nối dài tội nghiệp của cái tinh thần Cần Lao Công Giáo Ngô Đình Diệm ra nước ngoài. Tội nghiệp vì cái tinh thần đó không chia sẻ được với nạn lớn mà dân tộc đang chịu, không rung động được với những tranh đấu bất khuất mà đồng bào đang ước mơ để bất kỳ tổ chức nào, cá nhân nào, dù bây giờ có xả thân cứu nước mà nếu trong quá khứ đã từng chống đối chế độ Ngô Đình Diệm thì Văn Nghệ Tiền Phong phải đập xuống tận bùn nhơ. Tờ Văn Nghệ Tiền Phong đã đóng đúng vai trò con tốt đầu thê thảm của tập đoàn Cần Lao Công Giáo tại hải ngoại là tìm mọi cơ hội để phá tan, phá nát Phật giáo; là đánh tan đánh nát những kẻ lòng dạ sắt son với tổ quốc, ngày xưa chống độc tài Diệm-Thiệu như ngày nay chống độc tài Cộng Sản.
Cũng vậy, linh mục Trần Hữu Thanh lãnh đạo Phong Trào Nhân Dân Chống Tham Nhũng là muốn tinh khiết hóa chính quyền, trong sạch hóa xã hội để gây lại niềm tin nơi quần chúng, gây lại sự kính nể nơi Đồng Minh để công cuộc chống Cộng hữu hiệu hơn. Thế nhưng chẳng những Phong trào của Cha bị chính người Công giáo tẩy chay mà cá nhân còn bị chính những người đồng đạo xuyên tạc là làm tay sai cho Mỹ và làm lợi cho Cộng Sản.
Ra đời từ đầu năm 1974, Phong Trào Chống Tham Nhũng trước sau chỉ hoạt động được tại một khu vực hạn hẹp là vùng Tân Sa Châu, thuộc họ đạo của linh mục Đinh Bình Định, tại Sài Gòn. Phong trào cũng có tổ chức một cuộc biểu dương tại Huế và chỉ được giáo dân Phú Cam ủng hộ một lần rồi thôi. Ngoài ra, tất cả các khu vực Công giáo khác khắp miền Nam không một nơi nào hưởng ứng cuộc đấu tranh của Cha Thanh. Ban lãnh đạo cũng ra Nha Trang vì tin tưởng vào ông cựu Tỉnh trưởng Nguyễn Trân, một thành viên lãnh đạo của Phong Trào, với hy vọng có thể lôi kéo được những người Công giáo địa phương giúp Phong trào tổ chức một cuộc xuống đường rầm rộ. Không ngờ Phong trào lại thất bại chua cay vì sự lãnh đạm của giới Công giáo Nha thành. Cấp lãnh đạo của phong trào chỉ gặp một nhóm người tại trường Trung học Bá Ninh để trao đổi ý kiến rồi sau đó tan cuộc không ai chịu hưởng ứng cuộc vận động cả. Sở dĩ Phong trào thất bại tại Nha Trang vì giáo dân nơi này đã bị Giám mục Nguyễn Văn Thuận ngầm chỉ thị không được tham gia hoạt động cho Phong trào. Làm sao Giám mục Thuận lại có thể để cho giáo dân của ông chống đối chính quyền Nguyễn Văn Thiệu khi mà Thiệu và Quang đang làm sống lại chế độ Diệm, nghĩa là đang giúp Giám mục thực hiện ý đồ riêng của mình. Phong Trào Chống Tham Nhũng chẳng những bị toàn thể khối Công giáo tẩy chay lại còn bị sáu ông linh mục, trong đó có cả vị linh mục tên tuổi là Hoàng Quỳnh, lên án phá hoại chế độ. Sáu đêm liền, sáu vị linh mục thay phiên nhau lên đài truyền hình để bênh vực và ca ngợi Thiệu là nhà lãnh đạo quốc gia liêm khiết, cương quyết chống Cộng, đồng thời kết án cha Thanh là phá rối hậu phương, làm lung lạc tinh thần binh sĩ nơi tiền tuyến, nghĩa là làm lợi cho Cộng Sản.
Để trả lời những xuyên tạc cho rằng Phong trào phá hoại quân đội, cha Thanh bèn viết một bài trên báo Hòa Bình ca ngợi tinh thần hy sinh chiến đấu của binh sĩ và nêu đích danh một số tướng liêm chính như tướng Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Đức Thắng, Dương Văn Đức,... Linh mục Thanh cũng không quên ghi tên tôi vào thành phần các “tướng sạch”.
“Tướng Đỗ Mậu khi còn tại ngũ đã tỏ ra là một sĩ quan liêm chính dù ông ở địa vị có thể dễ dàng tham nhũng. Vì thế mà khi ông đã về hưu rồi, tên tuổi và uy tín của ông vẫn còn được mọi người nhắc đến”.
Chẳng những linh mục Thanh viết báo khen tôi là tướng sạch trong một xã hội mà tham nhũng đã trở thành một thông lệ, ông còn nhờ linh mục Nguyễn Học Hiệu và ông Nguyễn Văn Lực đến nhà mời tôi tham gia hoạt động cho Phong trào. (Nhưng vì lý do riêng nên tôi đã từ chối như đã kể trong một chương trước).
Cuối năm 1974, khi miền Nam cơ hồ đứng bên bờ vực thẳm vì những thắng lợi quân sự và chính trị liên tiếp của Cộng Sản, và vì Hoa Kỳ đã cụ thể giải kết, nên để tỏ thiện chí với chính quyền, Phong trào quyết định đình chỉ hoạt động. Sau ngày Cộng Sản chiếm miền Nam, hơn 300 linh mục bỏ nước ra đi nhưng linh mục Trần Hữu Thanh vẫn ở lại quê nhà và bị Cộng Sản bắt giam lưu đày tại một làng quê ở Bắc Việt. Tưởng rằng cuộc đấu tranh đầy ý nghĩa của ông và cảnh tù đày cơ cực mà ông phải chịu đựng dưới chế độ Cộng Sản sẽ được đồng bào và nhất là đồng đạo của ông hãnh diện ghi nhớ. Đau đớn thay, trong lúc đồng bào đang thương nhớ ông thì chính những tu sĩ Công giáo sống an nhàn nơi hải ngoại lại viết báo viết sách lên án ông là kẻ phản bội quốc gia: Trên báo Văn Nghệ Tiền Phong số 105, dưới đề mục “Đầu trộm đuôi cướp”, sau khi mỉa mai Thượng tọa Thích Trí Quang, linh mục Vũ Đình Hoạt bèn kết tội linh mục Trần Hữu Thanh như sau:
“... Các vị sư đã vậy, còn các ông Cha thì sao? Nói đến các ông Cha là nói đến chính tôn giáo của tôi nên tôi có thể mạnh dạn mà nói một cách thẳng thắn không sợ bị xuyên tạc là “nhằm bôi bẩn” tôn giáo bạn nữa. Trong tổng số gần 200 linh mục của chúng tôi trên đất Mỹ này, tôi chưa hề thấy một vị nào lên tiếng nói là mình bị báo chí “đánh chết bỏ”. Thảng hoặc đôi ba lần lưa thưa, một vài tờ báo Việt ngữ có đề cập đến “Chân Tín, Khắc Từ, Trần Hữu Thanh, Trần Tam Tỉnh”. Hành động và kết quả đấu tranh của các Ngài thế nào, thiết tưởng đồng bào Lương giáo trong và ngoài nước ai nấy đều thấy rõ cả rồi. Một điều không mấy rõ ràng là được bao nhiêu kẻ khen và bị chừng nào người chê, nhưng một điều chắc chắn và xác quyết là chưa hề thấy một vị giáo quyền Công giáo nào lên tiếng hoặc công khai tỏ thái độ ủng hộ lập trường của các vị đó cả. Riêng trường hợp đặc biệt của Linh mục Trần Hữu Thanh trong vấn đề đấu tranh chống tham nhũng thì chúng tôi nhớ rõ ràng tại một cuộc hội thảo của các linh mục tuyên úy hồi đó, chúng tôi có trình Đức Cha Lê Văn Ấn, đặc trách tuyên úy, như sau: “Kính thưa Đức Cha, xin Đức Cha cho chúng con biết tôn ý về hành động của cha Thanh như thế nào để chúng con được biết, hầu có thể trả lời cho các anh em quân nhân mỗi khi họ hỏi là có nên theo và ủng hộ hay không”. Câu trả lời của Đức Cha là rất là xác đáng như sau: “Quý Cha biết đã gọi là một vụ kiện thì phải có phiên Tòa, mà đã có phiên tòa thì phải có chánh án, đương đơn và bị can, có luật sư và công tố viện. Đàng này chỉ có đấu tranh và nhân dân, còn tất cả đều là mơ hồ, vô bằng sở cứ thì quý cha nghĩ sao?” Nghe câu trả lời ấy của Đức Cha, tất cả chúng tôi đều cười ồ và ngầm hiểu thâm ý của Ngài muốn nói gì rồi. Sau cuộc hội thảo chỗ này xì xào, chỗ kia bàn tán cho là bí mật đã bật mí như sau: “Cha Trần Hữu Thanh được mua chuộc 100 triệu đồng với dụng ý là gây nên cuộc đấu tranh gọi là chống tham nhũng và đặc biệt là đánh thẳng vào Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, nhưng chỉ dùng dân chúng như một phương tiện hò la, đả đảo đòi thay thế ông Thiệu, ông Thiệu phải từ chức. Đó là trúng kế của bàn tay lông lá rồi. Mỹ muốn thay thế ông Thiệu nhưng không muốn trực tiếp ra chỉ thị, dùng màn đấu tranh tham nhũng mà thôi. Như vậy, phần vừa cho là Mỹ không can thiệp vào nội bộ vì đó là nội bộ của chính trường Việt Nam, đàng khác Mỹ có thể chứng minh trước dư luận quốc tế là ông Thiệu phải từ chức vì dân bất tín nhiệm, chứ không phải là bị Mỹ hất cẳng. Phong Trào Chống Tham Nhũng lại chính là con đẻ do tham nhũng mà ra.[11]
Vụng về dùng lại luận điệu của chính quyền Thiệu ngày xưa, bài báo của linh mục Hoạt trên Văn Nghệ Tiền Phong xác định rõ thêm ba điểm:
Thứ nhất là vì dan díu quá chặt chẽ với chính quyền Thiệu trong ý đồ tái lập một chế độ Công giáo trị Ngô Đình Diệm nên “giáo quyền Công giáo Việt Nam” đã ngậm miệng không dám “lên tiếng hoặc công khai tỏ thái độ ủng hộ lập trường” chống tham nhũng của phong trào do cha Thanh lãnh đạo, một phong trào nếu không thực hiện được ước mơ chính đáng của người dân muốn miền Nam sạch và mạnh để chống Cộng, thì ít nhất cũng đã can đảm phơi bày được chân tướng tội lỗi không chối cãi được của những kẻ lãnh đạo miền Nam.
Thứ hai là tính giáo điều ngoan cố không làm cách nào thay đổi được của những chức sắc Công giáo qua lời bênh vực ngụy biện “tất cả là mơ hồ vô bằng sở cứ” của Cha Lê Văn Ấn. Bản cáo trạng số I của Phong trào còn đó [12], vụ buôn lậu hóa học của người anh cột chèo của Thiệu là Nguyễn Xuân Nguyên được đem ra tố cáo trước Quốc hội còn đó, hai ngôi nhà nguy nga đồ sộ của Thiệu giữa trung tâm Sài Gòn còn đó, vụ buôn lậu “Còi Hụ Long An” còn đó, lời thú tội mập mờ “có ít xít ra nhiều” của Thiệu còn đó, và nhất là đôi mắt của nhân dân, lỗ tai của nhân dân còn đó... làm sao mà “mơ hồ, vô bằng sở cứ” được! Đó là chưa nói những nhân chứng sống, nạn nhân của Thiệu hay đồng lõa với Thiệu đã công khai lên tiếng.
Thứ ba là dùng lại cái thủ đoạn chụp mũ để bôi đen đối thủ mà Ngô Đình Nhu đã xảo quyệt sử dụng trước đó cho xứng đáng cái tên gọi “chế độ Diệm không Diệm” qua luận điệu Phong trào là tay sai của Mỹ. Nếu có bằng chứng Cha Thanh nhận 100 triệu đồng sao lúc đó (và nhất là sau này) Thiệu không trình bày ra. Nếu cha Thanh là “tay sai” của Mỹ sao ngày 30-4-1975 Mỹ không đưa cha Thanh đi mà từ 5 ngày trước đó CIA đã “bồng” Thiệu đi an toàn với đầy đủ gia tài tiền của. Chụp mũ người khác để che dấu cái chân tướng tay sai của Thiệu, các vị linh mục lúc đó và cha Hoạt bây giờ biết là không thuyết phục được ai nhưng vẫn ngoan cố làm vì lực lượng Công giáo Việt Nam đã lỡ biến chế độ Thiệu thành chế độ Diệm nối dài mất rồi.
Nhưng lời tuyên bố của Cha Ấn chưa đủ, bài báo của một cha Hoạt có thêm vào vẫn chưa đủ, phải đợi đến khi linh mục Cao Văn Luận, tướng chiến trường của tập đoàn Cần Lao Công Giáo tại hải ngoại ló mòi ra ta mới thấy rõ thêm cái “chính sách” bênh vực Thiệu của họ ghê tởm đến độ nào.
Trong hồi ký Bên Giòng Lịch Sử tái bản tại Hoa Kỳ, linh mục Cao Văn Luận, vị cố vấn tối cao của Thiệu, vị linh mục được Thiệu hết sức tín nhiệm và trọng vọng, đã viết về Phong Trào Chống Tham Nhũng như sau:
... Nhóm chống đối mạnh nhất là nhóm của Linh mục Trần Hữu Thanh, thuộc Dòng Chúa Cứu Thế. Vào khoảng cuối năm 1974, Cha Thanh đã lập Phong Trào Nhân Dân Chống Tham Nhũng thối nát và đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình. Một hôm ông đích thân đến gặp tôi và xin tôi ký tên vào một tờ truyền đơn chỉ trích chính phủ ông Thiệu là thối nát, hối lộ, và kêu gọi dân chúng biểu tình chống đối. Tôi đã từ chối vì biết Phong trào này có lẽ do Mỹ xúi dục. Vì trước đó mấy tuần, tôi được biết rằng có một Thượng Nghị sĩ thuộc nhóm phản chiến đã đến gặp linh mục Trần Hữu Thanh tại Dòng Chúa Cứu Thế và nói chuyện rất lâu với ông ta. Lại còn tin đồn là chính Mỹ đã giúp cho Phong trào của cha Thanh hoạt động. Đàng khác, tôi không chịu ký vì nghĩ rằng hành động của nhóm Cha Thanh chỉ có lợi cho Cộng Sản chứ không có lợi gì cho quốc gia, và tôi đã nói với ông: “Chuyện tham nhũng và hối lộ không phải chỉ có ở Việt Nam mà nước nào trên thế giới cũng có cả”. Nhưng Linh mục Thanh vẫn cổ võ Phong trào cho đến cùng.[13]
Cũng thô bạo trong thủ đoạn và nghèo nàn trong nội dung như những ông cha Tivi và những ông cha tuyên úy trước 1975, tám năm sau tại hải ngoại, ông Luận lại chụp mũ Phong Trào Chống Tham Nhũng của Cha Thanh là do Mỹ điều động và chống tham nhũng “chỉ có lợi cho Cộng Sản chứ không có lợi gì cho quốc gia cả”. Chỉ khác là lần này ông Luận thêm một số yếu tố mới: cá nhân cha Thanh là tay sai của Mỹ (qua buổi “nói chuyện rất lâu” với một “Thượng nghị sĩ thuộc nhóm phản chiến”) và chống tham nhũng chỉ có lợi cho Cộng Sản vì “nước nào trên thế giới cũng có tham nhũng cả”.
Thêm hai yếu tố mới này vào trong thủ đoạn chụp mũ, ông Luận chỉ chứng tỏ thêm cái bản chất độc ác và sự ấu trĩ trí thức của một người không những đã là viện trưởng một viện đại học mà còn là tu sĩ của một tôn giáo nữa.
Trước hết, tôi không biết Cha Thanh có đến xin ông Luận ký vào truyền đơn không vì tôi nghi ngờ sự có thật của lời kể lại này: ai không biết ông Luận lúc bấy giờ là cố vấn của Thiệu (trước đó là cố vấn của ông Diệm và sau này còn là cố vấn của Nguyễn Bá Cẩn như lời ông kể lại nữa), cha Thanh đến “xin” ông Luận ký tên chống Thiệu có khác gì Thượng Tọa Trí Quang đến xin ông Nhu ký vào truyền đơn chống ông Diệm! Nhưng cứ ví dụ như chuyện đó có thật thì cứ việc dựa vào lý do Cha Thanh đã gặp một Thượng nghị sĩ Mỹ để cho rằng phong trào đó do “Mỹ xúi dục” và từ chối hợp tác thì quả thật lý luận chính trị của ông Luận thật là ấu trĩ. Ông Thượng nghị sĩ Mỹ đó tên là gì sao ông Luận 8 năm sau không giám nói ra tại hải ngoại, hay lại là một chuyện tưởng tượng khác của ông Luận. Họ gặp nhau nói gì làm sao ông Luận biết được nội dung buổi nói chuyện mà đã lên án là “Mỹ xúi dục”... Ông Luận mập mờ những sự kiện đó mà không cần đắn đo suy nghĩ tính xác thực của nó chỉ vì ông hấp tấp muốn bôi nhọ cha Thanh, muốn lên án Phong Trào Chống Tham Nhũng cho nhịp nhàng với những vận động của nhóm “Phục Hồi Tinh Thần Ngô Đình Diệm” và nhóm rửa mặt cho Thiệu đang bắt đầu hoạt động tại Hoa Kỳ từ những năm đầu của thập niên 80.
Lại nữa, cái luận cứ “đừng lên án và đừng chống tham nhũng” vì “nước nào trên thế giới cũng có” để bênh vực chính quyền Thiệu chỉ chứng tỏ cái quan điểm xã hội phản động và cái nhìn lịch sử bạc nhược của một người chỉ muốn duy trì đặc quyền đặc lợi cho một giai cấp thống trị bóc lột, dù sự duy trì đó (bằng tệ trạng tham nhũng) có đục khoét thêm sinh lực quốc gia, có tạo thêm bất công khốn khổ cho dân tộc và có làm cho kẻ thù lợi dụng để kích phá. Không biết lịch sử Việt Nam trong 100 năm Thực dân đô hộ có dạy được cho ông Luận bài học vì sao dân ta vùng lên đấu tranh chống tham quan ô lại và thực dân bóc lột không; không biết lịch sử thế giới có mở mắt cho ông Luận thấy rằng nước nào có độc tài, tham nhũng, bất công, nghèo đói là ở đó có Cộng Sản dễ sinh sôi và lớn mạnh không? Cuba, Nicaragua, Ethiopia, Trung Hoa, Angola, Phi Luật Tân... há chẳng phải là những bằng chứng xương máu của họa tham nhũng đó sao? Cụ Hoàng Văn Chí đã từng dặn dò thế hệ tương lai rằng:
Những nhà lãnh đạo độc tài, quan liêu phong kiến, tham nhũng, những kẻ lên xe xuống ngựa, sống xa hoa giữa một xã hội đói rách, những kẻ no lưng ấm cật, rối rượu sâm banh sáng sữa bò là nguyên nhân gây nên cách mạng.[14]
Nếu ông Luận không thấy được điều đó thì thật tội nghiệp cho trình độ luân lý của ông. Nếu ông thấy những ngoan cố bóp méo sự thật thì chỉ có thể giải thích thái độ đó bằng cái nguyên nhân thực sự buộc ông phải bênh vực Thiệu chỉ vì Thiệu là nối dài của Diệm, một chế độ đã đẻ ra một loại tinh thần như “tinh thần Cao Văn Luận”. Sự giải thích này có vẻ hợp lý hơn vì ông Luận chỉ lập lại một tiền lệ của hơn mười năm trước, dưới chế độ Diệm, khi bà Nhu cũng đã dùng một loại luận cứ như thế (với trường hợp của Phi Luật Tân) để bào chữa cho tình trạng tham nhũng tại Việt Nam và đã bị dư luận đập nát rồi:
Nhưng Phi Luật Tân không bị một trận chiến tranh sinh tử với Việt Cộng như Việt Nam. Nền tham nhũng của Ngô Đình Nhu đã làm cho dân chúng xa rời chính quyền. Làm cho chính quyền mất uy tín, mất tín nhiệm, mất khả năng mà kết quả chỉ có lợi cho Cộng Sản. Huống chi trước đây chính phủ Diệm tiêu diệt Bình Xuyên cũng vì Bình Xuyên tham nhũng bóc lột như nền tham nhũng bóc lột của Ngô Đình Nhu ngày nay [15].
Và cuối cùng là cái lý luận cổ điển rằng chống chính quyền tham nhũng thì làm lợi cho Cộng Sản. Cộng Sản Việt Nam mạnh từ những năm 1960, 1961, mạnh đến nỗi năm 1962 ông Diệm phải tuyên bố “Tổ quốc lâm nguy” và sau đó phải thỏa hiệp với Cộng Sản. Không những thế, chính vì cái chế độ tham nhũng “Diệm không Diệm” sau đó mà càng lúc Cộng Sản càng mạnh thêm, bắt chính quyền Sài Gòn phải ngồi vào phòng họp từ năm 1968 để ký hợp ước vào năm 1973. Phong Trào Chống Tham Nhũng được phát động gần 15 năm sau khi Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ra đời và dĩ nhiên chẳng dính dự gì đến chuyện “làm lợi” cho Cộng Sản thêm lớn mạnh đó cả. Đúng ra, chính vì không có Phong Trào Chống Tham Nhũng từ những năm 59, 60 cho nên địch mới mạnh thêm, và quả thật nếu có hành động nào làm lợi cho Cộng Sản thì hành động đó là thay vì còn một chút lương tri để làm sạch chính quyền thì ông Luận lại đi làm cố vấn cho những chế độ tham nhũng!
Vào đầu năm 1975, khi miền Nam đang đứng trên bờ tuyệt vọng vì quyết định giải kết của Mỹ và quyết tâm dứt điểm chiến tranh của Cộng, khi chính sách Việt Nam Hóa, tuy chỉ là một bước hiểm độc của Tổng thống Nixon để che dấu những nhượng bộ và đổi chác với Hà Nội trong hiệp ước Paris nhưng lại là cơ may hiếm hoi cho người Việt quốc gia chân chính để hồi sinh, thì những người như Cha Thanh, Cha Hiệu không những đã bất hợp tác với các linh mục thân Cộng trong nhóm Đối Diện mà còn tích cực đấu tranh chung với những thành phần chống Cộng với lý tưởng sắt son như Phan Bá Cầm (Hòa Hảo), Trần Quang Vinh (Cao Đài), Nguyễn Văn Lực, Ngô Văn Ký (VNQDĐ)... trong một tổ chức lấy tên là Trận Tuyến Nhân Dân Cách Mạng. [16]
Như vậy chính Thiệu và đồng bọn là tay sai của Mỹ làm lợi cho thế cờ của Mỹ và Cộng Sản đến phút cuối cùng (để được Mỹ bồng lên phi cơ với vô số vàng bạc châu báu cho qua Đài Loan) chứ Phong Trào Chống Tham Nhũng nói riêng và các hoạt động của người Việt quốc gia nhằm nắm lấy thế chủ động như Trận Tuyến Nhân Dân Cách Mạng, ngược lại, là nỗ lực nhằm phá thế cờ thỏa hiệp Mỹ-Cộng đó để cứu nước, lại bị ông Cao Văn Luận lên án một cách xuẩn động và độc ác.
Sau này, tại hải ngoại, ông Thiệu thú nhận một cách trâng tráo “Tụi Mỹ nó áp lực tôi làm thế này thế nọ. Đó là lịch sử” [17]. Đúng, đó là lịch sử của một kẻ thừa kế chế độ cũ làm tay sai cho ngoại bang và được những tu sĩ Công giáo như Giám mục Lê Văn Ấn, linh mục Vũ Đình Hoạt, sáu ông Cha Tivi và hàng trăm ông Cha tuyên úy công khai bênh vực và đề cao. Còn ông Cao Văn Luận, dĩ nhiên, phải vinh danh Thiệu lên hàng “Lãnh tụ anh minh”, “Ông Thiệu là một người tôi kính phục, một người có tinh thần quốc gia cao độ và cương quyết chống Cộng. Ông Thiệu là một người Công giáo đạo đức, chủ nhật nào cũng đi nhà thờ xem lễ, và trước khi đi ngủ hai ông bà cùng nhau đọc kinh.” [18] và Nguyễn Minh Bảo, viên cựu Trung úy thuộc Lữ Đoàn Phòng Vệ Tổng thống Phủ cũ của thời Diệm phải tôn vinh chính quyền Thiệu “là một chính quyền sáng suốt, đắc nhân tâm, đem lại niềm hân hoan cho một tập thể quần chúng đông đảo...” [19]. Thì ra cứ tham nhũng thối nát, cứ làm tay sai cho Mỹ, cứ phá hoại quốc gia mà cứ đọc kinh, cứ đi nhà thờ đều đặn là vẫn đạo đức, sáng suốt và đắc nhân tâm!
Những phần tử Cần Lao Công Giáo đó phải vinh danh và bám lấy một Tổng thống độc tài, quân phiệt, tham nhũng, phản quốc như Nguyễn Văn Thiệu vì không những chế độ đó mang lại đặc quyền đặc lợi cho họ, mà quan trọng hơn cả, chế độ đó là chế độ của họ, chế độ Diệm không Diệm mà họ mơ ước.
Cũng trong lần tái bản này, để toa rập nhịp nhàng với tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong trong chiến dịch xuyên tạc và bôi lọ những người tham gia cuộc Cách Mạng lật đổ chế độ Diệm, ông Cao Văn Luận đã thêm một đoạn ngắn về cá nhân tôi. Đại ý cho rằng một nhân viên của Nha An Ninh Quân Đội trong dinh Độc Lập báo cho tôi biết ông Diệm không chịu ... thăng cấp Tướng nên từ đó tôi tức giận và tìm cách lật đổ ông Diệm.
Có ba điểm đáng nói trong lời xuyên tạc này:
* Thứ nhất là vì bản chất hám danh hám lợi đã điều kiện hóa mọi suy nghĩ tính toán của vị Linh mục Công giáo này nên ông Cao Văn Luận nhìn mọi sự việc, đoán mọi sự kiện cũng chỉ bằng danh và lợi. Suy bụng ta ra bụng người, nghĩ rằng ai cũng vì miếng đỉnh chung như mình mà không cần xét đến những yếu tố khác của vấn đề. Những yếu tố quan trọng hơn cái chức Thiếu tướng (mà ông Luận tưởng tượng) như những khổ đau mà người đồng bào và đồng đạo của tôi cam chịu, như nỗi phẫn uất vì tôn giáo tôi bị lăng nhục, như những lo lắng của tôi khi biết hai ông Diệm-Nhu đang thỏa hiệp với Cộng Sản, như những đau đớn của tôi khi nhìn đồng chí thân hữu cũ bị chế độ bạc đãi v.v... những yếu tố đó, ông Luận làm sao nghĩ đến được nên khi xuyên tạc người khác, ông đã bị giới hạn trong tầm suy nghĩ danh lợi nhỏ mọn của ông ta mà thôi.
* Thứ hai là vì không biết gì về đối tượng mình xuyên tạc là tôi nên ông Luận chỉ nhìn vào đám Cần Lao Công Giáo nịnh bợ bao quanh ông Diệm như Huỳnh Văn Cao, Lê Quang Tung,... một sớm một chiều thăng cấp nhanh chóng để suy diễn bừa bãi. Ông không để ý nên không biết đến bản chất và quá trình liên hệ giữa tôi và ông Diệm như thế nào (đến nỗi ông Luận viết là tôi theo ông Diệm từ năm 1948 chứ không phải từ 6 năm trước đó, 1942), ông Luận cũng không biết đến vị trí và uy quyền của một Đại tá Giám đốc Nha An Ninh Quân Đội trong một chế độ độc tài như chế độ Diệm thì tướng bao nhiêu sao cũng phải nể sợ; và dĩ nhiên ông Luận không biết tôi và một số đồng chí cán bộ riêng của ông Diệm đã nhiều lần, riêng rẻ hoặc chung với nhau, trình bày những âu lo và khuyến cáo ông Diệm mà ông vẫn không nghe...
Vì không biết nên ông Luận cũng lòi luôn cái dốt của mình trong lúc phỉ báng người khác: An Ninh của dinh Độc Lập không thuộc quyền An Ninh Quân Đội, thì làm sao một nhân viên của Nha tôi có thể có mặt ở đó để nghe những loại chuyện như thế của ông Diệm. Xuyên tạc một cách ấu trĩ như thế, ông Luận chỉ làm cho người khác thấy tính hạ cấp bất nhân của một người mang chức Linh mục của một tôn giáo Cứu Thế mà chỉ hại người hại vật.
* Cuối cùng là sự kiện đoạn văn xuyên tạc tôi chỉ xuất hiện trong lần tái bản tại hải ngoại, 20 năm sau ngày 1-11-63. Tại sao ông Luận không giám viết ngay từ ấn bản đầu tiên dù đến năm 1965 thì tôi đã hồi hưu về làm một người dân thường? Tại sao ông phải đợi ra đến hải ngoại, trong những điều kiện khó khăn về sinh hoạt và lợi dụng sự phục hồi của nhóm Cần Lao Công Giáo, mới dám xuyên tạc và bôi nhọ người khác?
Tư cách của ông Luận đâu, sự can đảm của các “thánh tử đạo” đâu mà phải rụt rè hèn nhát như thế? Ở trong nước, viết ra, ông biết sẽ không bịp được ai và sẽ bị nguyền rủa nên mới đợi đến bây giờ vậy.
Theo hồi ký Cao Văn Luận thì năm 1946, ông ta nguyện khi về nước sẽ tham gia kháng chiến chống Pháp. Khi về đến quê nhà, chẳng những ông Luận đã không về lại làng xưa xóm cũ thăm viếng mồ mả cha ông, bà con ruột thịt dù đã 9 năm trời xa cách, mà chỉ sống ở các vùng Tây chiếm đóng, cầm đầu giáo dân đi biểu tình theo lệnh của Tây. Ngoài ra, linh mục họ Cao còn dám viết sách hạ nhục vua Duy Tân, một vị anh hùng dân tộc, làm cho nhiều nhân sĩ nổi giận vạch trần ý đồ của Luận vào sử sách (xem “Hồ Sơ Vua Duy Tân” của Hoàng Trọng Thược, xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1984). Một linh mục Việt gian, phản quốc như thế mà lại làm “quân sư” cho hai đời Tổng thống Công giáo thì Việt Nam Cọng Hòa thua Cộng Sản Việt Nam là đúng lắm rồi !
-o0o-
Trong suốt 30 năm chiến tranh, khối Công giáo dành lấy độc quyền chống Cộng và biến mâu thuẫn Dân tộc-Cộng Sản thành tranh chấp Công giáo-Cộng Sản. Mười năm đầu, họ làm tay sai cho quân đội viễn chinh Pháp, đất nước bị qua phân; mười năm giữa họ thỏa hiệp với Mỹ để hậu thuẫn cho gia đình họ Ngô, đất nước bị suy nhược; mười năm cuối họ cấu kết với quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu và Tướng, Tá tham nhũng để phục hồi chế độ Diệm, đất nước rơi vào tay Cộng Sản.
Thành tích của họ là như thế và đã được Thượng tọa Trí Quang tiên đoán từ trước: “Hễ quân phiệt mà cầm quyền thì chỉ làm tay sai cho ngoại bang, hễ Cần Lao mà cầm quyền thì chỉ đem thắng lợi cho Cộng Sản”. Thật vậy, miền Nam trong 10 năm cuối cùng không những bị cai trị bởi quân phiệt mà cả bởi Cần Lao nữa nên dù quân viện, kinh viện của Mỹ ào ạt đổ vào để có lúc nâng quân số lên đến một triệu quân nhân (và nửa triệu quân Mỹ), để có lúc nền kinh tế phồn thịnh giả tạo đã làm cho bộ mặt miền Nam có vẻ trù phú... thế mà cuối cùng vẫn tan hàng rã ngũ, cuốn cờ dẹp trống tháo chạy ra biển khơi.
Tất cả bắt đầu từ sau biến cố Mậu Thân, khi mà những thế lực Cần Lao đã hồi sinh và quấn những cái vòi bạch tuộc vào những vị trí lãnh đạo quyết định của nền Đệ Nhị Cộng Hòa. Biến cố Mậu Thân là một sự thất bại quân sự và chính trị nặng nề của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam trên chiến trường miền Nam và đem lại cho nhân dân miền Nam một cuộc sống tương đối ổn định trong ba năm sau đó (1969-1971). Nhưng biến cố Mậu Thân cũng đã kéo theo ba hậu quả to lớn đe dọa vận mệnh miền Nam:
- Thứ nhất, về phía địch, Hà Nội lợi dụng sự kiệt sức của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để xâm nhập thêm các cán bộ chính trị và các đơn vị chính quy để nắm lấy quyền lãnh đạo tuyệt đối trên cả hai mặt chính trị lẫn quân sự hầu chuẩn bị Tổng tấn công vào năm 1977 và tê liệt hóa thành phần không Cộng Sản trong Mặt Trận.
- Thứ hai, về phía Đồng minh, bị xúc động dồn ép về một cuộc chiến tranh mà những hình ảnh chết chóc vào tận phòng khách của mỗi gia đình, cũng như những rạn nứt nội bộ nổ tung trên đường phố, cả nhân dân lẫn chính quyền Hoa Kỳ đều muốn rút quân khỏi miền Nam, cầu hòa với Hà Nội để chấm dứt cuộc “chiến tranh phi nghĩa” [20] kéo dài đến 5 đời Tổng thống.
- Thứ ba, về phía chính quyền miền Nam mà ông Thiệu là người nắm toàn quyền lãnh đạo, đã không biết khai thác chiến thắng và sức mạnh của nhân dân miền Nam mà chỉ biết lệ thuộc thêm vào đường lối của Mỹ để nắm chặt quyền lực của mình.
Chính hậu quả thứ ba này mới là hậu quả quan trọng quyết định bước ngoặt lịch sử cuối cùng của số phận miền Nam. Vì dù Bắc Việt có đưa quân thêm vào Nam, dù Mỹ có Việt Nam Hóa để giải kết, mà sau chiến thắng Mậu Thân chính quyền miền Nam biết trong sạch hóa cơ cấu lãnh đạo, biết đoàn kết toàn dân để giành lại chính nghĩa, biết củng cố thực lực để nắm lấy chủ động thì chưa chắc miền Nam đã rơi vào tay Cộng Sản vào mùa Xuân 1975.
Không biết trong sạch hóa, không biết đoàn kết, không biết củng cố thực lực nhưng ngược lại, Thiệu và phe nhóm lại biết tham nhũng thêm để vinh thân phì gia, biết độc tài thêm để giữ chặt quyền lực, và nhất là biết nhắm mắt thi hành đúng sách lược của Mỹ (là dựa vào quân kinh viện để giải quyết chiến tranh bằng võ lực) nên cuối cùng mới rơi vào chiếc bẫy oan nghiệt của hòa đàm Ba Lê.
Thật vậy, chíng ta hãy nhìn lại một số biến cố quan trọng tạo nên dây xích kềm tỏa số mệnh miền Nam từ sau Tết Mậu Thân:
- Ngày 31/3/1968, Tổng thống Johnson bị dư luận Mỹ chống đối nên tuyên bố quyết định không tái ứng cử nhiệm kỳ thứ hai nữa và rút tướng diều hâu Westmoreland về nước.
- Ngày 18, 20/6/1968, Johnson và Thiệu gặp nhau tại Honolunu để thảo luận sách lược hòa đàm với Cộng Sản.
- Ngày 23/6/1968, căn cứ khổng lồ của Mỹ tại Khe Sanh bị rút bỏ.
- Tháng 11/1968, sau khi đắc cử Tổng thống, ông Nixon hứa sẽ rút dần quân Mỹ ra khỏi Việt Nam.
- Ngày 8/6/1969, Nixon và Nguyễn Văn Thiệu gặp nhau tại đảo Midway để thỏa thuận về chính sách Việt Nam Hóa và lịch trình rút quân Mỹ. Nixon tuyên bố rút 25.000 quân Mỹ đầu tiên về nước.
- Tháng 2/1971, quân đội VNCH mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh vào Hạ Lào nhưng bị thảm bại nặng nề. Sư đoàn 3 Bộ Binh gần như bị xóa tên và Sư đoàn Dù thiện chiến nhất của quân đội miền Nam bị thiệt hại khá nặng. Các tướng lãnh công khai đổ lỗi cho nhau càng làm nổi bật khả năng chỉ huy yếu kém của các sĩ quan trách nhiệm. Sau trận Lam Sơn 719 này, quân đội VNCH lui dần về thế thủ.
- Tháng 10/1971, Nguyễn Văn Thiệu đắc cử nhiệm kỳ hai Tổng thống trong một cuộc bầu cử độc diễn. Kết quả cuộc bầu cử này tất nhiên đã được Mỹ đồng ý, nhưng cũng tất nhiên đã làm cho chính quyền càng mất chính nghĩa, mất uy tín cả trong lẫn ngoài nước và xé sự đoàn kết chính trị tại miền Nam ra nhiều mảnh kình chống nhau.
- Ngày 30 tháng 5 năm 1972, Cộng Sản mở cuộc tấn công quy mô và rộng lớn khắp miền Nam (được nhà văn quân đội Phan Nhật Nam gọi là “Mùa Hè Đỏ Lửa”). Dù tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH rất cao và dù sự hi sinh của họ vô bờ bến, nhưng trận tổng tấn công này của Việt Cộng đã làm cho tinh thần quân dân hoang mang xao xuyến. Phần lớn các tỉnh Quảng Trị, Kontum và Bình Long rơi vào tay Cộng Sản, riêng tỉnh Bình Long hoàn toàn bị cô lập không còn tiếp tế bằng đường bộ được nữa và chỉ có thể liên lạc bằng phi cơ. Sư đoàn 5 Bộ Binh đóng ở Lai Khê, mỗi lần liên lạc với Bình Long là hứng lấy thiệt hại trên Quốc lộ 13. Nhiều đồn bót và căn cứ quân sự bị rút bỏ. Căn cứ Tống Lê Chân do một tiểu đoàn Biệt Động Quân đóng giữ và hi sinh tử thủ nhưng cuối cùng cũng không giữ nỗi, tiểu đoàn phải tháo lui.
- Ngày 27/1/1973, sau 5 năm đàm đàm đánh đánh cả tại đàm trường lẫn chiến trường, hiệp ước Paris được ký kết. Hiệp ước này mặc nhiên xóa bỏ biên giới giữa hai miền Bắc-Nam và cho phép quân Bắc Việt được đóng tại miền Nam. Đồng thời, một phái đoàn Việt Cộng và cờ Mặt Trận được hiện diện tại Tân Sơn Nhất để thỉnh thoảng đại diện Việt Cộng là Võ Đông Giang lại lên án VNCH vi phạm hiệp ước Paris hoặc họp báo quốc tế phỉ báng Việt Nam Cọng Hòa. Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến tê liệt, chỉ riêng phái đoàn Hung Gia Lợi lợi dụng danh nghĩa của Ủy Hội để tuyên truyền ủng hộ cho Việt Cộng, còn Hoa Kỳ thì chỉ có những phản ứng lấy lệ.
Mô tả tinh thần và khả năng chiến đấu của quân lực Việt Nam Cọng Hòa sau khi hiệp ước Paris ra đời và trước sự cắt giảm viện trợ của Mỹ, ông Nguyễn Tiến Hưng, Tổng Trưởng Kế Hoạch và Phát Triển Kinh Tế, cho biết như sau:
Ảnh hưởng việc cắt giảm quân viện là nó đã làm tê liệt hẳn khả năng chiến đấu của quân đội và từ đó làm suy nhược tinh thần kháng cự, yếu tố quan trọng nhất trong bất kỳ chiến tranh nào.
... Như vậy, sự thật rất là hiển nhiên. Hết tiền là hết xăng, hết đạn. Hết xăng thì mấy trăm chiếc máy bay sẽ nằm ụ, tốn tiền bảo trì làm mồi cho pháo kích của địch quân. Hết đạn thì xe tăng, đại pháo trở thành những tấm sắt nặng nề, vô dụng, tốn công canh gác.
Từ trước, thế ưu tiên của VNCH dựa vào ba yếu tố căn bản: lưu động tính của lục quân, oanh tạc, yểm trợ chiến trường, và hỏa lực. Kể từ tài khóa 1973-1974, thế ưu tiên của ta về ba yếu tố kể trên có thể nói là bị mất hẳn...[21]
Cũng kể từ tài khóa đó, tình hình chiến tranh trở nên khốc liệt hơn, tàn phá những nỗ lực kinh tế xã hội tại nông thôn, và đẩy quân lực Việt Nam Cọng Hòa hoàn toàn về thế phòng ngự thụ động. Đồng bào nông thôn bỏ ruộng vườn lũ lượt kéo nhau về thành phố để tránh chết chóc và tàn phá. Hàng triệu người được gọi là “nạn nhân chiến cuộc” tại miền Trung sống lây lất trong chương trình trợ cấp “khai dân lập ấp” của chính phủ do Phó Thủ tướng Phan Quang Đán điều khiển.
Tại các thành phố, tình trạng cũng không lấy gì sáng sủa hơn: vật giá leo thang, đồng bạc mất giá, nạn thất nghiệp gia tăng đẩy cả triệu người vào tình trạng túng quẩn bất an, và biến các thị trấn thành những trung tâm xáo trộn trên mặt an ninh và băng hoại trên mặt xã hội. Miền Nam như một trái bom nằm trong đống lửa mà các sinh hoạt chính trị tại Sài Gòn cũng như các cuộc tấn công của Việt Cộng ven biên Quân khu Thủ đô chỉ như những thùng dầu đổ thêm vào.
Trước tình hình nguy ngập đó, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu làm gì?
Sau ngày đắc cử nhờ “độc diễn”, ông Thiệu đã tuyên bố “sẽ từ chức ngày nào Mỹ ngưng viện trợ cho Việt Nam Cọng Hòa”, lời tuyên bố không những phản ảnh tư cách tay sai của một cá nhân mà còn là những dấu hiệu chuyển biến chính trị của hội nghị Midway trước đó về vấn đề triệt thoái quân Mỹ của Nixon. Đầu năm 1974, khi miền Nam như đứng trên bờ vực thẳm và trước những cuộc đấu tranh chính trị của nhiều giới tại Sài Gòn cũng như trước những tấn công hòa bình của Hà Nội, ông Thiệu tuyên bố “tôi sẵn sàng ra đi nếu việc ra đi của tôi có thể đem lại hòa bình cho Việt Nam”.
Nói thế nhưng không những ông Thiệu vẫn tham quyền cố vị bám lấy chức vụ lãnh đạo miền Nam mà không có một chính sách chính trị hay một sách lược quân sự nào để cứu vãn tình thế hầu giữ vững miền Nam, ông Thiệu còn gạt bỏ những nguyện vọng, đề nghị, yêu cầu, mục tiêu đấu tranh của các đoàn thể nhân dân và chính trị: Chẳng hạn như mở rộng trách nhiệm chính trị để thực hiện đại đoàn kết dân tộc hầu tiến hành một cuộc cách mạng xã hội thực sự để gây lại niềm tin nơi nhân dân; chẳng hạn như mời các tôn giáo, đảng phái hình thành một “Quốc dân Đại hội” để cùng các đoàn thể chia xẻ trách nhiệm hoạch định phương cách cứu nước và để cho kẻ thù thấy một miền Nam đoàn kết sẵn sàng đương đầu với hiểm họa xâm lăng. Hoặc thực tế hơn và nhìn xa hơn, bí mật tổ chức chiến khu tại miền Tây (nơi có lực lượng dân tộc của Hòa Hảo quyết sống mái với Cộng Sản) để nếu mất Sài Gòn thì còn về đó tiếp tục chiến đấu... Nhưng ông Thiệu đã không có một sáng kiến nào ngoài giải pháp quân sự do Mỹ dạy từ gần 20 năm trước. Khối Công giáo hậu thuẫn và cố vấn cho ông Thiệu cũng không có một kế hoạch gì mới lạ mà chỉ ngồi xem ông Thiệu và Mỹ múa may trong một phông cảnh thời cuộc sa đọa. Cứ xem việc Trần Văn Lắm, nhân vật thứ hai của chế độ, khi còn hòa đàm Paris đã tuyên bố “nhìn thấy ánh sáng đầu kia đường hầm”, một thứ ánh sáng do Mỹ và Cộng Sản đang toa rập đổi chác để lừa dối nhân dân miền Nam thì cũng đủ biết kiến thức chính trị và sự vô tâm trước nạn lớn của khối Công giáo như thế nào.
Cũng như anh em Ngô Đình Diệm trước kia, khối Công giáo và ông Thiệu đã không biết quay về với dân tộc, không biết rằng sức mạnh của dân tộc là thứ vũ khí sắc bén nhất trong mọi cuộc chiến tranh mà quá trình lịch sử đã chứng tỏ tính vạn năng của nó trong những lúc Tổ quốc ở vào thế vạn tử nhất sinh. ông Thiệu chỉ biết một con đường, một lối hành xử, là hướng về ngoại nhân. Mỹ cho ăn thì sống, Mỹ không cho ăn nữa thì ta van xin, Mỹ từ chối thì ta từ chức bỏ chạy.
Cho nên sau hòa đàm Ba Lê, năm 1973, ông Thiệu đi Hoa Kỳ để “van xin” Tổng thống Nixon. Nhưng Nixon còn làm gì được khi nhân dân và đất nước ông đang tan nát, phân hóa, và suy sụp vì cuộc chiến Đông dương; khi mà Quốc hội, báo chí và khối áp lực Mỹ-Do Thái đang trói chặt quyền hạn của Hành pháp về vấn đề Việt Nam; và quan trọng nhất, khi mà chính ông và Kissinger là hai người chủ trương quyết tâm rút khỏi miền Nam qua một con ngựa thành Troie là Hiệp ước Ba Lê, để hoàn thành thế chân vạc toàn cầu hòa hoãn với Trung Cộng. Đó là chưa nói đến vụ Watergate ngày càng tạo nên một Nixon tê liệt như cái xác vô hồn. Do đó, tại Hoa Kỳ, ông Thiệu chỉ nhận những lời cam kết hươu vượn và những lời tuyên bố gian xảo của một ông Tổng thống Hoa Kỳ nổi tiếng thủ đoạn và bất lương mà thôi.
Sau Hoa Kỳ, ông Thiệu lại đi Âu Châu và đặc biệt hướng về La Mã, một trung tâm quyền lực chính trị thế giới khác mà cũng là “Đất Tổ Hùng Vương” của khối Công giáo Việt Nam. Nhưng dĩ nhiên Giáo Hoàng Paul VI đã không cho ông Thiệu hội kiến, dù là hội kiến để xưng tội đi nữa. Chức vụ Tổng thống và tư cách con chiên của Thiệu làm sao có thể thay đổi được một nguyên tắc bất di bất dịch của Giáo hội La Mã là bất kỳ Giáo Hoàng nào, dù thiên tả hay cực hữu, dù thân Cộng hay không thân Cộng, thì ông phải lo vấn đề sinh tồn của Giáo hội La Mã toàn cầu với gần 800 triệu tín đồ trước đã. Nếu phải hi sinh sinh mạng của 15 triệu dân miền Nam Việt Nam không Cộng Sản để bảo đảm được sự an toàn và uy tín của Giáo hội La Mã thì không ngại gì mà không hy sinh. Huống gì lập trường của Giáo Hoàng Paul VI về vấn đề chiến tranh Việt Nam là chỉ bênh vực Hà Nội, chỉ muốn chấm dứt chiến tranh dù miền Nam có sống hòa bình dưới chế độ Cộng Sản sắt máu của Hà Nội mà Phan Nhật Nam đã thật sự nghi ngờ trong tác phẩm Tù Binh và Hòa Bình, khi anh uất ức tự hỏi tại sao trong cuộc viếng thăm đầu tiên lục địa Á Châu, vị Giáo Hoàng này đã không đến Việt Nam và Đài Loan là hai quốc gia đang bị Cộng Sản đe dọa, nhất là Việt Nam có tỷ số đông giáo dân thứ nhì tại châu Á. Điều chua xót và tủi nhục là Giáo Hoàng Paul VI chẳng những không tiếp kiến ông Thiệu đàng hoàng mà còn chỉ trích ông Thiệu (xem “Bên Giòng Lịch Sử”, Cao Văn Luận, tr. 346), dù ông Thiệu là một con chiên ngoan đạo. Không tiếp ông Thiệu nhưng Giáo Hoàng lại tiếp bà Nguyễn Thị Bình và ông Xuân Thủy, trưởng phái đoàn Cộng Sản tại Hòa Hội Paris. Khi mà Giáo Hoàng Paul VI đã biến Vatican và nhiều Giáo hội địa phương thành một guồng máy chính trị, ngoại giao, tình báo khổng lồ để giúp Hà Nội tiến chiếm miền Nam (xem “The Life and Times of Francis Cardinal Speellman” của John Cooney trang 292-293 và xem “The Decline and Fall of the Roman Church” của Malachi Martin, trang 232) thì miền Nam Việt Nam phải rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt là lẽ tất nhiên.
Về lại Sài Gòn, dù thất bại trong chuyến đi cầu viện nước ngoài, ông Thiệu cũng vẫn không thay đổi đường lối chính trị, vẫn cứ sử dụng giải pháp quân sự và chỉ dựa theo đường lối giải kết chiến tranh Việt Nam của Hoa Kỳ đã vạch sẵn mà điều khiển quốc gia.
Đầu năm 1975, Việt Nam Cọng Hòa như ngọn đèn lung lay trước gió, mọi nỗ lực đoàn kết để tổng hợp sức mạnh của toàn quân toàn dân hầu cứu nước đều bị chính quyền và tình thế làm tê liệt, các tôn giáo và đảng phái không còn cách gì hơn là tổ chức hoạt động theo lập trường chính trị và điều kiện khả năng riêng của mình. Nói chung, ngoài chính quyền Thiệu và phe nhóm, còn bốn lực lượng lấy bốn thái độ tiêu biểu như sau:
- Thứ nhất, một số lãnh tụ các đảng phái và tôn giáo như Phan Bá Cầm (Hòa Hảo), Trần Quang Vinh (Cao Đài), linh mục Trần Hữu Thanh và Nguyễn Ngọc Hiệu, Thượng Tọa Pháp Tri, các ông Ngô Văn Ký, Nguyễn Văn Lực, Xuân Tùng thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng, Hà Thế Ruyệt (Duy Dân) thành lập Trận Tuyến Nhân Dân Cách Mạng. Mặt trận này kêu gọi ông Nguyễn Văn Thiệu từ chức và các phe liên hệ chấm dứt chiến tranh, giải quyết vấn đề miền Nam bằng phương thức hòa bình.
- Thứ hai là song song với Trận Tuyến đó, khối chính trị của khuynh hướng Phật giáo Ấn Quang thành lập Lực Lượng Thứ Ba với chủ trương Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc do tướng Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu cầm đầu để tìm cách thương thảo với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam .
Lập trường chính trị cơ bản của Phật giáo là cổ xúy cho một nước Việt Nam có chính sách ngoại giao trung lập theo kiểu Miến Điện, Ấn Độ, Nam Dương và đứng trong khối các quốc gia phi liên kết như đã đề cập trong một chương trước. Quan niệm về chiến tranh của Phật giáo là lực lượng quốc gia thân Mỹ không thể thắng nổi lực lượng Cộng Sản thân Nga-Tàu bằng giải pháp quân sự, mà chứng cớ là 10 năm dưới quyền người Pháp với chế độ Bảo Đại đất nước bị chia đôi, 10 năm dưới chế độ Ngô Đình Diệm, Cộng Sản vẫn lấn áp thôn tính gần hết nông thôn đến nỗi anh em ông Diệm phải bắt tay với Cộng Sản để cầu hòa. Và kể từ 1963 đến 1974, dù giải pháp quân sự đã được sử dụng tối đa với sự tham dự của nửa triệu quân Mỹ và những kỹ thuật tàn phá tân tiến nhất của một đại cường, phía quốc gia vẫn thất bại trên cả chính trường lẫn chiến trường, quốc nội lẫn quốc ngoại.
Con đường duy nhất để cứu lấy miền Nam là phải thoát ra khỏi hai cái gọng kềm oan nghiệt của chiến tranh và sự tham dự của ngoại bang. Vì gọng kềm chiến tranh tiêu diệt ngay sự sống còn của nhân dân và đất đai miền Nam đã kiệt lực và hao mòn; gọng kềm ngoại bang duy trì và phát triển tình trạng mâu thuẫn kịch liệt giữa những phe đối kháng người Việt.
Con đường đó đã được Thượng tọa Thích Nhất Hạnh công khai hóa một cách minh nhiên trong Lời Kêu Gọi Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam nhân ngày 1-11 sau đây:
Đây là những lời tôi trực tiếp kêu gọi những người anh em của tôi trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Lời nầy tiếp theo lời tôi kêu gọi những vị lãnh đạo tôn giáo, nhân bản, trí thức của tất cả các nước, yêu cầu họ tố cáo mọi ý muốn kéo dài chiến tranh trên lãnh thổ Việt Nam của Mỹ quốc và khối Cộng Sản. Ngày Quốc khánh 1-11 có giá trị tượng trưng cho sự cộng tác của mọi người Việt trong chiến đấu chống Độc Tài, trong tinh thần Cách Mạng và trong ý chí Tự Quyết của Dân Tộc, dù những người Việt này có trong Mặt Trận hay không. Tôi mong có cơ hội kêu gọi sự cộng tác của tất cả những người Việt yêu nước, một sự cộng tác rất cần thiết trong cuộc tranh đấu cho Hòa Bình và Độc Lập nầy. Vì thế nên không có lý do gì để anh em một nhà chém giết lẫn nhau. Có những người Việt Nam theo Mặt Trận Giải Phóng vì họ tin chắc rằng Mặt Trận đang tranh đấu cho nền Độc Lập quốc gia. Cũng có nhiều người Việt Nam khác không chấp nhận Mặt Trận bởi vì họ nghi ngờ Mặt Trận có thể dẫn dắt xứ sở vào con đường Cộng Sản. Sự đau lòng này ngày càng gia tăng bởi chiến tranh tiếp tục kéo dài: Hiệp Chủng Quốc càng tiếp tục gia tăng quân đội và khí giới thì Mặt Trận Giải Phóng càng buộc lòng hướng dần về khối Cộng Sản để đủ sức chống lại với Mỹ Quốc. Và vì thế Mặt Trận càng dễ trở thành khí cụ của khối Cộng Sản.
Tôi chống chính sách Mỹ bởi vì chính sách này đã vi phạm chủ quyền Việt Nam, đã trực tiếp xen vào sự chém giết người Việt.
Tôi cũng chống những ý muốn của khối Cộng Sản dùng lòng ái quốc của những người Việt để phục vụ cho ý thức hệ của họ.
Nhưng tôi kính trọng những người Việt Nam yêu nước đã gạt ra ngoài mọi ý hướng để thành thật tranh đấu cho Hòa Bình, Độc Lập và quyền Tự Quyết của Dân Tộc.
Tôi thiết tha kêu gọi những người anh em của tôi trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam hãy nhận chân được sự hiện diện của những người anh em mình, dù không ở trong Mặt Trận nhưng cũng yêu nước như mình, đang chống Cộng nhưng cũng chống chính sách của những người Mỹ tại Việt Nam. Họ đang tìm mọi dịp mà họ có thể để thiết lập đối thoại, để hợp tác và thống nhất đất nước, gạt ra ngoài vấn đề ý thức hệ vì mục đích chung: sự tự quyết của dân tộc. Sự kiện trên sẽ giúp cho dân tộc ta tránh được hai điều: tránh cho Mặt Trận khỏi bị thao túng bởi khối Cộng Sản, và chấm dứt một cách hữu hiệu sự can thiệp của Hiệp Chủng Quốc vào nội bộ Việt Nam, chấm dứt sự vi phạm quyền tự quyết của dân tộc.
Sự đối thoại và hợp tác giữa các nhóm ở Nam Việt Nam sẽ có kết quả chắc chắn là thiết lập và bảo đảm một nền trung lập chân thật cho Nam Việt Nam, dẹp được mọi ảnh hưởng đến từ người Mỹ cũng như từ khối Cộng Sản và thực hiện Hòa Bình mà dân tộc Việt quá khát khao.
Tôi cũng thiết tha kêu gọi tất cả chúng ta sớm hành động như thế nào để kịp thời tránh sự đe dọa tàn phá hoàn toàn đất nước bởi quân đội Mỹ và tránh sự xâm nhập của khối Cộng Sản vào hàng ngũ chúng ta.
Chỉ có sự hợp sức của những người Việt không Cộng Sản và Mặt Trận là có thể dẫn xứ sở ra khỏi tình trạng hiểm nguy này.
Tôi cầu nguyện cho tình thương được thể hiện giữa những người anh em trong nước. Cầu nguyện cho tất cả người Việt thực hiện tương lai và sự sống còn của dân tộc mình không tùy thuộc vào Hiệp Chủng Quốc, không tùy thuộc vào Liên Bang Sô Viết hay Trung Hoa mà chỉ tùy thuộc vào sự hợp tác của chính những người Việt. (Trích “Hoa Sen Trong Biển Lửa”, Phụ lục, ấn bản 1966)
Để thực hiện con đường khó khăn đó và để bảo đảm có thể phá vỡ những lệ thuộc quá chặt chẽ của lực lượng Việt Cộng vào khối Cộng Sản quốc tế, Phật giáo Việt Nam đã vận dụng đến sức mạnh cuối cùng của Tổ quốc: Dân tộc Việt Nam! Với một đại khối quần chúng đông đảo đã quá sợ hãi những hủy diệt của chiến tranh do cả hai phía gây ra, đã dửng dưng chai đá với mâu thuẫn “Cộng Sản-Quốc gia”, đã thiết tha ước mơ một cuộc sống Tự do và Công bằng trong Hòa bình từ 30 năm nay, Phật giáo Việt Nam đề nghị một sinh lộ và kêu gọi một nỗ lực cuối cùng: Lấy sức mạnh của Dân tộc để Hóa giải tranh chấp của quá khứ, Hòa giải các phe đối nghịch trong hiện tại, và Hòa hợp để sống trong Hòa bình tương lai mà mô thức chính trị quốc gia có thể là Dân chủ Xã hội Phi liên kết.
Sinh lộ và nỗ lực đó là những sáng kiến chính trị độc đáo và thực tế phát xuất từ cái sơ hở may mắn duy nhất mà Hà Nội và Mỹ, khi cấu kết với nhau qua Hiệp định Ba Lê đã không thấy: quy định sự hiện diện của một Lực Lượng Thứ Ba trong thế tranh chấp của hai lực lượng khác là chính quyền Việt Nam Cọng Hòa và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
- Thứ ba là lực lượng Cao Đài với chủ trương Trung lập Độc lập, đứng ngoài cuộc tranh chấp Quốc-Cộng, tuyên bố biến khu vực Tòa thánh Tây Ninh thành khu phi chiến, yêu cầu các phe liên hệ tôn trọng hiệp ước Balê và bảo đảm an toàn cho dân chúng tị nạn tại Tòa Thánh Thất.
Sở dĩ Cao Đài có một chủ trương riêng biệt như thế vì từ khi đất nước bị chia đôi theo Hiệp định Genève 1954, giáo chủ Phạm Công Tắc đã chủ trương một nước Việt Nam Hòa bình Trung lập (cũng giống như chủ trương của Phật giáo). Khi ông bị chính quyền Ngô Đình Diệm khủng bố phải trốn qua Cao Miên thì trong số 12 hệ phái Cao Đài tại miền Nam Việt Nam, 11 hệ phái đã chẳng những bỏ chủ trương chống Cộng mà còn hợp tác với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Chỉ còn một hệ phái giả vờ theo chính phủ để bảo vệ lấy Thánh Thất Cao Đài và để tín đồ khỏi bị khủng bố. Sự kiện này giáo sư Douglas Pike đã phân tích rõ trong tác phẩm Vietcong. Vì thế cho nên năm 1975, trước tình trạng thảm bại của Việt Nam Cọng Hòa và khi chiến tranh gần kết thúc, Cao Đài mới công khai tỏ rõ lập trường thân với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Thật ra không phải Cao Đài theo Cộng Sản, nhưng vì chế độ Diệm đã không mở rộng vòng tay đoàn kết mà chỉ đẩy họ vào chân tường với lối thoát duy nhất là cánh cửa mời đón của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (một cánh cửa không bị kỳ thị Nam-Bắc và không bị kỳ thị tôn giáo) dù Cao Đài vốn là một lực lượng quốc gia từng bị Việt Minh sát hại vì đã hậu thuẫn cho chính sách chống Cộng của Cựu Hoàng Bảo Đại.
- Cuối cùng, thứ tư, là lực lượng Hòa Hảo, một lực lượng mạnh mẽ và quyết liệt chống Cộng, xuất sinh từ lòng dân tộc, bám vào ngọn rau tấc đất của cha ông trong mọi thời thế đảo điên để giữ nước giữ dân. Phật giáo Hòa Hảo từ nội dung tôn giáo đến triết lý hành động đều lấy Tứ Ân làm khuôn thước chỉ đạo nên họ có một số lượng quần chúng đông đảo tại miền Tây, và một tiềm lực võ trang với kinh nghiệm chống Cộng rất hữu hiệu và thực dụng. Nhưng bất hạnh thay, hết chế độ Diệm lại đến chế độ Thiệu thay nhau tìm cách phân hóa và làm suy yếu họ (kể cả việc tước khí giới của Tổng đoàn Bảo an vào những tháng cuối cùng của miền Nam), cho nên khi nhìn tình hình an ninh càng lúc càng nguy ngập, họ không biết làm gì hơn là chấn chính hàng ngũ để chuẩn bị một cuộc đấu tranh chính trị với Cộng Sản khi giải pháp Ba Thành Phần của Hiệp định Balê thành hình.
Như vậy, ta thấy vào những ngày cuối cùng của Việt Nam Cọng Hòa, có năm khuynh hướng chính trị rõ rệt tại miền Nam Việt Nam:
- Khuynh hướng mù quáng nương dựa vào người Mỹ (cho đến phút chót) của chính quyền do khối Công giáo lãnh đạo với hy vọng hão huyền về một sự can thiệp bằng quân sự của Mỹ để đảo ngược tình hình, hoặc về một giải pháp chính trị chia miền Nam thành hai phần như năm 1954 trước đây.
- Khuynh hướng thay thế chính quyền Nguyễn Văn Thiệu bằng một chính quyền trong sạch của đa số các đảng phái, để tiến hành việc chống Cộng hoặc hòa với Cộng trong một tư thế đấu tranh chính trị thuận lợi hơn.
- Khuynh hướng thực tiễn và lâu dài của Phật giáo đặt căn bản trên hòa ước Balê, hiện thực đất nước cũng như tình hình quốc tế, nhằm vận động toàn lực nhân dân và bảo đảm quốc tế để tranh thủ và củng cố hòa bình hầu đủ sức sống chung với Cộng Sản.
- Khuynh hướng xuất thế chính trị của Cao Đài, đứng ngoài mọi tranh chấp để bảo toàn chủ lực, độc lập nhưng chấp nhận hậu quả của thời cuộc để duy trì sự sống còn của tôn giáo Cao Đài.
- Khuynh hướng đấu tranh quyết liệt với Cộng Sản dưới một hình thái khác, dù cuộc chiến tranh chấm dứt và dù miền Nam biến dạng dưới hình thức nào mà tiêu biểu là lực lượng Hòa Hảo.
Năm khuynh hướng đó, mà 4 khuynh hướng sau đã can đảm và thực tế nhìn được sự chấm dứt tất yếu của chiến tranh Việt Nam nên chỉ tìm những phương thế đấu tranh cho thời kỳ hậu chiến, đã chi phối toàn diện sinh hoạt chính trị của miền Nam trong những tháng cuối cùng. Dù đến những ngày mà Bắc quân đã đánh thủng mọi phòng tuyến bảo vệ cứ điểm cuối cùng của chế độ Cộng Hòa là Sài Gòn, Cao Đài có lên tiếng ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, thì lời ủng hộ đó cũng chỉ là bề ngoài, không phản ánh đích thực lý tưởng và truyền thống chống độc tài của nền Đại đạo Tam kỳ Phổ độ. Cũng vậy, trong những ngày cuối cùng đó, dù một Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình có lên tiếng yêu cầu ông Thiệu từ chức, một Trần Văn Lắm chủ tịch của Thượng viện Công giáo có ra nghị quyết lên án ông Thiệu “lạm quyền tham nhũng và chịu trách nhiệm về mọi thất bại”, không tiêu biểu được nội dung thực sự của Lực lượng Công giáo đã có truyền thống cấu kết với chính quyền tại vị để độc quyền chống Cộng và độc quyền thụ hưởng.
Nhưng ngoài năm khuynh hướng quốc gia không Cộng Sản đó, còn có một khuynh hướng thứ sáu của những nhóm phản chiến, ngụy hòa và thân Cộng, lợi dụng sự hỗn loạn của tình hình và sự thiếu đoàn kết của các lực lượng trên để ráo riết hoạt động giúp Cộng Sản đoạt thắng lợi mau chóng. Đó là:
- Nhóm của luật sư Nguyễn Long.
- Nhóm của bà Ngô Bá Thành, một trí thức Việt Nam được người Mỹ trọng vọng.
- Nhóm của ni sư Huỳnh Liên. (Ni sư Huỳnh Liên, ni sư Mạn Đà La và Đại Đức Thích Thiện Châu tại Pháp đã theo Cộng từ lâu rồi và đã bị Phật giáo Ấn Quang âm thầm khai trừ. Tại Pháp, Đại đức Thích Thiện Châu ra mặt chống đối Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh và ông Võ Văn Ái, một nhân sĩ Phật giáo).
- Nhóm Đối Diện của 11 linh mục phản chiến Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Phan Khắc Từ, Nguyễn Hữu Khai, v.v... mà trong mấy tháng cuối cùng, nhóm linh mục này đã lợi dụng các buổi thuyết giảng tại các nhà thờ để công khai tuyên truyền cho “người anh em bên kia” không còn e ngại, dấu diếm gì nữa.
- Nhóm Thanh Lao Công của linh mục thân Cộng Trương Bá Cẩn.
- Ngoài ra còn có những sinh viên thân Cộng đội lốt Phật tử mà tiêu biểu là Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Hữu Thái đã xâm nhập vào Ấn Quang hoạt động nhị trùng có lợi cho Cộng Sản.
Khốn nỗi, những hoạt động phá rối của những nhóm thân Cộng vừa kể trên chỉ bị ông Nguyễn Văn Thiệu dùng những biện pháp cảnh sát thông thường để ngăn cản mà không bị triệt hạ, trong khi ông Thiệu lại gắt gao tấn công những người quốc gia chống đối ông. Ông Thiệu lại ra lệnh bắt giam một số chính khách, trí thức như Nghị sĩ Thái Lăng Nghiêm, Phạm Nam Sách, Nguyễn Văn Chức, các ông Hà Minh Lý, Trần Thúc Linh và một số ký giả trong đó có những nhân vật nổi tiếng chống Cộng như các ông Mặc Thu, Lê Trần, Vũ Bằng, Đinh Từ Thức, Trương Cam Vĩnh, Ngô Đình Vận...
Nhưng rồi việc phải đến đã đến!
Kết quả tích lũy trong cái nhân từ cả trăm năm trước, từ khi quân Pháp xâm lăng nước ta, từ khi các ông Cố đạo gây chia rẽ lương giáo, từ khi ông Hồ Chí Minh thành lập đảng Cộng Sản Đông Dương, từ khi ông Ngô Đình Diệm được Mỹ bồng về nước, từ khi cuộc Cách mạng 1-11-1963 bị phản bội, từ khi nhóm Cần Lao Công Giáo biến chế độ Thiệu thành một chế độ Diệm không Diệm... bây giờ thành hình với tất cả oan nghiệt của lịch sử và thống khổ của dân tộc vào những ngày cuối cùng của mùa Xuân miền Nam.
Đêm 25 tháng 4 năm 1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Thủ tướng Trần Thiện Khiêm được CIA đưa lên phi cơ của Mỹ trốn đi Đài Loan. Ngày 28, Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng của quân đội là Cao Văn Viên cũng bỏ quân đội lén lút trốn ra tàu chiến của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ. Tuyến phòng thủ quanh Thủ đô đã vỡ, Sài Gòn nằm trong tầm tác xạ của trọng pháo địch, một số phi cơ F5 và A37 của Không lực Việt Nam Cọng Hòa đã bay qua căn cứ U-Tapao của Mỹ tại Thái Lan, dân chúng thủ đô bồng bế nhau chạy loạn về Rạch Giá, ra Vũng Tàu, xuống Cần Thơ để tìm phương lánh nạn.
Số phận của VNCH đã được định đoạt mà giờ hấp hối đang bắt đầu. Chỉ tội nghiệp cho tướng già Dương Văn Minh và hai nhà trí thức Vũ Văn Mẫu và Nguyễn Văn Huyền vẫn còn thơ ngây để phải làm những nạn nhân cuối cùng của chế độ Cộng Hòa chống Cộng.
Năm giờ chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975, trong khi tại dinh Độc Lập tướng Dương Văn Minh làm lễ nhận chức Tổng thống thì bên ngoài cơn mưa đầu mùa ào ạt đổ xuống Sài Gòn trong lúc hai phi cơ Cộng Sản (lấy được của Không quân Việt Nam Cọng Hòa) bắn phá thủ đô. Việc này làm tôi nhớ lại cũng tháng 4 năm 1945, khi chính phủ Trần Trọng Kim ra mắt đồng bào tại Huế thì trên nền trời Cố Đô cũng có hai phi cơ lạ bay lượn và thả xuống hai cái thùng rỗng trên sông Hương. Hai hình ảnh lịch sử thuộc hai giai đoạn khác nhau nhưng cũng mang chung một ý nghĩa: Hai kẻ thù của dân tộc (Cộng Sản và Thực dân Pháp) đều báo trước cho phe quốc gia biết là họ sẽ không chấp nhận cho các chính phủ quốc gia tồn tại khi họ đã biết nắm được tình hình.
Đêm đó, phi trường Tân Sơn Nhất bị trọng pháo bắn phá, và sáng 29, Cộng quân tiến vào ngoại ô Sài Gòn, để rồi khép chặt gọng kềm quanh toàn bộ lãnh địa Thủ đô Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định lúc mờ tối.
Với một Lữ đoàn Dù và một Chiến đoàn Thiết Giáp mà quân số tổng hợp không đến 2000 người, cái quân-đội-VNCH-hai-ngàn-chiến-sĩ đó đã là những quân nhân cuối cùng, cầm súng 24 tiếng đồng hồ nữa, đối diện với kẻ thù 30 năm truyền kiếp để cho quân-dân-chính miền Nam ai có ý định, ai có cơ hội, và ai có phương tiện thì tìm phương trốn thoát ra nước ngoài.
Họ lên phi cơ trực thăng của Mỹ tại các cao ốc, phóng xe Honda đèo bòng vợ con của cải chạy ra bến Bạch Đằng, Khánh Hội, Nhà Bè, Cát Lái... Cầu Tân An bị giật sập và Quốc lộ số 4 về miền Tây bị tắt nghẽn với hàng chục ngàn chiếc xe đủ loại đậu dài từ Mỹ Tho về đến phà Cầu Sơn... Sài Gòn rã rời trút hơi thở cuối cùng, dân miền Nam như đàn ong vỡ tổ bay ra biển, về đồng quê, hay ngơ ngác nhìn đất nước biến loạn thay ngôi đổi chủ.
Quân đội tan rã, nhân dân chỉ muốn chấm dứt chiến tranh, các đảng phái tôn giáo quốc gia chia rẽ, nhiều phần tử chống Cộng đã bỏ nước ra đi từ trước theo chương trình di tản của Mỹ, đồng minh đã bất đắc dĩ giải kết, số quân Cộng Sản tại miền Nam là 20 Sư đoàn và Thủ đô Sài Gòn bị khóa chặt, nên sau một ngày điều đình với Việt Cộng, 10 giờ sáng ngày 30 tháng 4, tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Ba mươi năm trời chống Cộng, ba mươi năm trời người quốc gia chịu cảnh núi xương sông máu, từ đây miền Nam và cả Việt Nam sẽ sống dưới chế độ chuyên chính toàn trị của Cộng Sản Hà Nội.
Trôi nổi theo đoàn người tỵ nạn, gia đình tôi rời Sài Gòn sáng ngày 29 tháng 4, đến căn cứ nhà Bè thì được giúp cho một chiếc tàu LCVP để xuống Cần Giờ. Tình cờ tại nhà Bè lại có hai linh mục Bình và Quan đang bị một vị Thiếu tá nhất định không cho hai ông lên tàu, cho đến khi tôi hết lời can thiệp hai ông mới được tháp tùng theo gia đình tôi xuống tàu đi cùng.
Đến Cần Giờ đã gần tối nên bị Thiết quân luật, tôi bèn khuyên hai linh mục nên nhờ nhà thờ ở đó giúp đỡ cho hai ông ra đi vì gia đình tôi quá đông mà không có phương tiện, nhưng hai linh mục vẫn xin đi theo với chúng tôi. Sáng hôm sau, nhờ Thiếu úy Nguyễn Hữu Trà (hiện nay ở Lancaster, bang Pensylvania và đang hoạt động với tướng Nguyễn Chánh Thi) thuê được chiếc xe Lambretta để tất cả chúng tôi cùng về Đồng Hòa thuê thuyền qua Gò Công. Lúc thuyền đang lênh đênh trên sông Vàm Láng thì gặp một đoàn tàu của Hải quân từ hướng Long An chạy ra biển. Bỗng nhiên đoàn tàu ngừng lại và tụ tập quanh soái hạm của Hải quân Trung tá Sơn để tính chuyện ai ở ai đi. Nhân đó, hai ông linh mục bèn lên một chiếc tàu, trên đó có một Trung tá Bộ binh tên Bùi Văn Nhơn, hai Đại úy Tốt và Đang, và độ 5, 7 binh sĩ đàn em của Trung tá Nhơn. Tôi vì bận bịu với gia đình nên lên sau. Vừa thấy tôi, Trung tá Nhơn, người Công giáo Quảng Bình rút súng lục ra chỉ mặt tôi và nói: “Ông này là Thiếu tướng Mậu, vì các ông đảo chánh cụ Diệm nên chúng tôi mới khổ sở như thế này. Ông hãy xuống ngay khỏi tàu tôi, chúng tôi không cho ông đi theo. Và chúng tôi không đi đâu hết, chúng tôi sẽ ở lại lập chiến khu để tiếp tục chiến đấu”. Tôi biết ông Nhơn là bộ binh không có quyền gì trên chiếc tàu của Hải quân cả, tôi cũng biết ông Nhơn sẽ không ở lại để tiếp tục chiến đấu, nhưng tôi nói: “Lúc này mà anh còn làm khó dễ với tôi sao anh Nhơn?” Rồi tôi quay lại phía hai linh mục, khuyên hai ông nên xin ông Nhơn mà đi còn tôi thì trở về thuyền. Nhưng chỉ một lúc sau, không biết họ thảo luận với nhau như thế nào mà ông Nhơn bèn mời tôi trở lại để cùng đi.
Sau sáu ngày đêm vượt biển mà các con tôi lo phần vụ hải hành vì trên tàu chẳng có ai có một ý niệm gì về vùng vịnh Xiêm La cả, và sau hai lần thay tàu vì chiếc LCVP không phải là thứ tàu đi biển, chúng tôi đến được cảng Sattahip, Thái Lan. Một phó Đô đốc Hải Quân Thái Lan nghe tin có tôi đến nên ra đón và cho chở nhóm của tôi về ngay trại tỵ nạn trong lúc nhiều nhóm di tản khác đến trước mà vẫn chưa được phép lên bờ (trong đó có nhóm đi thuyền của Đại tá Cảnh sát Lê Cảnh Vệ hiện ở Texas).
Đến trại tỵ nạn chỉ mới độ mươi ngày thì tôi là người độc nhất được Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Bangkok lo thủ tục đi Mỹ trước, nhưng cũng vì vậy mà tôi bị những phần tử Công Giáo Cần Lao tại ngay Hoa Thịnh Đốn chống phá (sau nhờ Đại tá Nguyễn Bé tôi mới biết được sự kiện này) nên đã bị kẹt hơn năm tháng mới được ra đi. Còn ông Nhơn, lần phỏng vấn đầu tiên ông ta không đủ tiêu chuẩn, nên chưởi bới ồn ào, thề không bao giờ đi Mỹ nữa, nhưng rồi sau đó, nhờ phái đoàn khác tới phỏng vấn nên ông ta lại xin đi định cư tại Hoa Kỳ sau 7 tháng ở tại trại tỵ nạn Thái Lan.
Sự việc như vậy, với những nhân chứng còn sống (kể cả hai vị linh mục) thế mà sau khi cuốn Hồi ký Việt Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi của tôi ra đời (ấn bản 1986), để phụ họa với chiến dịch bôi lọ của tờ Văn Nghệ Tiền Phong, ông Nhơn lại đăng bài bóp méo sự thật, xuyên tạc tôi đã lạy ông ta để được lên tàu. Ông ta còn viết rằng: “Tôi xin xác nhận một lần nữa, tôi không hề quen biết Thiếu tướng Đỗ Mậu, cũng chẳng có thù oán cá nhân gì đối với ông ta” dưới một đề tựa hạ cấp đầy oán thù: “Thêm một thành tích lạy nữa”!
Không biết khi đọc những lời vu khống trắng trợn đó của ông Nhơn, Thiếu úy Nguyễn Hữu Trà và hai Đại úy Tốt và Đang có thấy hổ thẹn cho người đồng đội của mình không? Và hai linh mục Bình và Quan có thấy nhục nhã cho người đồng đạo của mình không?
-o0o-
Về quyết định đầu hàng của tướng Dương Văn Minh, tôi đã nghe hoặc đọc được rất nhiều luận cứ và phê phán tại hải ngoại. Tùy trình độ hiểu biết, tùy vị trí phân tích, và tùy động cơ phê phán mà mỗi người trình bày một cách khác nhau, nhưng tựu chung chỉ có hai loại: Một loại của khối Cần Lao Công Giáo cố tình đồng hóa Dương Văn Minh với Phật giáo để cùng một lần bôi nhọ hai kẻ thù đã lật ông Diệm của họ: Dương Văn Minh phản quốc, Dương Văn Minh hèn nhát, Dương Văn Minh thân Cọng, Dương Văn Minh ngây thơ, Dương Văn Minh là kẻ thù của phe quốc gia chống Cộng... Loại thứ hai dè dặt hơn và nghiêm chỉnh hơn vì lịch sử của cuộc chiến Việt Nam chưa chấm dứt cũng như mọi bí ẩn chưa được tiết lộ nên nhận định của họ khách quan hơn.
Cũng có người như ông Phạm Kim Vinh, một cựu sĩ quan đã xin giải ngũ từ năm 1958 để về Sài Gòn học đại học và viết báo với bút hiệu Trương Tử Phòng, đã thấy vấn đề phê phán Tướng Dương Văn Minh rất phức tạp làm ông rất lúng túng khi viết về vị tướng này đến nỗi hai bài ông viết hoàn toàn mâu thuẫn nhau:
Trong tác phẩm “Những Bí ẩn Về Cái Chết Của VNCH”, trang 157, ông đã viết:
Làm chính trị tài tử và chơi hoa lan thì được phép ngây thơ. Nhưng đã nắm vận mệnh dân tộc mà ngây thơ thì lịch sử không thể tha thứ được. Điều đáng phàn nàn hơn nữa là ông Dương Văn Minh đã làm ô nhục màu quân phục của người lính VNCH.
Nhưng trong bài “Sự sụp đổ của Sài Gòn năm 1975”, đăng trong tập san Hồn Việt Xuân Bính Thìn (tr. 9), cũng cùng một đối tượng, ông Phạm Kim Vinh lại đánh giá khác:
Nên thẳng thắn nhìn nhận công lao của tướng Dương Văn Minh. Những gì mà công ty Thiệu-Khiêm tàn phá tại miền Nam trong 10 năm qua thì tướng Dương Văn Minh đã cứu được trong hai ngày ngắn ngủi cầm quyền. Không thể là anh hùng dân tộc thì ít ra ông cũng chọn được con đường tránh sự chết chóc cho người dân miền Nam, vì trước sau đường lối chống Cộng của Mỹ tại miền Nam cũng sẽ làm cho miền Nam rơi vào tay Cộng Sản.
Ông Phạm Kim Vinh quả thật đã không biết tướng Dương Văn Minh đầu hàng quân địch là “làm ô nhục màu quân phục của người lính VNCH” hay hành động đó đã “cứu vãn được những gì Thiệu-Khiêm đã tàn phá trong 10 năm... để tránh sự chết chóc cho người dân miền Nam” trước một tình trạng mà đất miền Nam thế nào “cũng sẽ rơi vào tay Cộng Sản”.
Lại có người như ký giả Pháp Jean Larteguy, một ký giả kỳ cựu của hai cuộc chiến tranh Đông Dương và đã có mặt tại miền Nam trước, trong và sau khi Sài Gòn thất thủ, thì lại khẳng định rõ ràng trong tác phẩm L’Adieu à Saigon rằng tướng Dương Văn Minh vì thật sự sợ Sài Gòn trở thành biển máu nên đành chịu đầu hàng.
Còn giáo sư Sử học Nguyễn Khắc Ngữ thì cẩn thận mô tả và lý luận bằng những phương pháp sử học một cách vô tư chứ không vội kết luận ngay vì ông không có hậu ý cũng như không bị những áp lực chính trị nào:
Nếu Dương Văn Minh được Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương nhường chức sớm hơn thì còn có thể nói chuyện điều đình, chứ với tình thế này, Việt Cộng đã nắm chắc phần thắng trong tay, dễ gì họ chịu điều đình.
Thật ra, Dương Văn Minh và phe thứ ba cũng không tin rằng họ có thể nắm được quyền thực sự vì khi chính phủ “Ba Thành Phần” ra đời, họ sẽ bị Cộng Sản chi phối ngay, nhưng ông cũng nghĩ rằng còn nước còn tát, nếu chính phủ “Trung lập” ra đời thì ít ra người quốc gia còn có ít nhiều ảnh hưởng còn hơn là tiếp tục đánh nhau rồi lại bại trận hoàn toàn.
Ông cũng hy vọng rằng trong thời gian chuyển tiếp này, những người không Cộng Sản sẽ có thời gian chuẩn bị đời sống mới để khỏi bỡ ngỡ nếu đột nhiên Cộng Sản chiếm được miền Nam.
Ông cũng hy vọng với thời gian chuyển tiếp này nhà cầm quyền miền Bắc có thể thay đổi đường lối chính trị hiện nay bằng cách áp dụng một chính sách mềm dẻo hơn [22].
Về phần tôi, vốn đã có thời theo dõi tư cách và hoạt động của tướng Dương Văn Minh, đã phục vụ dưới quyền ông, đã bao phen cùng ông chia xẻ vui buồn trong những bước thăng trầm của đất nước, lại có chút tâm tư tìm hiểu thêm tình hình đất nước nên không giám và cũng không muốn phê phán mà chỉ xin có mấy lời riêng tư chia xẻ tâm sự với bậc đàn anh, người đã mang số mạng may ít rủi nhiều, và đã bao lần bỏ lỡ những cơ hội cứu nước cứu dân.
Tháng 4 năm 1975, tướng già Dương Văn Minh, người anh hùng Rừng Sát và anh hùng Cách mạng 1963 Việt Nam, đã bất đắc dĩ tái diễn tấn tuồng đầu hàng của tướng già Pétain, người anh hùng Verdun nước Pháp vào năm 1940. Có khác chăng là Pétain sau khi đầu hàng giặc còn bị bắt buộc phục vụ cho quân xâm lăng hơn 4 năm trời, còn Dương Văn Minh thì sau khi đầu hàng trở thành người dân tầm thường trong chế độ mới của kẻ thù, một kẻ thù vốn cũng là đồng bào một giống.
Hành động đầu hàng của tướng Dương Văn Minh cũng giống như hành động dâng ba tỉnh Nam Kỳ cho Pháp hơn 100 năm trước đó của vị quan già Phan Thanh Giản, nơi quê hương của tướng Minh. Dương Văn Minh đầu hàng vì Nguyễn Văn Thiệu đã để lại cho ông một quốc gia thế cùng lực kiệt, còn Phan Thanh Giản đầu hàng vì triều đình Tự Đức mục rã, thế giặc hung hăng. Lòng yêu nước có thừa mà can trường cũng không phải thiếu, nhưng cả bậc tiền nhân lẫn người hậu bối đều phải bó tay đầu hàng thời cuộc: một ván cờ tàn mà tốt của kẻ địch đã nhập vào cung lộng hành.
Tuy nhiên, cụ Phan Thanh Giản sau khi đầu hàng thì uống độc dược mà quyên sinh hầu đem tấm lòng sắt son báo đền ơn nước; còn tướng Dương Văn Minh sau khi đầu hàng lại vẫn chơi quần vợt và chơi hoa lan, lại vẫn tham dự các cuộc bầu bán, bỏ phiếu gian lận của Cộng Sản để bị nhân dân chê trách. Có ai biết được nỗi lòng của Dương Văn Minh đâu, nỗi lòng của kẻ ách giữa đàng đem quàng vào cổ, để sau đó phải giả dạng qua ải che mắt kẻ thù. Tâm sự của Dương Văn Minh có khác nào tâm sự của kẻ sống thừa, sống mà như đã chết:
Sống xác thừa chết cũng xương tàn,
Câu tâm sự gởi chim ngàn cá biển.
Đại bàng gẫy cánh Phan Bội Châu sống những ngày tàn bên đồi Bến Ngự nhìn non sông nằm trong tay giặc Pháp mà máu lệ tuôn trào, đành phải nêu lên thuyết “Pháp-Việt đề huề” mong gởi gấm tâm sự lại cho đời sau.
Nói cho cùng thì có phải chỉ một mình Dương Văn Minh đầu hàng đâu, những kẻ bỏ nước ra đi trước hay sau ngày 30 tháng 4 cũng là những kẻ đầu hàng. Kẻ đã có lần sát cánh với Dương Văn Minh mang hoài bão thay đổi một cuộc cờ, nay phải sống xa lìa cố quận cũng là kẻ đầu hàng, cũng gởi tâm sự cho chim ngàn cá biển. Nhưng chim núi Hoành và cá sông Linh xa ngái lắm cá chim ơi!
-o0o-
Từ miền đất xứ người nhìn về quê hương xa xăm để hồi tưởng lại chuỗi lịch sử 30 năm cuồn cuộn đưa đến ngày 30/4 tang thương thì rõ ràng trước một kẻ thù bền bỉ, thủ đoạn lại có một hậu thuẫn lớn như đảng Cộng Sản Việt Nam, và với một đồng minh bất nhất và chủ quan như chính quyền Hoa Kỳ, người Việt miền Nam cuối cùng phải thua trận là đúng rồi. Đúng không phải chỉ vì địch mạnh bạn yếu mà chính vì chúng ta, toàn bộ những người Việt quốc gia chống Cộng, ở thế nhân dân hay đã nắm chính quyền, ở chức vụ lãnh đạo hay thừa hành, trong sạch hay thối nát, dấn thân hay trùm chăn, chủ động hay bị động... đã không biết làm thế nào để đoàn kết tụ lực thành một sức mạnh tổng hợp duy nhất, dù ai cũng biết không đoàn kết thì không sống sót nổi !
Như vậy, miền Nam thất bại là vì tất cả chúng ta chứ không vì ai hết !
Kết luận khắt khe đó tuy thiếu sự khúc chiết lịch sử nhưng lại có sự cần thiết chính trị ở giai đoạn hậu 75 trong hàng ngũ những người Việt Nam tại hải ngoại, để băng bó lại vết thương của 30 năm phanh thây xẻ thịt, dù những người Việt Nam đó có hay không có ước vọng trở về giải phóng quang phục đất nước.
Trước hết, thiếu sự khúc chiết lịch sử vì kể từ khi đất nước bị qua phân vào năm 1954 để xác định rõ ràng thành hai thế đối nghịch địa lý chính trị, thì tại miền Nam không phải ai cũng có thể đoàn kết tụ lực để đóng góp vào việc quản trị quốc gia dù tâm nguyện có thừa. Hai chế độ gọi là Cộng Hòa do hai ông tổng thống Công giáo Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu lãnh đạo đã chà đạp cái sức mạnh duy nhất của nền Cộng Hòa là yếu tính dân chủ, để chỉ áp đặt độc tài dù đó là độc tài gia đình trị hay độc tài quân phiệt, thu quyền lực về một nhóm bè đảng ở dinh Độc Lập thì hỏi làm sao toàn dân đoàn kết để bây giờ bắt toàn dân chia sẻ trách nhiệm thất trận đó được. Huống gì đàng sau hai vị Tổng thống đó lại là lực lượng chính trị Công giáo Việt Nam, lực lượng đã độc quyền tổ chức và độc quyền điều khiển công cuộc chống Cộng để cuối cùng phải thua Cộng. Đó là bài học của mọi bài học lịch sử trong 20 năm của miền Nam mà Nhất Linh Nguyễn Tường Tam đã thống thiết trăn trối lại cho chúng ta vào giờ phút lìa đời.
Nhưng tuy thiếu sự khúc chiết lịch sử mà vẫn cần thiết trong giai đoạn phục hồi chính trị của một cộng đồng Việt Nam ly hương, để từ đống tro tàn của quá khứ, gác bỏ mọi hận thù phe nhóm và mọi mâu thuẫn bè phái, cùng đoàn kết tụ lực để giải quyết cái vấn nạn đau thương hiện tại của dân tộc. Cho nên ta chỉ có hai thái độ: hoặc là lột xác quên mâu thuẫn hận thù cũ để làm lại từ đầu, hoặc là nghiêm chỉnh mổ xẻ quá khứ để lấy từ đó những bài học ứng dụng cho tương lai. Cả hai thái độ đó đều có giá trị đóng góp lớn lao cho việc quang phục đất nước.
Nhưng đau đớn thay, tại hải ngoại lại có một thái độ thứ ba của tàn dư Cần Lao Công Giáo: thái độ bới móc quá khứ để phá nát sự đoàn kết cần thiết bằng cách bóp méo lịch sử, xuyên tạc Phật giáo, đổ lỗi cho ngày Cách mạng 1/11/1963 mà ý đồ cuối cùng là để rửa mặt cho cố Tổng thống Ngô Đình Diệm, và chạy tội cho tập đoàn Cần Lao Công Giáo.
Cho nên lợi dụng tâm trạng giao động của một cuộc đổi đời, lợi dụng sự thiếu vắng những tài liệu và nhân chứng lịch sử, và nhất là lợi dụng tình trạng yếu kém của các thành phần dân tộc khác (đã từng là nạn nhân của họ) khi bị bứng gốc đem đến một xứ lạ hà khắc, tàn dư Cần Lao Công Giáo đã tung ra một chiến dịch xuyên tạc, vu khống, hạ nhục những nạn nhân nhưng cũng là những người bất khuất đã từng chống đối họ.
Chiến dịch đó nằm dưới chiêu bài “phân tích lịch sử” để tìm hiểu lý do vì sao “mất nước” và nhắm vào ba đối tượng với ba mục đích rõ rệt:
- Trực tiếp và ác độc nhất là đánh giá Phật giáo, cho rằng chính lực lượng Phật giáo là Cộng Sản, đã chống hết Diệm đến Thiệu nên là nguyên nhân chính đưa đến sự sụp đổ của Việt Nam Cọng Hòa.
- Cũng thâm hiểm nhưng hạ cấp hơn là xuyên tạc và bôi nhọ giá trị của ngày Cách mạng 1/11/1963 với luận điệu hạ nhục cá nhân một số tướng lãnh và lãnh tụ một số đảng phái.
- Và như một hệ luận, mục đích thứ ba là vinh danh Ngô Tổng thống và Cần Lao Công Giáo để cho rằng “nếu Cụ còn thì nước không mất”.
Bằng những từ ngữ bỉ ổi và hạ cấp trên một số báo hàng tuần, mà người chịu trách nhiệm nếu không Công giáo thì cũng Cần Lao; bằng những bài phân tách hoa mỹ và rổn rảng mà tác giả nếu không là Linh mục thì cũng là loại “sử gia” hoài Ngô; bằng những tổ chức, những buổi cầu hồn, những buổi truyền hình, những lần kỷ niệm... họ đã trắng trợn tiến hành ba mục đích trên, không phải để “phân tích lịch sử”, không phải để đoàn kết, cũng không phải để cứu nước; không phải để chống Cộng, không phải để xây dựng cộng đồng, cũng không phải để chia xẻ đau thương của dân tộc. Họ chỉ nhằm một mục đích duy nhất: CHE DẤU TỘI LÀM TAY SAI CHO NGOẠI BANG và NGUỴ TRANG BẢN CHẤT PHI DÂN TỘC của Công giáo Việt Nam trong suốt hơn 100 năm qua. Dù tội làm tay sai đó đã thuộc về quá khứ và bản chất phi dân tộc đó có thể biến cải nếu họ muốn. Và dù dân tộc luôn luôn sẵn sàng mở rộng vòng tay tha thứ và đoàn kết để đón họ về nếu họ biết thật sự đấm ngực ba lần lương thiện nhận tội của mình. Đồ tể buông dao là thành Phật kia mà!
Từ số 48 vào tháng Giêng năm 1978 cho đến bây giờ, tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong đã liên tục, công khai, gia tăng xuyên tạc và bôi nhọ Phật giáo, hạ nhục và đánh phá cá nhân là lực lượng quốc gia chống Cộng (như Võ Đại Tôn, Nguyễn Ngọc Huy, Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Võ Văn Ái, Nhật Tiến, Nguyên Sa, Đinh Thạch Bích,...), vinh danh và suy tôn Ngô Đình Diệm và Cần Lao. Tờ báo đó (do Nguyễn Thanh Hoàng, một cựu đảng viên Cần Lao, tay sai đắc lực của Ngô Đình Nhu) là con tốt tiền phong và hung hãn của hồn ma chế độ Ngô Đình Diệm cũng như là cánh tay nối dài của 100 năm Công giáo Việt Nam tại hải ngoại. Rồi Cao Thế Dung, Ngô Đình Luyện, Cao Văn Luận, Nguyễn Phương, Nguyễn Minh Bảo, Trương Công Cừu, Phạm Quốc Thuần, Hà Như Chi, Cao Xuân Vỹ, Ngô Trọng Hiếu, Nguyễn Trân, Vũ Đình Hoạt, Nguyễn Văn Chức... tụ tập ở trong hay ngoài cái tổ chức gọi là “Phục Hồi Tinh Thần Ngô Đình Diệm” ở hải ngoại để làm sống lại một triều đại chính trị đã bị lịch sử vùi lấp.
Trong công tác phục sinh đó, họ không có cách nào khác hơn là xuyên tạc lịch sử và bôi nhọ các lực lượng dân tộc. Họ cũng không cần cách nào khác hơn vì đối với họ, Lịch sử và Dân tộc làm sao bằng giáo hội La Mã và Dân Chúa được.
Như tôi đã nói ở trên, một trong những đề tài then chốt họ vẫn vọng động đưa ra là “không có Cụ thì miền Nam bị mất” mà tôi đã chứng minh là những luận điệu sai lầm trong chương này rồi. Sai lầm thứ nhất là “không có Cụ” nhưng chế độ Đệ Nhị Cộng Hòa của Nguyễn Văn Thiệu vẫn rước “Cụ” về ngồi trong mọi định chế quốc gia, mọi vị trí quan trọng của chính quyền và mọi sinh hoạt sống chết của miền Nam để từ từ đưa miền Nam đến sụp đổ. Sai lầm thứ hai là những hậu quả tác hại của chế độ “Cụ” từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa nặng nề đến nỗi đã làm suy sụp miền Nam từ những năm đầu của thập niên 60 chứ không đợi phải đến giai đoạn 70, khi mà địch càng mạnh thêm và đồng minh càng suy yếu thêm.
Dưới đây tôi xin trình bày thêm quan điểm của ba nhân chứng về những hậu quả nào mà chế độ “Diệm không Diệm” của Nguyễn Văn Thiệu đã đẩy Việt Nam Cộng Hòa đến chỗ chết.
Trước hết là bài nghiên cứu của ký giả lão thành Robert Shaplen, người bạn thân của bác sĩ Trần Kim Tuyến, một nhân vật biết rõ một cách chắc chắn tình hình miền Nam hơn tất cả nhóm chính trị gia hay cán bộ Cần Lao Công Giáo. Dưới chế độ Đệ Nhị Cộng Hòa, mỗi lần tác giả The Lost Revolution đến Sài Gòn là ông thường đến gặp bác sĩ Tuyến và tôi để thảo luận về tình hình Việt Nam. Ông đã thẳng thắn nói với tôi rằng dù ông quen biết rất nhiều người Việt Nam đủ mọi giới, nhưng ông cho rằng hai người nắm vững tình hình Việt Nam và nhân sự Việt Nam hơn cả là bác sĩ Tuyến và tôi.
Có lần ông đã nhờ tôi giới thiệu với linh mục Nguyễn Học Hiệu để ông được phỏng vấn về Phong Trào Chống Tham Nhũng. Ông đã làm cho tôi ngạc nhiên thích thú vì biết được linh mục Hiệu là đã tài vì lúc bấy giờ linh mục Hiệu có bao giờ ra mặt đâu, và nhờ tôi giới thiệu cũng lại tài hơn vì làm sao ông biết được tôi quen thân với cha Thanh và quen sơ với cha Hiệu để nhờ giới thiệu. Nhưng chính điều ngạc nhiên thứ ba mới làm tôi thích thú vì điều tra “Phong Trào Chống Tham Nhũng” mà ông lại không phỏng vấn cha Thanh, Chủ tịch của Phong Trào. Ông giải thích “Ngô Đình Nhu mới là nhà lãnh đạo thật sự của miền Nam chứ không phải Ngô Đình Diệm, cho nên chính “Eminence Grise” Nguyễn Học Hiệu nắm những bí ẩn của Phong Trào chứ không phải linh mục Thanh, chỉ nắm vai biểu tượng”. Sau linh mục Hiệu, ông còn nhờ tôi giới thiệu với Thượng Tọa Huyền Quang, Tổng thư ký của Giáo hội Phật giáo, để ông biết thêm quan điểm của Phật giáo về phong trào của cha Thanh vốn mang màu sắc Công giáo. Mùa Xuân năm 1985, để bổ túc thêm cho kiến thức của mình về một vùng đất mà ông từng nghiên cứu, Robert Shaplen lại du hành qua Việt Nam gần 4 tháng, từ vùng biên giới Hoa-Việt vào đến tận Sài Gòn để điều tra về chế độ chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Khi về tại Hoa Kỳ ông đã đưa ra một tường trình rất dài đăng hai kỳ trên tập san Life và được học giả Douglas Pike giới thiệu như một cuộc điều tra có giá trị về Việt Nam trong nguyệt san Indochina Chronology (Berkeley, California).
Với lối làm việc cẩn trọng, rốt ráo và có lương tâm chức nghiệp, năm 1972, Robert Shaplen đã viết bài The Cult Of Diem để truy tầm bản chất của nền Đệ Nhị Cộng Hòa và để hồi chiếu số phận miền Nam nếu ông Diệm không bị lật đổ.
Vào lễ cúng kỵ năm 1970, có từ một cho đến hai ngàn người, kể cả vợ của Tổng thống Thiệu, xuất hiện tại hai ngôi mộ và biến cố này được xem như đánh dấu chính thức sự phục hồi chế độ Diệm tại Nam Việt Nam.
Những cuộc trình diễn lễ lạc nhân danh Diệm này là một sự biểu hiện về những thay đổi tâm lý và chính trị xảy ra tại Việt Nam 10 năm sau khi ông ta chết... Những cuộc trình diễn này, với những ẩn nghĩa đặc thù Việt Nam, có tính cách biểu tượng và nói lên một số triệu chứng... Trên bề mặt, chúng tượng trưng cho khuynh hướng tự nhiên của con người bao giờ cũng nhìn thấy quá khứ thì dễ chịu hơn hiện tại... nhưng điều đó không hẳn đúng cho mọi người Việt Nam, và nếu ta lùi xa ra để nhìn lại hình ảnh của Diệm dưới một ánh sáng lịch sử rộng lớn hơn thì bức tranh trở thành phức tạp hơn nhiều.
Đã có những chứng liệu cho biết rằng trước khi có cuộc đảo chánh, chính phủ Sài Gòn và MTGP đã tiến hành những nỗ lực thỏa hiệp với nhau. Những nỗ lực này có thể sẽ không đi đến đâu và chiến tranh sẽ vẫn tiếp tục dù ở một mức độ nhỏ hơn. Nhưng dù mức độ nhỏ hay dù thỏa hiệp chính trị có đạt được, ngay cả trước khi Hà Nội hoàn toàn khống chế Mặt Trận, thì Nam Việt Nam cũng sẽ rơi vào một hình thức thống trị của Cộng Sản...
Nhìn lại bối cảnh của năm 1963 với tất cả sự bất lường của quá khứ và hiện tại, hầu hết mọi người Mỹ và Việt Nam mà tôi đã nói chuyện trong suốt 9 năm qua đều cũng như tôi, tin rằng cuộc đảo chánh là một chuyện cần thiết và không thể tránh được vì bản chất bất dung của nền độc tài Ngô Đình Diệm, dù đáng lẽ nên tha chết cho Diệm và Nhu, nhất là Diệm...
Tuy nhiên, trước hết ta cần phải nêu lên một số nhận xét để đặt Phong trào làm sống lại Diệm vào đúng bối cảnh của nó. Chính Thiệu, người tấn công dinh Gia Long khi còn là một Sư đoàn trưởng tại miền Đông, đã cố tình và khéo léo phát động ra những yếu tố mới mẻ để làm cho dân chúng trở lại chú ý đến Diệm. Trong cương vị người lãnh đạo nền Đệ Nhị Cộng Hòa tiếp nối nền Đệ Nhất của Diệm, và với tư cách là một tín đồ Công giáo, dù chỉ là “đạo theo” chứ không phải “đạo dòng”, Thiệu đã cố gắng bắt chước dáng điệu và phương cách của Diệm, càng ngày càng bắt chước theo những hình thức và lễ lạc của chế độ cũ. Hầu hết những người thực sự của chế độ Diệm, mà trong đó có người tích cực hậu thuẫn cho Thiệu vì không còn cách nào khác hơn, thì một cách riêng tư đã tỏ ra phật ý vì Thiệu dám khoác chiếc áo của Diệm...
Dù tự nhận là giống Diệm và dù Thiệu có riêng tư nghĩ như thế nào về vị trí của ông ta trong giòng lịch sử thì trong quá khứ Thiệu cũng đã chứng tỏ ông ta không thể nào giống được Diệm vì tính thiếu tự tin, mặc dầu gần đây, trong cuộc đắc cử Tổng thống độc diễn vào tháng 10 vừa qua, Thiệu đã tỏ ra xuất sắc và tự tin. Đồng thời, để chứng tỏ thiện chí hòa bình, Thiệu đã tuyên bố sẽ từ chức là điều mà với bản tính của Diệm, Diệm sẽ không bao giờ nghĩ tới. Ngoan cố và kiêu hãnh sẽ ngăn chận Diệm làm điều đó, vì Diệm sẽ đứng trên quan điểm đạo đức mà cho rằng mình là vị lãnh tụ chính đáng và có thẩm quyền của nước Việt Nam. Hành động miễn cưỡng “từ chức” của Diệm trong cuộc đảo chánh chỉ là sự đầu hàng của một kẻ đã đến nước đường cùng.
Khía cạnh quan trọng hơn của phong trào làm sống lại Diệm phát xuất từ cảm tình và sự kính trọng đối với ông ta, chứ không phải đối với bà Nhu và ba người anh em kia, hay đối với người vợ bạo ngược (tyranical) của Nhu hiện đang sống tại Ý, mà vào những ngày cuối cùng của chế độ đã ảnh hưởng Diệm mạnh mẽ hơn bất kỳ ai.
Một người đã làm việc mật thiết với Diệm trong nhiều năm nhưng cuối cùng đành phải quay lại chống đối Diệm đã nói rằng “Sự tưởng nhớ Diệm chưa cô đọng lại thành một cái gì chắc chắn dù đang lan rộng ra từ từ. Phong trào này gồm có nhiều thành phần với nhiều lý do phức tạp khác nhau... Họ gồm những lãnh tụ Công giáo thủ cựu và một vài đảng viên các đảng phái quốc gia cũ...”
Quá trình và phương cách Diệm lên cầm quyền cần được tóm tắt ở đây thì ta mới có thể đánh giá được cái tư cách Tổng thống rất “dân chi phụ mẫu” (paternalistic) của ông ta, cũng như tại sao và như thế nào ông ta bị lật đổ, và tại sao hình ảnh của ông ta còn kéo dài cho đến ngày nay. Diệm sinh tại Huế ngày 3/1/1901, nhưng trái với những điều ông ta tuyên bố với nhiều người Tây phương, kể cả nói chuyện với tôi trong buổi gặp gỡ dài 6 tiếng đồng hồ năm 1962, tổ phụ của ông ta không thuộc dòng dõi quyền quý từ thế kỷ thứ 16. Hình như Diệm muốn người Tây phương tin ông ta thuộc gia đình quý tộc nhưng những vị hậu duệ của các vị Hoàng đế Việt Nam đã quả quyết với tôi rằng trong khi cha của Diệm là một Phụ thần cao cấp của vua Thành Thái tại Huế thì ông nội của Diệm chỉ là một người đánh cá nhà quê (fisherman-paysant) chứ không phải là một nho sĩ. Gia đình họ Ngô theo Đạo vào thế kỷ thứ 17. Đầu tiên, Diệm muốn trở thành một tu sĩ, nhưng khi ông ta bỏ cuộc vì không chịu nổi những giáo luật khắt khe thì thân phụ và bạn bè ông ta thuyết phục ông vào học Quốc học ở Huế, rồi thi vào trường Hậu Bổ để ra làm quan. Sau khi tốt nghiệp, Diệm được bổ nhiệm làm Tri huyện rồi Tuần phủ...
Những nỗ lực của Diệm nhằm thuyết phục người Pháp cải cách làng mạc đã bị từ chối. Do đó Diệm muốn từ chức, nhưng thân phụ và bạn bè lại khuyên ông nên cứ ở lại và Diệm đã hành xử thành công đến nỗi vào năm 1933, được thăng lên chức Thượng thư Bộ Lại trong chính phủ của vị tân Hoàng Đế Bảo Đại trẻ tuổi. Lúc đó Diệm 32 tuổi và Bảo Đại mới 18.
... Vào tháng 9 năm 1945, Diệm bị cán bộ Việt Minh bắt gần Huế. Sau khi bị giam vài tháng trong rừng, Diệm bị triệu hồi về Hà Nội vào tháng 2 năm 1946 để gặp Hồ Chí Minh. Hồ xin lỗi đã để cho thuộc hạ giết Khôi năm ngoái và yêu cầu Diệm ở lại Hà Nội làm việc, nhưng vì Hồ không nói trách nhiệm rõ ràng nên Diệm từ chối. Tuy vậy, Hồ cho phép Diệm ra đi, và Diệm bắt đầu tổ chức những cơ sở chống Cộng nhưng càng ngày càng bị cô lập trên cả hai mặt chính trị lẫn tinh thần. Khi Việt Minh bắt đầu phát động chiến tranh chống Pháp vào tháng 12 năm 1946, Diệm về sống với người anh là Giám mục Thục gần Sài Gòn. Khoảng năm 1947-1948, Diệm hòa hoãn với người Pháp đến độ chịu làm trung gian giữa Pháp và Bảo Đại đang ở Hồng Kông để mời vị vua này về làm Quốc trưởng xứ Nam Kỳ...
Vào tháng 6 năm 1954, trong khi hội nghị Genève đang tiến hành để chấm dứt chiến tranh, Diệm được Bảo Đại tấn phong làm Thủ tướng. Tại buổi lễ tấn phong ở Cannes, Diệm đã thề trên cuốn Kinh thánh sẽ không bao giờ phản bội Bảo Đại.
Mọi người đều hiểu rằng Diệm được Hoa Thịnh Đốn chọn vào chức vụ này, Ngoại trưởng Dulles, người đích thân phụ trách đem Mỹ vào thay thế Pháp, đã chấp thuận Diệm vì bị ảnh hưởng của Hồng Y Spellman, một trong những người bạn Mỹ của Diệm...
Khi Diệm trở về Sài Gòn vào ngày 25 tháng 6 năm 1954, đi từ phi trường về dinh Norodom trong một chiếc xe phủ màn kín mít, Diệm vẫn không mất đi cái quan niệm phong kiến chắc nịch mà bây giờ lại được lồng thêm vào một số lý thuyết về dân chủ Tây phương. Toàn bộ quan điểm cai trị quốc gia của Diệm là một quan niệm Nho giáo chặt chẽ và kinh điển. Ngoài sự nhấn mạnh những đức tính và cung cách đạo đức, trong một bài viết nhan đề “Phát triển Dân chủ tại Việt Nam” được viết trước khi lên cầm quyền, Diệm đã đề cập đến “sự thần bí của chính phủ” như là một “nguyên tắc cơ bản”. Diệm giải thích rằng “vị quan toà trong tư cách chính thức phải hành xử với cung cách như đang tham dự một nghi lễ tôn giáo”. Kẻ cầm quyền do đó phải được “kính trọng một cách thiêng liêng” như là “kẻ trung gian giữa Người và Trời đang làm lễ cúng bái vậy”. Do đó, ta không ngạc nhiên khi thấy Diệm, với sự giúp đỡ càng lúc càng nhiều của Nhu, đã chiếu dội sự thần thánh hóa cá nhân của ông ta tại Nam Việt Nam, và chính sự thần thánh hóa này đã kéo dài cho đến ngày nay...
Nhược điểm lớn nhất của Hiến pháp 1956 là những “đặc quyền” quy định trong chương cuối cùng cho phép vị Tổng thống quá nhiều quyền lực mà ngay cả vị Tổng Cao ủy Pháp hay chúa ngày xưa cũng không có. Trong khi Hiến pháp có đề cập đến vấn đề nhân quyền, nhưng vì Diệm được quyền cai trị bằng sắc luật “một cách như Trời” (divine right) đã làm cho Diệm tin rằng ông ta xứng đáng nhận lãnh Thiên Mệnh.
Khuyết điểm khác của Hiến pháp mà chính Nhu phải chịu trách nhiệm là đưa vào Hiến pháp chủ đề về thuyết Nhân Vị, một chủ nghĩa thần bí (mystique) trộn lẫn những tư tưởng Đông phương và Tây phương... Nó bao gồm tư tưởng của Công giáo Pháp và một vài khía cạnh của Cơ Đốc giáo cũng như Khổng giáo và Mác Xít...
Như Pentagon Papers và nhiều sử liệu khác đã phát giác ra, tình hình Việt Nam sau cuộc binh biến 1960 đã đi từ tình trạng xấu xa đến tồi tệ. Càng ngày Nhu càng bị tù hãm trong thế giới tự cao tự đại hoang tưởng (melogamaniac) của ông ta và cuối cùng đã cố gắng thỏa hiệp riêng với Hà Nội để nếu cần sẽ tự mình lật đổ chính anh mình. Diệm rơi vào tình trạng được mô tả là chấn động tâm lý (phychological shock) và đã trở thành hoàn toàn bất động. Diệm đã được cảnh cáo rằng chiến dịch đàn áp Phật giáo của Nhu vào tháng 8 năm 1963 chỉ có thể chuốc thêm tại họa cho chính quyền; nhưng khi Diệm được thuyết phục để thương thảo với cấp lãnh đạo Phật giáo thì Nhu vội can thiệp để thay đổi quyết định của Diệm và tiến hành việc tấn công chùa chiền.
Có hơn 10 nhóm âm mưu thực hiện chính biến nhưng tựu trung thì gồm ba tổ chức chính:
- Tổ chức do Đại tá Đỗ Mậu và Đại tá Phạm Ngọc Thảo, Tổng Thanh tra chương trình Ấp Chiến lược. Mục tiêu của tổ chức này là loại trừ Nhu, giữ Diệm lại và thiết lập một chính phủ quân nhân. Chính phủ này nếu cần sẽ thanh toán tổ chức thứ nhì đang được Hoa Kỳ ủng hộ.
- Tổ chức thứ nhì do tướng Dương Văn Minh cầm đầu, nhưng người chỉ huy thật sự là tướng Trần Văn Đôn... Nhiều tuần trước, tổ chức này đã liên hệ với Trung tá Lucien Conein của CIA. Mục tiêu ban đầu của tổ chức này là lật đổ Diệm-Nhu, chở bằng phi cơ Hoa Kỳ ra ngoại quốc và sau đó sẽ chở Diệm trở về làm Quốc trưởng...
- Tổ chức thứ ba do Đại tá Lê Quang Tung, chi huy trưởng Lực Lượng Đặc Biệt được cả Nhu và Diệm tín nhiệm, cầm đầu. Khi được biết có hai tổ chức kia, Nhu định dùng Tung làm đảo chánh giả để tiêu diệt hai nhóm kia rồi đón hai anh em từ một tỉnh duyên hải trở về lại Dinh. Cú đảo chánh giả này được gọi là Bravo Hai.
Thật không phải là dễ dàng khi lồng cái chết của Diệm và Nhu vào trong khung cảnh của Phong Trào Phục Hồi Diệm. Hầu hết những người Việt Nam mà tôi có dịp tiếp xúc, ngay cả với những người có cảm tình với Diệm, chứ không phải với Nhu, đã cho rằng việc làm sống lại Diệm có vẻ “quái đản” (macabre). Một vài người tuy nhận là có hồi tưởng lại nhưng vẫn nhấn mạnh rằng “chúng ta không thể quay lui nhìn lại quá khứ, chúng ta phải hướng về tương lai. Tại sao khơi lại đống tro tàn của kẻ đã chết?”...
Nhiều người Việt và Mỹ nghĩ rằng nếu Diệm còn sống, và chỉ loại trừ Nhu mà thôi, Việt Nam có lẽ sẽ khá hơn bây giờ... Tuy nhiên cái lúc đáng lẽ phải loại Nhu là vào thời kỳ 60, đến năm 1963 thì đã quá trễ mất rồi; vì Diệm, dù có muốn, cũng đã không còn khả năng để đối phó với tình hình chính trị và quân sự nữa. Nói một cách tinh tế, Diệm chính là nạn nhân của anh em ông ta. Vì vào lúc đó, sự uất hận của tôn giáo và chính trị bị đàn áp đã phối hợp với nhau để làm cho cuộc chính biến không thể nào không xảy ra, và nhất định sẽ xảy ra dù người Mỹ có đồng ý hay không.
Không thể cho rằng vì lúc đó đã đồng ý mà bây giờ người Mỹ can dự một cách quá sâu vào chiến tranh Việt Nam, nhưng ta có thể phỏng đoán rằng nếu cuộc binh biến của năm 1960 thành công, trước khi những xúc động được dâng lên quá cao, thì chưa chắc Hoa Kỳ đã dính dự như bây giờ, vì thật ra người Mỹ chỉ thật sự xúc động mãnh liệt nhất vào năm 1963.
Một cách tổng quát, tấn thảm kịch thực sự, mà cũng là hài kịch, là cuộc lật đổ Diệm-Nhu đã không giải quyết gì và tương lai Nam Việt Nam hôm nay (1972) cũng vẫn mơ hồ như vào năm 1963 dù chiến tranh có tiếp diễn và dù cuộc hòa đàm dai dẳng tại Balê có đi đến đâu chăng nữa.
Nếu Nhu đã thỏa hiệp thành công với Cộng Sản sau lưng Diệm thì có lẽ sẽ tránh được chiến tranh, nhưng theo tôi thì Nhu không làm được chuyện đó và dù có đảo chánh hay không thì chiến tranh vẫn xảy ra. Vì một thập niên sau đó, quyết tâm thống trị miền Nam của Hà Nội vẫn y nguyên như cũ...
Dù sao, phong trào làm sống lại Diệm hiện nay đã biểu hiệu hai điều kiện: sự khao khát vô vọng muốn được sống hòa bình và sự chua xót về những gì đã xảy ra tại Việt Nam từ khi Diệm bị lật, kể cả sự tham dự khốc liệt của Hoa Kỳ vào chiến tranh Việt Nam, tất cả đều vô ích [23].
Tất cả đều vô ích vì từ 1959 đến 1963, chế độ Diệm đã đưa đất nước đến bến bờ vực thẳm rồi, đã dồn dân tộc vào gọng kềm của cuộc chiến tranh ủy nhiệm cho hai đế quốc, đã hủy diệt mọi sinh lực mong manh của các lực lượng nhân dân chống Cộng. Tất cả đều vô ích vì cuộc Cách mạng 1/11/1963 đã kết thúc dở dang chỉ mấy tháng sau ngày phát động, vì các tàn dư Cần Lao Công Giáo đã khích động tình cảm tôn giáo để tạo ra ba năm xáo trộn và phân hóa, vì các lực lượng nhân dân đã mắc phải con bệnh chính trị ấu trĩ sau 9 năm bị kềm kẹp nên không hành xử đúng đắn trách nhiệm của mình. Tất cả đều vô ích vì chính Nguyễn Văn Thiệu đã lại rước “Cụ” về trong tim trong óc, trong dinh Độc Lập, trong quân đội, trong chính quyền, trong chính sách, trong thủ đoạn.
Vì vậy mà tất cả đều vô ích.
Vì vậy mà chiêu bài “không có Cụ thì nước chưa mất” của nhóm Cần Lao Công Giáo tại hải ngoại không có một giá trị chân thực nào cả ngoài ý đồ muốn chạy tội lịch sử cho họ và bôi nhọ các thành phần dân tộc khác. Việt Nam Cộng Hòa bị sụp đổ là do cái hậu quả khốc liệt và dai dẳng của chế độ Ngô Đình Diệm kéo dài từ Đệ Nhất đến Đệ Nhị Cộng Hòa. Thì trong tương lai, cũng chính cái hậu quả đó đang được nhen nhúm trở lại tại hải ngoại, sẽ cản trở công cuộc quang phục và xây dựng lại một Việt Nam Tự Do mới.
Sau ký giả kỳ cựu Robert Shaplen, tôi muốn trình bày quan điểm của một quân nhân Việt Nam cũng về vấn đề nguyên nhân sâu xa đưa đến sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa, để xem luận cứ của Cần Lao Công Giáo tại hải ngoại còn đứng vững được không? để xem “Cụ” của họ có liên hệ gì đến ngày 30/4/1975 thê thảm đó không?
Quân nhân đó là Đại úy Nhảy Dù Phan Nhật Nam.
Quân nhân đó cũng là một nhà văn dùng ngòi bút để chiến đấu với quân thù hay để trang trải thao thức trên trang giấy. Phan Nhật Nam sinh ngày 9-9-1943 tại Huế, và lớn lên học Trung học tại Đà Nẵng. Chẳng những là một quân nhân từng hành quân khắp nẻo chiến trường đất nước, anh còn là một chiến sĩ văn hóa đấu tranh, đã viết trên mười tác phẩm giá trị nói về quê hương dân tộc, nói về chiến tranh và hòa bình. Ngoài Doãn Quốc Sĩ và Nguyễn Mạnh Côn là hai bậc đàn anh có ý thức cách mạng và thể hiện thành những sáng tác đấu tranh chống Cộng sâu sắc, Phan Nhật Nam thuộc về một nhóm văn nghệ sĩ quân đội của thế hệ trẻ hơn đã biết sử dụng ngòi bút như một vũ khí đấu tranh. Đặc biệt trong nhóm nhỏ hiếm hoi đó, Phan Nhật Nam nổi bật lên không phải chỉ vì anh trình bày những thảm trạng của chiến tranh và tội ác của Việt Cộng mà còn vì anh đã đặt đúng và đánh đúng những vấn đề cơ bản nhất để chiến thắng Cộng Sản. Qua những hoạt động của anh tại miền Nam và qua những ngày anh đến Hà Nội để đấu tranh chính trị với Cộng Sản, tôi có thể quả quyết rằng ngoài lòng yêu nước nồng nàn, anh còn có một trình độ nhận thức chính trị rất sâu sắc mà nhiều cấp lãnh đạo ở miền Nam chưa chắc đã bằng được.
Vốn đã thán phục Phan Nhật Nam từ lâu, nhưng sau khi đọc xong tác phẩm Tù Binh và Hòa Bình của anh, tôi mới giật mình không ngờ người sĩ quan trẻ tuổi kia lại có một kiến thức dồi dào về chính trị và về lịch sử như thế, lại có cái nhìn thời cuộc nghiêm chỉnh và một ý thức dân tộc dạt dào đến thế. Tác phẩm Tù Binh và Hòa Bình viết từ năm 1974, dưới một chế độ mà anh đang phục vụ và có lẽ vì chế độ kiểm duyệt lúc bấy giờ nên anh đã phải dùng văn pháp và ngôn từ một cách dè dặt, nhưng không vì thế mà lập luận của anh thiếu chính xác và thiếu đanh thép. Phần kết luận của tác phẩm này đã như những lời di chúc để lại cho những nhà chính trị và những nhà lãnh đạo tôn giáo, vì nội dung cuốn sách đặt trọng tâm vào những nhận định nhằm báo trước một sự sụp đổ của miền Nam không tài nào cứu chữa được nữa, sự sụp đổ do lỗi lầm của các bậc đàn anh để lại.
Hãy đọc một đoạn ngắn trong phần kết luận để thấy anh nêu lên cái hậu quả do nhà Ngô gây ra đã đưa đất nước đến bờ vực thẳm.
Trước hết, vì thấy rõ Cộng Sản đã chiếm được mọi ưu thế trên chiến trường miền Nam nên khi đề cập đến ý định của người Cộng Sản trong giải pháp Hòa giải, dù giải pháp đó chỉ là hậu quả tất yếu do một chuỗi dài những sai lầm chính trị suốt 30 năm trời, anh đã viết:
Nếu Cộng Sản chịu hòa giải trong một chiến thuật đoản kỳ nào đó, chắc chắn rằng họ không ngồi chung chiếu với “lãnh tụ” Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu chứ đừng nói đám đào kép cải lương mới nổi từ đồng lầy chính trị miền Nam...
Từ tiền đề thực tế và đau đớn đó, anh nhìn lại dòng lịch sử 30 năm qua để định giá lại công tội của các bậc đàn anh và đặc biệt lên án chế độ Ngô Đình Diệm mà anh cho là thủ phạm chính trong việc “sẩy tay” làm cho miền Nam rơi vào tay Cộng Sản:
Ông Thiệu và chính quyền hiện tại đâu có phải một sớm một chiều bỗng dưng mà có được. Chiến tranh hiện tại cũng không phải vì không thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Balê, cũng không phải vì người Mỹ vẫn dính líu vào miền Nam Việt Nam để thực hiện chính sách thực dân mới mà có... Ông Thiệu ông Khiêm, tình trạng tham nhũng, thối nát, bất công, chiến tranh hôm nay chỉ là hậu quả tất nhiên của các giai đoạn 45-54, 54-63, 63-74... là hệ quả của các lực lượng quốc gia không chịu tập trung và hoạch định hoạt động theo đúng hướng đi chung của lịch sử, dân tộc và thế giới, cũng như sau khi các lực lượng tôn giáo nhất quyết dựa vào quyền lực để củng cố và phát triển giáo quyền (che dấu mặc cảm đã cộng tác với những người khống chế dân tộc: ghi chú của Phan Nhật Nam). Đó cũng là hệ quả lần “sẩy tay” trầm trọng nhất khi miền Nam đã đánh mất cơ hội tốt đẹp, một hoàn cảnh thuận tiện (54-63) kiện toàn miền Nam để có đủ khả năng và lực lượng cân bằng hiệp thương cùng miền Bắc... để rồi sau đó mất luôn khí thế cùng thời gian sau 1963 trong những sa đọa giành giựt, cấu xé và phân hóa thô thiển vì quyền lợi, phe phái và cá nhân rơi vào hố thảm bại cả một phong trào nhân dân 1966... và tình trạng hiện tại với ông Thiệu chỉ là ngọn gió cuối của một cơn cuồng phong thổi tàn khốc qua quê hương khốn khổ... Có ai ngăn chận một ngọn gió ở cuối đường để đề phòng một cơn bão! Có ai chặt đi một ngọn cây để hủy diệt những ung thối từ gốc rễ. [24]
Chính cái sự thật mà anh đã nói ra là chế độ Ngô Đình Diệm, hơn ai hết trong suốt ba giai đoạn từ 1945 đến 1974, phải là chế độ chịu trách nhiệm về tình trạng suy thoái của Việt Nam ngày nay. Sự thật mà anh nói lên đó há chẳng đánh tan cái đêm tối mù lòa và ngoan cố của chiêu bài “không có “Cụ” thì nước đâu đã mất” của tàn dư Cần Lao sau này hay sao?
Cuối cùng, và để cho rốt ráo hơn, một trong những cái mầm mống quan trọng khiến cho miền Nam sụp đổ đã được ông Diệm gieo lên từ ngay sau khi ông thành lập chính phủ đầu tiên vào năm 1955 chứ không phải đợi đến lúc Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ra đời vào năm 1960, để ông phải hốt hoảng tố cáo với 92 quốc gia trên thế giới hai năm sau đó.
Mầm mống này là sự phản bội lời hứa hẹn trong bản Tuyên Ngôn chính trị năm 1949-1950, trước khi ông đi Hoa Kỳ (1950), về một sự hợp tác với lực lượng kháng chiến sau này, và kéo theo đó là chính sách kỳ thị cả hai mặt chính trị lẫn nhân văn đối với quần chúng Nam kỳ (địa dư) đang chiếm hơn 2 phần 3 tổng số toàn dân miền Nam vì chỉ tin vào khối Công giáo.
Thật vậy, trong cuộc chiến đấu kháng Pháp mười năm, dù trực đối trên chính trường là Pháp và Cộng Sản, nhưng trên chiến trường và phía kháng chiến, chính những người con yêu của dân tộc đã cầm súng anh dũng đánh giặc và đổ máu bảo vệ sơn hà gấm vóc. Và cũng trong 10 năm của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất đó, lực lượng dân tộc đã bị đánh dạt ra hai phía, đi Bưng hay ở Thành, và bị điều động bởi cả Thực dân lẫn Cộng Sản. Lực lượng kháng chiến Nam Bộ là một đại bộ phận của dân tộc nằm trong hoàn cảnh éo le đó, và dù có ngụy biện cách mấy thì ta cũng không thể phủ nhận được lòng yêu nước cũng như sự nghiệp cao cả của họ trong cuộc chiến giành độc lập cho tổ quốc.
Cho nên khi Hiệp định Genève phân định biên cương rõ ràng để đảng Cộng Sản hoàn toàn lộ nguyên hình căn cước quốc tế của nó, đa số anh em kháng chiến Nam bộ đã không ra miền Bắc như một số nhỏ đi tập kết, cũng không ở lại chôn dấu vũ khí để làm đội quân nội ứng cho Hà Nội như một số cán bộ Cộng Sản thực thụ, mà họ đã ở lại bên này vĩ tuyến thứ mười bảy vì vừa tin tưởng vào lời tuyên bố của ông Diệm ngày xưa, vừa muốn xây dựng một miền Nam hùng mạnh phú cường.
Nhưng ông Diệm không những đã phản bội lời cam kết của ông ngày xưa mà còn phóng tay phát động một chính sách tiêu diệt lực lượng này, kỳ thị người miền Nam và đẩy một đại bộ phận của dân tộc vào thế hoặc tích cực chống đối thì theo Mặt Trận Giải Phóng sau này, hoặc tiêu cực chống đối thì bất hợp tác với chính quyền.
Sự phản bội đó đã được một nhân chứng từng hợp tác chặt chẽ với ông Diệm, nghiên cứu và trình bày đầy đủ trên nguyệt san Quê Mẹ (Paris) khởi đăng từ số 51 (1985) dưới đề mục Lịch Trình Hình Thành và Giải Thể của Mặt Trận Giải Phóng mà tôi trích lại một chương trong phần Phụ lục ở cuốn sách.
Trong phần giới thiệu loạt bài nghiên cứu giá trị này, Quê Mẹ đã viết:
... Nhưng ít ai biết rằng Mặt Trận không có thật vì nó chỉ là cái bóng của con thỏ rọi lên tường sau vài thủ thuật ngoéo tay của Bộ Chính Trị Đảng ở Hà Nội mà thôi. Và để chứng thực điều đó, tác giả bài nghiên cứu phải phân tách chính quyền miền Nam từ sau hiệp ước Genève 1954 mà nhân vật chính đã vô tình phụ tay cho Mặt Trận có lý do và hoàn cảnh ra đời là Tổng thống Ngô Đình Diệm với chế độ gia đình ông quản lý. Từ đó đưa tới hậu quả bại trận năm 1975. Nhân vật chính, bởi ông Diệm là nhân vật có tầm vóc chính trị có thể thay đổi cục diện ở miền Nam ở thời điểm 1954 nếu ông đã không lầm lẫn một lá bài. Những kẻ kế thừa sau ông không có tầm vóc và tác phong của người làm chính trị, lại thiếu khả năng văn hoá và trí thức, nên đã không cưỡng chống được với thời thế gay go và hậu quả của ông Ngô Đình Diệm để lại khiến miền Nam tan vỡ.
Tuy tác giả loạt bài trên ẩn danh nhưng đến đoạn đề cập về ông Diệm thì tôi đoán rằng tác giả phải là một nhân vật chính trị đã có quen biết và từng hoạt động chặt chẽ với hai ông Diệm, Nhu trước khi ông Diệm về nước làm Thủ tướng. Qua sự phân tách nghiêm chỉnh với những chứng liệu rõ ràng, tôi đoán tác giả có thể là ông Hồ Sĩ Khuê, có quen biết với nhóm Tinh Thần của Bác sĩ Trần Văn Đỗ, tổ chức hậu thuẫn cho ông Diệm tại Sài Gòn từ 1948 đến 1955 (bác sĩ Trần Văn Đỗ hiện ở Pháp và đã được tác giả trong loạt bài trong Quê Mẹ nêu lên dẫn chứng).
Một cách gián tiếp trả lời cho luận điệu “vì không có Cụ nên mất miền Nam” của nhóm Cần Lao hoài Ngô, tác giả đã nghiêm chỉnh nhìn lại toàn bộ hoàn cảnh và điều kiện lịch sử trước và trong thời gian 9 năm ông Diệm cầm quyền, để nghiêm khắc lên án ông Diệm bốn điểm mà tác giả cho là có liên hệ trực tiếp đến nguyên nhân sâu xa đưa đến sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa: Thứ nhất là bỏ rơi và tiêu diệt lực lượng kháng chiến Nam bộ vốn chống Pháp nhưng không theo Cộng Sản; thứ hai là xem thường nên đánh mất hậu thuẫn cần thiết của người Nam kỳ; thứ ba là đã không cai trị miền Nam theo đường lối dân tộc dân chủ mà lại theo cung cách của một quan Toàn quyền thời Pháp thuộc; và cuối cùng là đã áp đặt một chế độ gia đình trị, Bắc kỳ trị, cảnh sát trị nên tạo ra những yếu tố thuận lợi cho Hà Nội khai sinh và phát triển Mặt Trận Giải Phóng, làm công cụ xâm lăng và chiến thắng miền Nam.
Và đó là bốn tội lớn để di họa đến về sau và gây ra ngày 30-4-1975.
Khi đặt hẳn vấn đề “kỳ thị Nam kỳ” của chế độ Diệm, quả thật tác giả đã can đảm và lương thiện lấy một thái độ phân tách lịch sử nghiêm chỉnh mà không trốn tránh hay ngại ngùng những áp lực chính trị phiến diện tại hải ngoại. Cũng vậy, khi đặt vấn đề đó ra, tác giả còn giúp ta có một cái nhìn thông suốt hơn về những khó khăn cơ bản trong nội bộ cũng như ngoài thực tế bây giờ của chính quyền Cộng Sản Hà Nội khi muốn “tiến nhanh tiến mạnh lên Xã Hội Chủ Nghĩa” tại miền Nam.
Khó khăn cơ bản của Cộng Sản, cũng như tính thực tế và khả thi của sách lược của người không Cộng Sản, mà tác giả muốn ẩn dụ đề cập đến, nằm trong sức mạnh sung mãn và triết lý sống nhân bản đặc thù của người miền Nam, nằm trong bối cảnh xã hội và điều kiện hình thành của các lực lượng chính trị tại miền Nam trong 125 năm qua, kể từ khi cụ Phan Thanh Giản tử tiết sau khi ký hòa ước Nhâm Tuất (1862) nhượng ba tỉnh miền Đông Nam kỳ cho thực dân Pháp.
Riêng ông Diệm, người đầu tiên dọn đường cho Cộng Sản cắm cờ trên dinh Độc Lập ngay sau khi đất nước qua phân, vì tin tưởng vào khối Công giáo di cư và sức mạnh của Hoa Kỳ để chống Cộng, nên đã vất bỏ cái hậu thuẫn cần thiết của nhân dân và nhân tâm miền Nam. Vất bỏ nó đi, ông Diệm độc quyền biến miền Nam thành cánh tay nối dài của một đế quốc, thi hành một cuộc chiến ủy nhiệm để ngăn chận một đế quốc khác trên lục địa châu Á, và bỏ rơi sách lược ngoại giao vận dụng khối Phi liên kết của các nước chậm tiến muốn thoát gọng kềm lưỡng cực. Vất bỏ nó đi, ông Diệm chính nghĩa hóa cuộc tiến quân của Bắc quân và đẩy nông thôn vào vòng tay Việt Cộng. Vất bỏ và khinh thường nó nên Trần Văn Bạch, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Trần Văn Đỗ, Huỳnh Kim Hữu, Nguyễn Văn Thoại,... không hợp tác với ông nữa; Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Văn Hiếu, Mã Thị Chu, Âu Trường Thanh, Phạm Công Tắc, Trần Văn Hữu, Trần Kim Quang, Trương Như Tảng... kháng chiến Nam bộ, Phật giáo Nam kỳ, Hòa Hảo, Cao Đài quay lại chống đối chế độ của ông.
(Hiện tượng chính trị và nhân văn nầy, đến năm 1992, được nghiên cứu và khai triển khúc chiết hơn và xuất hiện qua tác phẩm nổi tiếng “Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt Trận Giải Phóng” của tác giả Hồ Sĩ Khuê, Văn Nghệ, California, xuất bản).
-o0o-
Chỉ một chính sách khinh rẻ và kỳ thị dân Nam như thế là chế độ Diệm đã làm sụp đổ miền Nam chứ không cần phải cộng thêm với những tội lỗi của anh em ông Diệm và tập đoàn Cần Lao Công Giáo trong suốt 9 năm cầm quyền.
Rõ ràng như thế nên Lịch sử đã tuyên án và Dân tộc đã xử án rồi !
Rõ ràng như thế nhưng tàn dư Cần Lao Công Giáo tại hải ngoại vẫn ngoan cố bóp méo lịch sử, cưỡng chống Dân Tộc để tìm cách chạy tội cho chủ với một phong trào có tên gọi là “Phục Hồi Tinh Thần Ngô Đình Diệm”. Vậy thì cái “tinh thần” đó là gì?
Có phải là tinh thần “quan lại, phản động, chà đạp nguyện vọng của toàn dân, kéo lui dòng lịch sử của giống nòi” như ông Phạm Nam Sách đã lên án? Có phải là tinh thần “diệt Phật giáo Ma quỷ và diệt Đảng phái phản loạn” của đảng Cần Lao như ông Chu Bằng Lĩnh đã tố cáo? Có phải là tinh thần “nhà thờ La Vang là biểu tượng quốc gia” hoặc tinh thần “Dinh Độc Lập cho vợ con ở thì to lớn mà Quốc Tổ thì không có đền thờ” như ông Đào Mộng Nam đã thống trách? Có phải là tinh thần “Xây tượng mẹ con bà Nhu mà lại bảo là tượng Hai Bà Trưng” như thi sĩ Đông Hồ đã mô tả để sinh viên nổi giận chặt đầu và xô sập? Có phải là tinh thần “Luật Gia Đình của bà Nhu để bênh vực một người đàn bà hư thân mất nết và làm đau khổ cho nhân tài Nguyễn Hữu Châu” như ông Nguyễn Thái đã ghi vào sách sử? Có phải là tinh thần “liên lạc và nạp thuế cho Việt Cộng để đốn cây chặt gỗ cho Ngô Đình Thục làm giàu” như Đỗ Thọ đã bất mãn? Có phải là tinh thần “giết người cướp của để Ngô Đình Cẩn xây lăng như lăng Vua Chúa” như Phan Nhật Nam đã mỉa mai? Có phải là tinh thần “hùn hạp với ba tàu Chợ Lớn để buôn thuốc phiện lậu và bắt dân hút thuốc phiện để dân so vai rút cổ” cho vợ chồng Ngô Đình Nhu tạo mãi tài sản đồ sộ và chuyển tiền ra nước ngoài? Có phải là tinh thần “trại giam Chín Hầm ở Huế và trại giam bí mật P42 ở Sở Thú Sài Gòn” mà học giả Lãng Nhân Phùng Tất Đắc đã tóm gọn trong lời truyền tụng dân gian qua tác phẩm Chơi Chữ để đời?
Hay có phải là tinh thần làm tay sai cho Tây gần trăm 100, làm tay sai cho Mỹ hơn 10 năm. Có phải là tinh thần tráo trở phản bội nhân dân miền Nam để thỏa hiệp với Cộng Sản. Có phải là tinh thần kỳ thị tôn giáo và kỳ thị địa phương, đạp tôn giáo khác xuống cho tôn giáo mình được lộng hành, đàn áp các thành phần dân tộc khác cho phe đảng mình được độc chiếm đặc quyền đặc lợi. Có phải tinh thần hủy diệt sinh lực quốc gia để tạo ra một tập đoàn Cần Lao giáo điều, hẹp hòi, ngoan cố.
Nhưng thật ra, cả cái “Phong Trào Phục Hồi Tinh Thần Ngô Đình Diệm” đó là do Thiệu sinh ra để phục vụ cho nhu cầu chính trị của Thiệu lúc bấy giờ. Nó là con ngoại hôn chính trị của Thiệu nên bản chất của nó là một sự lai giống giữa Diệm-độc-tài và Thiệu-quân-phiệt, không thương Diệm cũng chẳng lo cho Thiệu mà chỉ nghĩ đến mình:
... Đêm 11-11-1960 và ngày hôm sau khi dinh Độc Lập bị vây hãm, khi ông lâm vào cảnh nguy khốn, chẳng thấy một giới nào hay một nhóm nào can thiệp. Dân chúng kéo tới quanh những đoàn Nhảy Dù trên đường Thống Nhất nghe, nhìn, cười, nói, bán quà bánh tấp nập như trong ngày hội.
Chỉ sau khi bão đã qua cơn, thì lòng trung thành mới lại biểu lộ trong những buổi lễ Tạ Ơn long trọng và những bùi ngùi vấn an...[25]
Nó gồm những người như:
... ông con nuôi Cụ Diệm kéo lính về giết Cụ, rồi vài năm sau lại cho tổ chức “Trưng diện Cụ” long trọng. Viết làm sao khi ngài Dân biểu đồ đệ Cụ trong ngày 1-11-1963 thì trốn vào Mỹ, sau khi Cách mạng thành công thì bước ra chỉ điểm cho Cách mạng về tội lỗi Ngô Đình, rồi vài năm sau lại tổ chức “phục hưng tinh thần” Cụ.[26]
Vì chỉ là loại người như vậy cho nên thủ đoạn của họ cũng tráo trở như vậy: Một mặt, họ tách rời “Cụ” ra khỏi dòng họ Ngô Đình và ra khỏi chế độ vì họ biết những anh em dòng họ Ngô Đình và cái chế độ gia đình trị đó đã bị mọi người phỉ nhổ. Nhưng tách rời làm sao được khi chính “Cụ” là Tổng thống, là người lãnh đạo, là người độc quyền cầm nắm và chịu trách nhiệm về những quyết định sinh tử ở miền Nam trong 9 năm bạo trị. Mặt khác, trong khi dùng thủ đoạn tách rời cái xấu ra thì trong những buổi Cầu hồn họ lại quỷ quyệt cho “Cụ” đứng chung với những cái chết anh hùng “của các chiến sĩ chiến đấu cho Tự Do và cho những nạn nhân đã bỏ mình trong lúc tị nạn Cộng Sản”, để lập lờ đánh lận con đen như đang đánh bài ba lá.
Lễ cầu hồn cho ông Ngô Đình Diệm, nếu chỉ được tổ chức trong tinh thần báo ân báo hiếu là một việc mà nhóm Cần Lao Công Giáo cần phải làm để đền ơn đáp nghĩa cố Tổng thống Ngô Đình Diệm mà họ vẫn còn coi như lãnh tụ “anh minh” của họ. Ngay cả đối với hai bạo chúa như Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn nhóm Cần Lao Công Giáo cũng nên làm lễ tưởng niệm theo tinh thần Thái Ung đã thương tiếc Đổng Trác.
Người Việt dân tộc mà đại đa số đã là nạn nhân của chế độ Diệm suốt 8, 9 năm trời có ai nỡ chống đối việc cúng kỵ thương tiếc anh em ông Diệm đâu. Truyền thống Nghĩa tử là nghĩa tận, truyền thống Vu Lan của nền Tam giáo mấy ngàn đời đã là những yếu tố tạo cho người Việt tâm tình khoan hòa đối với những người quá cố, dù những người quá cố đó từng là kẻ thù của họ.
Cầu hồn cho ông Ngô Đình Diệm là một việc nên làm vì nó phản ảnh cái truyền thống Đông Phương về luật nhân quả và về sự tương hệ giữa người sống và người chết. Không có gì đáng trách khi có những kẻ ăn cây nào rào cây ấy, đã từng được ơn mưa móc thì bây giờ nên thừa tự cúng tế. Nhưng từ đó mà lấy tình cảm riêng tư của mình để dùng ma thuật chính trị, công khai làm sống lại một cái tinh thần Hoàng Sào thì vừa tội nghiệp cho ông Diệm vừa khinh rẻ đồng bào!
Từ năm 1983, Nguyễn Văn Thiệu bắt đầu có những vận động để tái xuất hiện trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Cũng từ năm 1983, hai cuốn sách của Cao Thế Dung (“Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống”) và Cao Văn Luận (“Bên Giòng Lịch Sử”) được tái bản tại hải ngoại. Tội nghiệp những kẻ tội đồ đang lội dòng nước ngược để mong thành lập một “cộng đồng Diệm không Diệm tại hải ngoại” mà không biết rằng khơi lại đống tro tàn của quá khứ chỉ làm cho quá khứ hiển lộ rõ thêm cái tội ác làm sụp đổ miền Nam của chế độ Diệm và những gian dối, ngụy tạo, xuyên tạc, vu khống... của hai tác giả Cần Lao Công Giáo mà thôi. (Xem “Lột Mặt Nạ Những Con Thò Lò Chính Trị” của Lê Trọng Văn).
Đó là chưa nói đến vấn đề việc làm của họ đóng góp được gì cho đại cuộc Cứu nước để Dựng nước hôm nay. Một phong trào chính trị phục hồi chế độ Diệm có tạo được đoàn kết ở ngoài nước không? Có được sự yểm trợ của 60 triệu đồng bào trong nước không? Có bị kẻ thù và đồng minh khai thác không? Có khơi dậy những oán thù cũ mà các thành phần dân tộc nạn nhân đã nhắm mắt bỏ qua không?
Chỉ trừ ra họ quan niệm Nước đã mất rồi, xin chọn xứ người làm quê hương, nên chỉ nhằm đến việc gây dựng lực lượng ở “Quê hương mới” hầu chiếm ưu thế mà trả thù xưa. Đối với họ, Nước, miền Nam, là hai chế độ Cộng Hòa, nên khi chế độ mất, lãnh tụ mất là nước mất.
Nước mất rồi thì cho Diệm và cho Thiệu sống lại để xây đắp một thứ tinh thần “Quốc Tổ mới” ở đất người nhưng quê mình !
Chú thích
[1] Linh Mục Nguyệt san số 105, trang 618, 619, Sài Gòn 1970. Trích lại trong “Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo”, trang 375, Sài Gòn 1972.
[2] Kỷ Yếu Đại Hội Văn Hóa Giáo Dục Phật Giáo Kỳ III, tr. 555, Sài Gòn 1970.
[3] Stanley Karnow, Vietnam: A History, tr. 339, 1983.
[4] Nguyễn Minh Bảo, Đời Một Tổng thống, mục “Những 2 tháng 11 về sau”, Sài Gòn 1971.
[5] Wesmoreland, A Soldier’s Report, Doubleday and Co. Inc., tr. 52, New York, 1976.
[6] Văn Hóa Văn Nghệ Miền Nam Dưới Chế Độ Mỹ Ngụy, tập 2, tr. 103, Hà Nội, 1979.
[7] William J. Leiderer, Our Own Worst Enemy, tr. 167-172, 1968.
[8] William J. Leiderer, Our Own Worst Enemy, tr. 167-172, 1968.
[9] Luật sư Huyền đắc cử Nghị sĩ nhiệm kỳ 1967-73 nhưng năm 70 rút thăm, ông phải ứng cử lần thứ nhì cho nhiệm kỳ 70-76, rồi năm 73 rút thăm ông lại phải ứng cử lần thứ ba với Đinh Từ Thức cho nhiệm kỳ 73-79 nhưng bị Thiệu bác bỏ liên danh.
[10] Nguyệt san Hành Trình, số 10, tr. 30, 31, ngày 19/1/1979, phát hành tại Washington DC.
[11] Linh mục Vũ Đình Hoạt, Đầu Trộm Đuôi Cướp, Văn Nghệ Tiền Phong, số 105, tr. 18-20, Virginia, Hoa Kỳ.
[12] Xem thêm “Bản Cáo Trạng số 1” của Phong Trào Chống Tham Nhũng trong “Những Ngày Cuối Cùng Của VNCH”, Nguyễn Khắc Ngữ, sđd, tr. 417.
[13] Cao Văn Luận, Bên Giòng Lịch Sử, tr. 369.
[14] Hoàng Văn Chí, Từ Thực Dân Đến Cộng Sản, sđd, tr. 58, 59.
[15] Dennis Warner, The Last Revolution, sđd, tr. 236.
[16] Nguyễn Khắc Ngữ, Những Ngày Cuối Cùng Của Việt Nam Cọng Hòa, sđd, tr. 283.
[17] Tuần Báo Ngày Nay, số 99, Trang A, ngày 1/10/1985, Huntington Beach.
[18] Cao Văn Luận, Bên Giòng Lịch Sử, sđd, tr. 363.
[19] Nguyễn Minh Bảo, Đời Một Tổng Thống, sđd.
[20] Lyndon Johnson, Vantage Point, sđd, tr. 493, và Kissinger, Marvin Kalb và Bernard Kalb, Canada, 1974, tr. 120.
[21] Việt Báo, số 1, ngày 15/7/1976 và số 4 ngày 1/9/1977, Washington DC.
[22] Nguyễn Khắc Ngữ, Những Ngày Cuối Cùng Của Việt Nam Cọng Hòa, sđd, tr. 351-354.
[23] Robert Shaplen, The Cult of Diem, The New York Times, số ngày 14/5/72, tr. 1-9.
[24] Phan Nhật Nam, Tù Binh và Hòa Bình, Hiện Đại, 1973, tr. 418.
[25] Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên, sđd, tr. 233.
[26] Ngày 1-11, Một Vòng Ta Bà, Việt (San Jose) số 5, tr. 5 và 6.